Nghiên cứu môtip truyện cổ tích dân gian là một công việc hết sức quen
thuộc song cũng đầy thử thách đối với các nhà nghên cứu. Để tìm hiểu nguồn
gốc, xuất xứ của một môtip, các nhà nghiên cứu buộc phải vận dụng phương
pháp nghiên cứu liên ngành để có thể đưa ra những kết luận thuyết phục.
Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi thử đi từ kinh điển, điển tích Phật giáo
để tìm hiểu về nguồn gốc môtip chiếc nêu thần kỳ trong truyện cổ Thạch
Sanh, một truyện cổ rất quen thuộc đối với người Việt. Qua tìm hiểu,
chúng tôi nhận thấy môtip này tương đồng với môtip chiếc bát mầu nhiệm ở
trong kinh điển Phật giáo. Rất có thể môtip chiếc nêu thần kỳ xuất phát từ
trong kinh Phật…
Nhắc đến chiếc nêu thần kỳ, dường như ai cũng nghĩ ngay đến chiếc nêu của
Thạch Sanh. Thạch Sanh cưới được công chúa đã làm cho hoàng tử các nước
chư hầu ganh tị. Chúng hội họp quân lính 18 nước sang giao chiến. Nhưng
nhờ tiếng đàn, Thạch Sanh đã khiến cho quân lính 18 nước rã rời, không còn
ý chí chiến đấu. Bọn hoàng tử phải nhất tề cuốn giáp. Song Thạch Sanh đã
hào hiệp sai dọn cơm mời họ. Chàng đem ra một nêu cơm bé tẹo khiến cho
quân lính bĩu môi không buồn cầm đũa. Biết ý, Thạch Sanh đố họ ăn hết cơm
thì sẽ có thưởng. Kỳ diệu thay, nêu cơm múc vơi bao nhiêu lại đầy bấy
nhiêu…
Tuy nhiên, trong truyện Từ Đạo Hạnh hay Sự tích Thánh Láng mà chúng
tôi khảo sát, môtip chiếc nêu thần kỳ cũng xuất hiện và có sự tương đồng
rất lớn so với nêu cơm của Thạch Sanh. Khi vua Lý Thần Tông bị bịnh lạ,
không thầy thuốc nào chữa được, xảy ra việc đám trẻ chăn trâu hát bài đồng
dao: “Tập tầm vông! / Có ông Nguyễn Minh Không / Chữa cho vua khỏi hóa
/ Tập tầm vá! / Muốn chữa vua khỏi hóa / Phải đón Nguyễn Minh Không”,
triều đình phái một viên võ tướng mang 500 quân xuống 10 chiếc thuyền lớn,
xuôi về miền biển triệu Nguyễn Minh Không. Đến nơi, Nguyễn Minh Không cho
thịt một con chim sẻ rồi sai tiểu đun bếp. Đám quân sĩ bật cười vì cái nồi
tí tẹo. Nhưng khi mọi người sắp hàng trước hai cái nồi đất tí hon, một nồi
đựng cơm, một nồi đựng thịt chim sẻ, lần lượt xới cơm và gắp thịt, hai
chiếc nồi cứ vơi hết bao nhiêu lại đầy bấy nhiêu…
Bản kể trên là của Nguyễn Đổng Chi - không hiểu ông sưu tầm từ nguồn tài
liệu nào mà có đến hai cái nêu tí hon cùng với hình ảnh vị hòa thượng làm
thịt chim sẻ để đãi khách. Lĩnh Nam chính quái, bản của Vũ Quỳnh và
Kiều Phú, do Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San dịch, chỉ nói gọn rằng: “Minh
Không thấy sứ giả đến, trong thuyền có rất nhiều lính chèo thuyền, muốn
dọn cơm chay cho ăn, bèn lấy một cái nồi nhỏ đem cho họ cùng ăn, bảo họ
rằng: “anh em đông quá sợ không đủ no bụng, tạm ăn vậy”. Thế mà bọn lính
chèo thuyền hơn một trăm người cùng ăn cũng không sao hết”. Dễ dàng nhận
thấy rằng bản kể trong Lĩnh Nam chính quái thuyết phục hơn, đồng
thời cũng gần với môtip chiếc nêu thần kỳ của Thạch Sanh hơn. Về môtip này,
Hoa Bằng, sau khi đặt vấn đề nghi vấn về nguồn gốc chiếc nêu thần kỳ của
Thạch Sanh và so sánh với truyện thiền Sư Nguyễn Minh Không, đã cho rằng:
“Sau khi nhắc lại nêu cơm của Nguyễn Minh Không, chắc các bạn cũng như tôi,
ta đề thừa nhận rằng nêu cơm của Thạch Sanh sau này là bắt nguồn từ nêu
cơm của Nguyễn Minh Không ngày trước, không ai còn có thể chối cãi được
nữa”[1].
Kết luận của Hoa Bằng có lẽ khiến cho một số người đọc sẽ đặt lại nghi vấn
về mốc thời gian “ngày trước” và “sau này”, vì kỳ thực, chưa ai có thể
khẳng định được truyện Thạch Sanh của người Việt xuất hiện từ lúc
nào; còn bản truyện thơ Nôm Thạch Sanh thì xuất hiện khá trễ, khoảng nửa
cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX[2].
Trong khi đó, một số dân tộc khác cũng có môtip nêu cơm thần kỳ ăn mãi
không hết. Người Bahnar có truyện Y Rít, kể chuyện người con gái
nuôi của Y Rít thổi cơm cho bọn lính ăn bằng cái nồi bé tí, nhưng bọn lính
ăn đến tức cả bụng mà nồi vẫn đầy. Người Ê-đê cũng có truyện một em bé tên
Nồi (Gơ-la), vì em đen như nhọ nồi. Nồi gọi người mang thai và sinh ra
mình là “bà nội”, bởi bà lão ăn phải trái xoài trên rừng mà mang thai rồi
sinh ra em. Nồi có nhiều phép lạ, như hôm làm tiệc đãi làng, em chỉ đưa ra
một cái bát cá mà người trong làng ăn mãi không hết. Dân tộc Trung Quốc
cũng có truyện về Tả Từ, Từ có rất nhiều phép thuật. Một hôm Từ gặp Lưu
Biểu đang duyệt binh ở Kinh Châu, Từ nói: - Tôi có lễ mọn muốn khao ba
quân. Biểu hỏi: - Khao những gì? - Một bữa no say, Từ đáp. Biểu nhận lời.
Từ đem ra một bầu rượu và một cái nem, vậy mà ba quân chia nhau ăn uống no
say không hết. Về hình ảnh đồ vật tuy ít mà dùng mãi không hết, trong
Thánh Kinh cũng có truyện Jê Su mấy lần trong tay chỉ có dăm cái bánh
và vài con cá, phân phát cho cả trăm ngàn dân chúng, ai cũng no nê mà bánh
vẫn còn thừa đến mấy sọt đầy[3].
Trở lại nhận xét của Hoa Bằng, ông cho rằng nêu cơm Thạch Sanh có nguồn
gốc từ tiểu truyện thiền sư Nguyễn Minh Không; nhận xét tuy chưa thật
thuyết phục song không phải không có ít nhiều nguyên cớ. Bởi lẽ trong các
truyện tích Phật giáo Việt Nam cũng như Ấn Độ, môtip chiếc nêu (hay chiếc
bát) thần kỳ xuất hiện khá nhiều. Ở làng Bối Khê, huyện Thanh Oai, Hà Đông
có câu chuyện về Sự tích Bồ tát Chân Nhân. Truyện kể rằng: Bồ tát
thuê một trăm người thợ dựng ngôi chùa lớn ở núi Tiên Lữ. Đến bữa, Bồ tát
chỉ thổi một nêu cơm nhỏ rồi dặn: - Khi cơm chín mọi người cứ bới ra rá để
tôi còn về quê lấy tương cà làm thức ăn. Ai nấy đều không nhịn được cười
vì nồi cơm nhỏ xíu, quê sư thì lại ở quá xa. Thế nhưng cơm vừa chín tới
thì sư cũng vừa về, cầm một lọ tương, một lọ muối. Đến khi mọi người bới
cơm ra, ăn mãi không hết, bởi bới bao nhiêu nêu cơm lại đầy bấy nhiêu.
Truyện Bốn cô gái muốn lấy chồng Hoàng tử của ta cũng có hình ảnh
Bụt cho bốn cô gái một vại tiền và một vại gạo (vại chứ không phải nêu),
lấy vơi bao nhiêu lại đầy lên bấy nhiêu. Cổ tích và phật thoại Ấn Độ cũng
có truyện kể về Du-đích-thi-ra nhận được của mặt trời một nồi đồng lấy ra
rau, thịt, cá vô tận; và Mác-nu-da vâng lệnh Phật sai đi quyên giáo không
được gì, bỗng chốc thấy xuất hiện năm trăm bát đầy thức ăn; lại nhờ phép
Phật mà hiện ra trước một nghìn tỳ kheo, mỗi người một bát đầy…[4]
Tìm hiểu kinh văn chính thống của Phật giáo, chúng tôi nhận thấy kinh
Hoa Nghiêm, bộ kinh đại thừa nổi tiếng của Phật giáo, được Bồ tát Long
Thọ soạn tập vào khoảng thế kỷ thứ II, ngài Giác Hiền dịch sang tiếng Hán
năm 418, cũng có hình ảnh chiếc bát thần kỳ rất giống với những môtip trên.
Phẩm Nhập pháp giới thứ 39, đoạn Thiện Tài đồng tử đi đến thành Hải
Trụ tìm tới nhà Ưu bà di Cụ Túc trong kinh Hoa Nghiêm chép rằng:
Trong nhà Ưu bà di Cụ Túc không có y phục, không có đồ uống ăn và không có
tất cả các đồ tư sanh khác, trước mặt Ưu bà di chỉ để một cái bát nhỏ.
Thiện Tài bạch hỏi: - Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà
chưa biết Bồ tát học Bồ tát hạnh, tu Bồ Tát đạo thế nào? Tôi nghe đức
Thánh khéo dạy bảo, xin giảng nói cho. Ưu bà di Cụ Túc nói : - Này thiện
nam tử! Ta được môn giải thoát Bồ tát vô tận công đức tạng. Có thể ở trong
một cái bát nhỏ này, tùy theo sở thích của tất cả chúng sanh, mà xuất hiện
các thứ đồ uống ăn ngon lành, làm cho họ đều được no đủ cả. Giả sử có trăm
chúng sanh, ngàn chúng sanh nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết chúng
sanh, giả sử có Diêm phù đề vi trần số chúng sanh, tứ thiên hạ vi trần số
chúng sanh, Tiểu thiên thế giới, Trung thiên thế giới, Ðại thiên thế giới,
nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh, giả
sử tất cả chúng sanh cùng khắp mười phương thế giới, cũng đều tùy sở thích
làm cho họ được no đủ cả. Mà trong bát nhỏ này, đồ dùng không cùng tận,
không giảm ít.
Theo những cứ liệu nêu trên, có thể nhận thấy hình ảnh chiếc nêu (hay
chiếc bát) thần kỳ xuất hiện chủ yếu trong các kinh văn, kinh truyện nhà
Phật và một số tích truyện của nước ta cũng như Trung Hoa - những đất nước
ảnh hưởng mạnh mẽ văn hóa Phật giáo. Tuy nhiên tập trung nhất vẫn là trong
kinh điển Phật giáo, vì vậy, bước đầu có thể đặt ra giả thuyết về nguồn
gốc Ấn Độ của môtip chiếc nêu (hay chiếc bát) thần kỳ này. Nguyễn Đổng Chi
cho rằng truyện Thạch Sanh “có chứa đựng những mô-típ phổ biến của
quốc tế nhưng sắc thái biểu hiện thì có nhiều nét gần gũi với truyện Ấn-độ,
có lẽ bắt nguồn từ Ấn-độ”[5].
Mặc dầu tác giả bộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam không chú ý đến
môtip chiếc nêu thần kỳ, song nhận xét của ông không phải không dựa trên
những tư liệu xác thực. Và giả thuyết của chúng tôi phải chăng cũng đã góp
phần khẳng định thêm cho nhận xét ấy? Cụ thể hơn, chúng tôi đồ rằng hình
ảnh chiếc nêu (hay chiếc bát) rất có thể xuất phát từ thần thoại Ấn Độ và
được Phật giáo tiếp nhận, tô đậm và truyền bá sang một số nước thông qua
quá trình truyền giáo. Bởi về vật thần kỳ có chức năng ban phát cho mọi
người đầy đủ phẩm vật rất gần với tinh thần bố thí của đạo Phật. Khảo sát
bộ Jataka (chuyện tiền thân đức Phật), có thể thấy hạnh bố thí được
đề cao hơn cả, trong đó có những kiếp đức Phật không chỉ bố thí nhà cửa,
tiền bạc mà còn bố thí cả vợ con, thân thể. Trong lục độ (sáu hạnh vượt bờ,
gồm: bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ) của
Phật giáo, bố thí được đưa lên hàng đầu. Chúng tôi cũng đồ rằng hình ảnh
chiếc nêu (bát) thần kỳ có hình thức ban đầu là chiếc bát chứ không phải
chiếc nêu. Bởi chiếc bát là vật thiết thân của một tu sĩ Phật giáo; mỗi tỳ
kheo thường có ba vật bất ly thân, gồm: y, bát và chiếc đãy lọc nước,
trong đó chiếc bình bát được vị tỳ kheo “gìn giữ cẩn thận như giữ tròng
con mắt” của mình. Chiếc bát của vị tỳ kheo thâu nhận vô số phẩm vật, vì
thế nó cũng có thể ban phát vô số phẩm vật. Công đức của bố thí không thể
nghĩ lường, nên phẩm vật bố thí sẽ không bao giờ cạn. Đó không chỉ là hạnh
nguyện của Bồ tát cứu độ chúng sanh mà còn là ước muốn ban đầu của dân
gian khi họ đến với đạo Phật. Trên đây là giả thuyết mà chúng tôi tạm đưa
ra để định hướng cho một công trình nghiên cứu sâu hơn về môtip này.
Tóm lại, hình ảnh chiếc bát trong kinh điển Phật giáo đến chiếc nêu trong
truyện cổ dân gian đã có một khảng cách nhất định. Mặc dầu chiếc bát và
chiếc nêu cùng có một chức năng thần kỳ là lấy vơi lại đầy, tuy nhiên có
thể thấy rằng chiếc bát trong kinh điển Phật giáo không phải tự thân chúng
thần kỳ mà là ở công đức, phước trí của người sử dụng, còn chiếc nêu trong
truyện cổ dân gian mầu nhiệm ở ngay chính bản thân nó. Sở dĩ có sự khác
biệt này là do cách nghĩ đơn giản của dân gian khi tiếp nhận giáo lý đạo
Phật. Trong cách nghĩ giản đơn ấy, dân gian cảm nhận sự mầu nhiệm của
chiếc bát - chiếc nêu như là một sự ban thưởng hơn là kết quả của quá
trình tu tập, tích lũy công đức, phước trí dài lâu của hành giả để có thể
tạo ra được sự mầu nhiệm ấy. Lý giải được hiện tượng này, chúng ta có thể
lý giải được nhiều hiện tượng dân gian hóa Phật giáo khác và xem đây như
là một hiện tượng văn hóa tất yếu một khi Phật giáo muốn thiết lập cơ chế
bản địa hóa, đặt nền tảng vững chắc trong lòng dân tộc.
[1]
Nhiều tác giả (2004), Nghiên cứu Văn - Sử - Địa (1954 - 1959) -
Những vấn đề lịch sử ngữ văn (quyển II) - Văn học dân gian - lý luận,
phê bình và lịch sử văn học, ngôn ngữ học, Nxb KHXH, Hà Nội,
tr.120.
[2]
Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá
(2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế Giới, tr.1624.
[3]
Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (tập
1- 5), Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.838.
[4]
Nguyễn Đổng Chi, Sđd, tr.838-839.
[5]
Nguyễn Đổng Chi, Sđd, tr.1677.
http://www.buddhismtoday.com/viet/vanhoc/chiecbat_phatgiao.htm