Con
ngựa Nê Thông của
Hoàng
đế Trần Duệ Tông
Bác
sĩ Hồ
Đắc Duy
Nê
Thông là con ngựa của Hoàng đế Duệ Tông ,
một con tuấn mã cực kỳ hiếm hoi , con ngựa mà nhà vua đã cưỡi
khi thân chinh tiểu phạt quân Chiêm Thành cách đây hơn sáu thế kỷ
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư quyễn VII trang 161 chép :
Tháng 12, năm Bính Thìn ( 1376 ) vua thân đi
đánh Chiêm Thành, dẫn 12 vạn quân xuất phát từ kinh sư.... Sai Lê Quý Ly
đốc thúc Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa chở lương cấp cho quân.
Trước
đây, chúa Chiêm Thành là Chế Bồng Nga quấy rối biên giới, vua sai hành
khiển Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ Hoá Châu. Chế Bồng Nga đem 10 mâm
vàng dâng vua. Tử Bình im đi, cướp là của mình, nói dối là Bồng Nga ngạo
mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Vua giận lắm, quyết ý thân chinh. Bấy giờ,
quan quân đến cửa biển Di Luân (thuộc Quảng Bình), các quân vượt biển
mà tiến. Vua cưỡi ngựa dẫn quân bộ men theo bờ biển, đến cửa biển
Nhật Lệ đóng quân lại, tập luyện một tháng.
Năm
Đinh Tỵ (1377) mùa xuân tháng giêng, ngày 23 đại quân tiến cửa Thị Nại
(cảng Quy Nhơn, Bình Định) rồi đóng quân ở động Ỷ Mang.
Chế
Bồng Nga dựng trại bên ngoài thành Đồ Bàn
Ngày
24 vua mặc áo đen, cưỡi ngựa nê thông , sai Ngự Câu vương Húc mặc áo
trắng, cưỡi ngựa trắng, kịp truyền lệnh tiến quân.
Đại
tướng Đỗ Lễ can
Vua
nói :
-“Ta mình
mặc giáp cứng, tay mang gươm sắc, dãi gió dầm mưa, lội sông trèo núi
vào sâu trong đất giặc, không ai dám đương đầu với ta. Thế là cái cơ
trời giúp ta đó. Huống chi, nay chúa giặc nghe tin đã chạy trốn, không
còn lòng dạ đánh nhau. Cổ nhân cũng có nói : “Dùng binh qúy ở thần tốc”.
Nay nếu dừng lại không tiến, thì thực là trời cho mà không lấy, để nó
lại cơ mưu khác thì hối sao kịp.....”
Ngựa
trong đời sống và văn hóa Việt Nam
Trong
lịch sử nước ta thì ngựa và voi là hai con vật đặt biệt yêu mến , nó góp phần trong
các chiến thắng vẽ vang chống ngoại xâm
Trong
quá khứ người ta đã đặt ra hai cơ quan để chăm sóc , nuôi dưỡng và
huấn luyện hai con vật này đó là Viện Tượng chính và Mã chính
Năm
1509 Vua Lê Uy Mục cho đặt hai Giám ti Ngự Tượng
và Ngự Mã
Trong
Khâm định Đại Nam Hội Điễn Sự Lệ của Quốc Sử Quán triều Nguyễn
đã dành riêng một quyễn 175 để quy định
về vấn đề Mã chính bao gồm ngạch ngựa , chăn nuôi ngựa,
kén chọn ngựa, khám nghiệm ngựa, diễn ngựa , trang sức cho ngựa.....
Ngựa
nuôi ở kinh thành thì thuộc vào viện Thượng Tứ , ở nhà trạm men đường
ngoài các tỉnh thuộc các thành , trấn , đạo sở tại...
Ngựa
để dùng trong thông tin liên lạc khác với ngựa trong việc vận chuyễn
kéo xe lại càng khác xa với ngựa chiến... , người xưa đã phân định rất
rõ ràng vai trò trách nhiệm cho các viên quản mục , viên biền cai quản từng
loại ngựa , đặt ra chức y sinh để coi sóc , điều trị bệnh cho ngựa ,
giúp ngựa lúc sinh nỡ như các thú y sĩ chuyên trách về ngựa bây giờ
Trên
hết trong tất cả loại ngựa quí là ngựa dành cho Hòang đế ,cho các đại
tướng khi ra trận , nếu như ở Trung Hoa có con Xích Thố của Lữ Bố,
con Đích Lư của Lưu Bị, Hô Lôi Báu của Thượng Sĩ Đồ , con Marly của
Guillaume tại Champs – Elysés – Paris
thì trong bộ sử Đại Việt sữ Ký
Toàn Thư thì ngựa cũng đã dược ghi
chép nhiều nơi như trang 133 ghi rằng : “ Đời Hùng Vương thứ 6 ở
hương Phù Đỗng bộ Vũ Ninh... có đứa trẽ lên ba mà chưa biết nói Gặp
lúc trong nước có nguy cấp , vua sai đi tìm người có thể đánh lui được
giặc Ngày hôm ấy đứa trẻ bổng nói được , bảo mẹ ra mời thiên sứ
vào, nói : Xin cho một thanh gươm , một con ngựa , vua không phải lo gì “Vua
ban cho gươm và ngựa , đứa trẻ liền phi ngựa vung gươm tiến lên trước
, quan quân đánh tan quân giặc Ân ở chân núi Vũ Ninh “ hay ở trang 139 chép
chuyện : Khi Vua Thục An Dương Vương bị Triệu Đà tấn công, vua thua chạy để Mỵ Châu ngồi trên ngựa
cùng chạy vế phía nam. Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng đuổi theo vua đến
bờ biễn hết đường mà không có thuyền, liền goi rùa vàng mấy tiếng “ Mau đến cứu ta “ Rùa vàng nỗi lên
mặt nước mắng rằng “ kẻ ngồi sau ngựa là giặc đấy ... “ Ngựa đã
là nhân , vật chứng cho nhiều huyền thoại trong lịch sử nước ta
Ngựa
Nê Thông là ngựa gì ?
Các
hoàng đế nước ta đa số đều cưởi Bạch Mã , đó là một loại ngựa
quý hiếm có sắc lông màu trắng như tuyết , cao lớn ôn hòa , Có nghĩa biết
mến chủ , biết bảo vệ chủ , không sợ tiếng động , tiếng gào thét ,
tiếng rống của voi , tiếng hí của ngựa khác , tiếng va chạm binh khí ,
tiếng súng . Ngựa phải chạy nhanh , đạt các tiêu chuẫn 4 nước đại ,
3 đợt nhảy cao và có 9 đức tính tốt
Những
con ngựa được tiến cử cho vua là những con ngựa được tuyễn chọn
trong các con ngựa cực kỳ quý hiếm
Kể
từ khi quân Nguyên vào xâm chiếm nước ta lần đầu vào năm 1257 và về sau vào các năm 1285 , 1288 thì hàng
ngàn hàng vạn con ngựa chiến từ thảo nguyên Mông cổ được đưa sang
nước ta
Khi
đám tàn quân Mông Cổ thất trận tháo chạy thì số chiến mã này một số
thì bị bắt, một số bị lạc trong rừng trở nên một loài ngựa hoang, loài ngựa nước ta được lai giống với
các loài ngựa của vùng thảo nguyên Mong Cổ , Vân Nam , Kinh Bắc , Tân Cương
....mà quân thù phương bắc qua nhiều lần xâm lược mang theo trong các cuộc
hành quân
Sách
Đại Việt sữ ký Tiền Biên trang 180 chép : “Năm Đinh Mùi ( 1006 ) Châu Vị
Long ( Chiêm Hóa Tỉnh Hà Tuyên ) dâng cho Khai Minh Vương một con Bạch Mã bốn
vó đều có cựa
Con
ngựa mà Hòang đế Trần Duệ Tông cưởi khi tiến công Thành Đồ Bàn của
Chiêm Thành dưới thời Chế Bồng Nga là một con tuấn mã kỳ vĩ cực kỳ
hiếm có kể cho đến bây giờ chưa chắc một nhà nghiên cứu mã học được
nhìn thấy một con thứ hai
Trong
các chữ đặt thù dùng để chỉ màu sắc , hình dáng hay đặt tính của
loài ngựa thời xưa của nước ta cũng như Trung Quốc thì có một số chử chính sau đây :
Mã , Thố , Câu , cũng có khi gọi là Long nói
chung dể chỉ về ngựa
Tuấn : là ngựa hay , chay nhanh , khỏe dẻo dai
Kỳ
Ký là ngựa lạ quý hiếm , ngựa thiên lý ( Vua Trần Nhân Tông đã từng
ví Đỗ Khắc Chung là : Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa
kỳ , ngựa ký như thế “ ĐVSKTT trang 52 )
Đề
là móng chân thú (Thiện Lương Đề của vua Thiệu Trị )
Xích
là sắc lông màu đỏ ( con Xích Thố là một món quà tặng của Tào Tháo
cho Quan Công )
Ô ,
Ly là ngựa có sắc sắc lông màu đen
( con Ô Trung cũa Hạng Võ )
Phiêu
là ngựa có sắc lông xanh trắng ( Phiêu Kỵ tướng quân )
Lạc
là ngự a vằn ( Lạc mã thiên lý vương )
Tinh
là ngựa hồng ( Song vĩ Tinh còn gọi là Song vĩ hồng– Con ngựa hồng hai
đuôi của Lý Thường Kiệt )
Nê
là dùng để chỉ lông con ngựa có hai màu : Màu Trắng và màu đen
Thông
là dùng để mô tả sắc lông ngựa màu xanh ( như con Nhàn Lương Thông ,
trong truyện Ngũ Thông Thần trong Liêu Trai Chí Dị trang 380 cho rằng thịt của
loại ngựa này ăn ngon gấp bội lần loại khác ).....
Như
vậy con ngựa của Hoàng đế Duệ Tông quả là một con tuấn mã cực kỳ
hiếm hoi , màu sắc lông của nó là một sự pha trộn màu sắc thật kỳ
diệu của ba màu trắng , đen và xanh , một sự đột biến của gien tỗng
hợp , một bản giao hưỡng của thiên nhiên
Nếu
như một lần nào dó mà Từ Bi Hồng , Lư Bột Thư hoặc là Bé Ký đọc
hay nhìn thấy con Nê Thông của Hoàng đế Duệ Tông thì chắc là chúng ta sẽ
được thưởng ngoạn những bức tranh về ngựa tuyệt tác
Ngoài
con Nê Thông , vang bóng vàng son một thời trong tàu ngựa của vua chúa Việt Nam còn có con
Phúc thông , Cát thông , An Tường Ký ,Thần lương , Phúc Lưu , Cát lưu ,
Thiên mã của Hoàng Đế Minh Mạng
Thiên
mã là con ngựa ỡ nước Tây Vực thuộc
miền Trung Á được nhập vào trong tàu ngựa của Hoàng đế năm 1830
Vua
Minh Mạng đã nhận xét con An Tường Ký như sau : Đô thống Pham văn Điễn
có dâng con ngựa trắng , dù là không là giống ngựa tuyệt trần chạy bay
như mây , nhưng trẫm cưởi thấy được yên ỗn nên goi nó là An Tường Ký
“
Hiến
tổ Chương Hoàng Đế một ông vua tài hoa và học thức uyên bác đã ban dụ về một con Thiên lý mã của
mình như sau : “ Ta đã sai giong yên ngồi cưỡi , chay nhanh như chớp gió ,
thật vượt mức trong các loài ngựa có 4 nước đại và 3 đợt nhãy cao , lại cao siêu hơn loài ngựa
có 9 đức tính tốt và 8 thứ ngựa giỏi , nên ban cho tên đẹp để tỏ cái
đức con ngựa ký .. nay gọi trên là Đại Uyển Long Tuấn ”
Thao
diễn trận ngựa ở Kinh Đô Huế năm 1851
Sách
Khâm Định Đại Nam Hội Điễn Sự Lệ đã mô tả một buổi diễn ngựa
ở Huế như sau :
Giáo
trường thao diễn trận ngựa ngoại
thành Đông Nam là một dãi đất chạy dài từ cửa Đông Ba cho đến chân
cầu Gia Hội – Huế được vua Tự Đức chiếu dụ tổ chức năm 1851 với
một chương trình bao gồm : Một suất đội 12 người , 200 biền binh , 100
con ngựa chiến , cờ ngủ hành một bộ , cờ vệ một cây , cờ hiệu một
cây , cờ đội 20 cây , súng tiểu mã 80 khẫu , dao ngựa 80 cây , dao cờ 26
cây , loa thau một chiếc , kiểng đồng một cái , thanh la, tù và , trống
trận chiêng đồng một thứ một chiếc , mũi giáo 240 cây , người bù
nhìn và cây chuối cho đủ số diễn tập .......
Có
lẽ linh hồn của Hòang đế Trần Duệ Tông và con chiến mã Nê thông vẫn
còn phản phất ngậm ngùi trên giáo trường đó , vì sao vậy ?
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư chép tiếp :
“ Quân lính người ngựa
bèn nối gót nhau mà đi như xâu cá. Tiền quân và hậu quân hoàn toàn cách
biệt. Giặc thừa thế xông ra đánh chặn. Giờ Tỵ quan quân tan vỡ, vua bị
hãm trong trận mà chết. Bọn đại tướng như Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hoà,
Phạm Huyền Linh đều chết cả. Giặc bắt sống đuợc Ngự Câu vương.....Đỗ
Tử Bình chỉ huy hậu quân không đến cứu nên thoát chết. Lê Quý Ly dốc
quân chở lương, nghe tin vua băng, bỏ trốn về nước.’’
http://www.buddhismtoday.com/viet/vanhoc/ngua_NeThong.htm