- QUA CẦU MỸ THUẬN NHỚ MÊNH MANG
“Bâng khuâng trời rộng
nhớ sông dài”
(Huy Cận)
Tôi có hạnnh phúc là
được đi một trong những chuyến phà cuối cùng trước khi cầu Mỹ Thuận
được phép lưu thông. Nói hân hạnh là vì được ngắm cái mới từ vị
trí không gian cũ, để rồi hôm nay đi qua cầu mới, nhìn lại khung trời xưa
cũ với ít nhiều nỗi niềm hoài vọng không tên. Trong đời có những cơ
may như thế, tưởng không phải dễ! Hai
lần đi Bắc, lần đầu qua sông Gianh trên một chuyến phà để ngắm nhìn
cầu mới vừa được hợp long. Những đêm đứng bâng khuâng trên nửa nhịp
còn lại của cầu Cẩm Lệ, nay nhịp cầu ấy cũng không còn. Những chiếc
cầu khỉ bắt ngang những dòng kênh Nam Bộ nay đã mất dần. Rồi những
chuyến phà chở đầy kỉ niệm qua bắc Rạch Miễu, Hàm Luông, Cần Thơ, Vàm
Cống, Cao Lãnh ở miền Nam, sông Hồng, sông Đuống, sông Gianh ở miền Bắc
cùng những chuyến đò ngang qua Trà Khúc, Vu Gia, Thu Bồn, sông Hương, sông
Hoài và sông Hàn vắt ngang qua phố Đà của miền Trung ruột thịt. Hôm nay
lại qua cầu Mỹ Thuận, chợt nhớ câu thơ của Hoàng Trúc Ly da diết:
- “Tôi đứng bên bờ dĩ
vãng
- Thương về con nước ngại
ngùng xuôi…”
Thương
về con nước, ôi con nước khi đong đầy phù sa cho những bến bờ hoàng
hôn vàng chân cát mịn; ôi con nước khi cạn cùng bùn vẩn để những chuyến
đò khuya khoắt nặng gót bùn đen. Con nước có đôi lần chững lại để
dân xứ Tháp Mười mênh mang một nỗi cơ hàn ngập lũ. Con nước cũng mấy
độ mưa qua cho du tử Ta Bà rưng rưng những niềm nhớ thương tràn cốc. Cũng
trên con nước này, một đêm trăng thanh gió mát, dăm người bạn tâm đầu
chèo thuyền hứng sương đổ ấm nấu trà, vỗ mạn thuyền mà ngâm thơ Tô
Đông Pha trên dòng Xích Bích thuở nọ:
- “Quế trạo hề lan tương
- Kích không minh hề tố lưu
quang
- Diễu diễu hề dư hoài
- Vọng mỹ nhân hề
thiên nhất phương”
- Người xưa thường nói:
“ Trà tam tửu tứ du hành nhị”. Nhưng có một du tử vẫn thường độc
hành qua những bến bờ sơn thủy. Soi bóng mình qua đáy nước, noi chí
Thánh tự trời cao, để cảm hết được nỗi cô đơn cùng cực và niềm
yêu vô bờ giữa trần gian nhập nhòa mộng thực. Cũng trên con nước này
mới cảm hết được câu thơ của Hàn Mặc Tử:
- “Mây chết đuối giữa
dòng sông vắng lặng
- Trôi thây về xa tận cõi
vô biên.”
Cũng trên con nước này
mới uống hết được ngụm Tràng Giang của Huy Cận:
“Củi một cành khô lạc
mấy dòng”
hay :
- “Bèo dạt về đâu hàng
nối hàng
- Mênh mông không một chuyến
đò ngang
- Không cầu gợi chút niềm
thân mật
- Lặng lẽ bờ xanh tiếp
bãi vàng.”
Tôi
không biết Huy Cận viết bài Tràng Giang ở đâu. Một thi nhân miền Bắc
thời tiền chiến nhưng hình ảnh của “Tràng Giang” lại là hình ảnh của
Cửu Long Giang. Nếu không phải Huy Cận lấy hình ảnh từ một Mịch La của
Khuất Nguyên, một “Yên ba giang thượng” của Thôi Hiệu, một Xích Bích
của Tô Đông Pha, Trường Giang Tam Hiệp của những thi nhân Đường Tống
hay sông Dương Tử qua cái nhìn của nữ văn sĩ Mỹ Pearl Buck, thì hình ảnh
ấy phải là của Cửu Long Giang. Sông nước miền Bắc và miền Trung Việt
Nam hẳn không có “Tràng Giang” như thế.
“Lòng quê dờn dợn vời
con nước
Không khói hoàng hôn cũng
nhớ nha.ø”
Tản Đà dịch hai câu
thơ cuối của “Hoàng Hạc Lâu” tuyệt bút đến đâu cũng không thể
sánh với con nước dờn dợn của Huy cận giữa chiều hôm bảng lảng. Bà
Huyện Thanh Quan nhìn thấy “Gác mái ngư ông về viễn phố”, không gian
còn nhỏ lắm. Chỉ có “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” của Huy Cận
mới làm cho hồn hoang của hoàng hôn trĩu nặng. Có một ca từ của Trịnh
Công Sơn có thể sánh với câu thơ này về hình ảnh: “Con diều rơi cho vực
thẳm buồn theo” (“Tôi ơi đừng tuyệt vọng”). Nhưng nỗi buồn của
người họ Trịnh đầy hiện sinh và bi đát, còn nỗi buồn của Huy Cận mới
là nỗi buồn của tình tự quê hương. Thơ không còn đủ nuôi người ta sống,
nhưng thơ cp1 thể nuôi người ta lớn. Cảm thức đọng lại trong thơ từng
được chắt chiu qua bao bến bờ đi đến, để hôm nay đứng trên cầu Mỹ
Thuận còn thương biết mấy chuyến phà xưa.
Cũng
trên chuyến phà này, một cô bé bán hàng rong nhất định không chịu lấy
tiền gói xôi biếu người xa lạ – đời ơi, còn những tấm lòng. Cũng
trên chuyến phà này, gã ăn mày ngưng đàn ngả nón cầu xin chút tình du tử
– móc túi ra toàn bản thảo thơ. Cũng trên chuyến phà này, có một bà mẹ
đi tìm con trên vạn ngã đời. Gặp nhau ngấn lệ lưng tròng: “ Về thôi
con!”. “Không mẹ ạ! Con phải đi, thế nào rồi cũng có ngày về.”. Rồi
cùng trên chuyến phà này, mười năm sau nghe tin mẹ mất – nước sông
Hoài sao chảy mãi về Đông? (1). Nước sông ngàn đời chảy trôi
ra biển, mà nỗi lòng này sao chưa thấy chảy về đâu?
Ngày
xưa qua bắc Mỹ Thuận, có lúc kẹt phà phải đợi đến ba tiếng đồng hồ.
Ngày nay cầu Mỹ Thuận đã thành chiếc cầu hiện đại nhất ở Việt
Nam. Xe phù qua trong mấy phút. Một lần được đứng lại bên cầu, làm
sao khỏi miên man nhớ về những chuyến phà xưa cũ? Người ta thường nói:
“nhịp cầu nối những bờ vui”. Còn đối với tôi thì : “nhịp cầu
giã từ những khung trời xưa cũ”. Không phải hoài cựu là phản đối cái
mới. Cầu Mỹ Thuận ngày nay là chiếc đòn gánh gánh cả nền kinh tế lưu
vực đồng bằng sông Cửu Long. Điều ấy là vô cùng cần thiết. Sự tiến
bộ bao giờ cũng cần thiết, nhưng nó cũng không hề cản ngăn tôi tiếc
nhớ những gì đã qua, đã nuôi tôi lớn lên nhiều năm tháng. Như đồi Cù
Đà Lạt từ ngày bán cho Tây làm sân golf chẳng hạn, làm sao khiến tôi khỏi
nhớ về những chiều sương ám phủ trên triền đồi tím ngát dặm lữ
thu xưa. Nghe đâu mai mốt chuyến phà Rạch Miễu cũng không còn khi dự án
bắt cầu qua tỉnh Bến Tre đã trở thành khả thi trong vài năm tới. Con
người có thể làm được nhiều chuyện to tát như thế, nhưng chiếc cầu
lại là nhân chứng bi tráng nhất cho chuyện vật đổi sao dời. Thương hải
tang điền đã ghi dấu ấn hằn lên trang văn học sử thế giới. Tôi nhớ
nhịp cầu Hawaii do những tù binh Anh thi công hồi chiến tranh phát xít Nhật,
rồi cũng chính họ giật sụp chiếc cầu này khi một chiếc xe lửa đi
ngang. Nhịp cầu trên sông Drina của Ivo-Andritch còn in đậm trong hồn tôi
còn hơn những biến cố chiến tranh thế giới. Bao nhiêu đời rồi người
lái đò ước ao một chiếc cầu bắt ngang dòng sông định mệnh, để rồi
chiếc cầu cũng được biến thành nhân chứng của mọi sự biến thiên:
chiến tranh, tình yêu, lẽ sống, nỗi chết. Để một lần người nghệ
sĩ dừng lại bên cầu nhớ chuyến đò xưa. Hạnh phúc và đau khổ đều cần
thiết cho cuộc đời, cho những ai biết nghe ra giai điệu luân lưu của tồn
sinh vạn hữu.
Tôi
xuống xe lội bộ qua cầu Mỹ Thuận tuyệt đẹp từ phía Vĩnh Long qua bên
Tiền Giang thơ mộng. “Nắng chia nửa bãi chiều rồi” (Huy Cận), “Con
cò trên ruộng cánh phân vân” (Xuân Diệu). Vẫn chiếc nâu sòng sạm vạt,
tôi ngâm tràn mấy câu thơ của Hoài Khanh mà thấy lòng bịn rịn quá đi
thôi:
- “Rồi em lại ra đi như
đã đến
- Dòng sông kia cứ vẫn chảy
xa mù
- Ta ngồi lại bên cầu thương
dĩ vãng
- Nghe giữa hồn cây cỏ
mọc hoang vu”.
Quý
Đông Tân Tỵ.
DTT.
(1): Trong bài “Hỏi nước
sông Hoài”(Vấn Hoài thủy) của Bạch Cư Dị viết:
- “Tự ta danh lợi khách
- Nhiễu nhiễu tại nhân
gian
- Hà sự trường Hoài thủy
- Đông
lưu diệc bất nhàn”
http://www.buddhismtoday.com/viet/vanhoc/caumythuan.htm