Phật giáo được xem là một tôn giáo uyển chuyển, dung nạp. Bởi Phật giáo
quan niệm toàn bộ hệ thống giáo điển chỉ là phương tiện để giúp chúng sanh
vượt thoát sinh tử. Tất cả những gì chân chính, thuần lương đều thích hợp
với đạo Phật. Chính vì vậy, khi truyền bá đến bất kỳ đất nước nào, hầu như
Phật giáo cũng đều dung hòa, ứng hợp với phong tục, tập quán và tôn giáo
của đất nước đó. Một mặt, Phật giáo quy tụ những yếu tố bản địa vào trong
địa hạt của mình, một mặt lan tỏa ảnh hưởng đến môi trường chung quanh.
Điều này đã giải thích cho việc Phật giáo có một mối giao thoa rất lớn đối
với văn hóa dân gian bản địa, có những đặc trưng riêng trên mỗi quốc gia
và tạo được chỗ đứng vững chắc trong lòng dân tộc.
1. Ngay từ buổi đầu đến với người dân Việt, các vị thiền sư đã ý thức “sử
dụng ngôn ngữ và những câu chuyện thần thoại của người dân Việt Nam để
giảng kinh Phật”[1];
đồng thời, “với Phật giáo, nhiều truyện dân gian Ấn Độ cũng du nhập vào
nước ta (…). Và trong kinh Phật đầy rẫy những truyện vốn có nguồn gốc ở
văn nghệ dân gian Ấn Độ”[2].
Phật giáo đã đến Việt Nam và gây ảnh hưởng trong lòng dân gian thông qua
những câu chuyện kể gần gũi và bình dị như thế. Nhưng cũng chính vì thế mà
trong kinh điển, điển tích Phật giáo cũng có không ít những câu chuyện,
những mẫu đề dân gian, và ngược lại, dân gian cũng sử dụng không ít yếu tố
Phật giáo trong đời sống văn hóa của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực
truyện kể. Têôđo Benphây - nhà ngữ học và Đông phương học người Đức, đại
biểu xuất sắc của “lý thuyết vay mượn” và “lý thuyết về sự di chuyển cốt
truyện” - cho rằng: “thoạt kỳ thủy truyện cổ tích được soạn ra để truyền
bá học thuyết Phật giáo trong nhân dân”[3].
Đinh Gia Khánh cũng nhận xét: “Đạo Phật truyền bá giáo lý của mình trong
nhân dân ít học bằng những truyện ngụ ngôn và cổ tích”[4].
Cho đến nay, một số nhà nghiên cứu đồng ý với quan điểm cho rằng đức Phật
là một trong số những người kể chuyện dân gian đặc sắc vào loại bậc nhất
thế giới. Rải rác trong kinh Phật là vô số những truyện ngụ ngôn, cổ tích,
những ẩn dụ bất ngờ, độc đáo hình thành nên lối thuyết giáo thâm thúy mà
dễ hiểu của Ngài. Những câu chuyện được kể ra ấy một phần tuy có nguồn gốc
từ dân gian Ấn Độ, song phần lớn là do chính đức Phật ứng tác nên tuỳ theo
tình huống thuyết giáo.
Tìm hiểu về thần thoại Ấn Độ, với truyện Trăng và thỏ, Cao Huy Đỉnh
nhận thấy: “Đạo Phật dùng thần thoại này
làm phật thoại và cho rằng con thỏ hy sinh kia chính là hiện thân của đức
Phật. Mục đích của nhà Phật là cốt để minh họa quan niệm hy sinh xả thân
và lòng từ bi bác ái quên mình vì đạo. Truyện Trăng và thỏ này theo
Phật giáo sang Trung Quốc, dân tộc hóa bằng cách hỗn hợp với truyện Hậu
Nghệ. Vì vậy mà hình tượng vợ Hậu Nghệ là chị với con thỏ, hằng ngày cùng
con thỏ xát thuốc trường sinh cho Ngọc Hoàng”[5].
Cũng theo con đường truyền giáo đó mà: “Nhiều truyện ngụ ngôn nước ngoài
đã vào ta từ đầu công nguyên với đạo Phật và phát triển ở thời Lý, Trần.
Đó là những truyện Ấn Độ đã được Việt hóa thông qua việc giảng kinh của
các nhà thiền học. Kinh Avadana, kinh Jataka gồm nhiều
truyện dân gian, phần lớn là ngụ ngôn, phê phán khá mạnh chế độ đẳng cấp
của tôn giáo Bà la môn. Đạo Phật sử dụng loại truyện này của nhân dân Ấn
Độ để minh họa giáo lý”[6].
Có thể nhận thấy Phật giáo đã góp phần không nhỏ vào việc giúp cho các
truyện dân gian “di chuyển” đến các vùng đất lạ theo con đường truyền giáo
của mình. Benphây nhận thấy rằng: “Cùng với Phật giáo, từ thế kỷ I đầu
Công nguyên, nó (truyện cổ tích - Đ.V.Đ) liên tục thâm nhập vào Trung Quốc,
Tây Tạng. Vượt biên giới Tây Tạng, truyện cổ Ấn Độ lan sang Mông Cổ, từ đó
truyền sang Nga; rồi qua Nga truyền sang Litva, Xécbi, Tiệp Khắc…”[7].
Những câu chuyện cổ của Ấn Độ và của riêng Phật giáo cũng truyền vào Việt
Nam từ hai con đường: đường bộ đi qua miền Trung Á (Mông Cổ, Tây Tạng,
Trung Hoa) rồi từ Trung Hoa qua Cao Ly và Nhật Bản; đường thủy qua ngả
Sri-lanka, Java thuộc Indonésia và Trung Hoa. Phật giáo đã nhanh chóng hòa
nhập vào đời sống của người dân Việt và một mặt tiếp thu nguồn văn hóa bản
địa, một mặt truyền bá giáo lý của mình bằng những con đường giản dị nhất:
thông qua những câu chuyện kể…
Vì vậy, trong kho tàng truyện kể dân gian Việt Nam cho đến nay vẫn có
không ít những cốt truyện hay những môtip truyện cùng lúc có mặt trong
kinh điển, điển tích Phật giáo và trong những truyện kể dân gian. Ở đây,
chúng tôi tạm gọi sự “cùng có mặt” này là mối giao thoa giữa Phật giáo và
văn học dân gian Việt Nam. Chúng tôi không có ý đi sâu phân tích - và cũng
rất khó có thể phân tích một cách tường tận, thuyết phục - nhằm chỉ ra đâu
là mẫu đề gốc và bên nào tiếp thu những mẫu đề gốc ấy. Mục đích của những
phân tích, dẫn giải dưới đây là nhằm nêu ra và minh chứng cho mối giao
thoa văn hóa một cách cụ thể giữa Phật giáo và dân tộc.
2. Khi nghiên cứu về Phật giáo, Trần Quốc Vượng nhận xét: “Thiền Phật vốn
phóng khoáng, cởi mở, tự do, dung nạp mọi tín ngưỡng, cổ tích dân gian (như
Kinh Bách Dụ), dung nạp cả tín ngưỡng thờ mẹ (mẫu) của dân gian
nước Việt, nào chùa Man Nương (Mãn Xá), nào chùa Bà Dâu, Bà Đậu (Hà Bắc,
Hà Tây), Bà Nành, Bà Ngô (Hà Nội), đã biến đổi từ Đức Bồ tát Quán Âm (Avalokitesvara)
của Ấn Độ (theo truyền thống của Ấn Độ là đàn ông) thành Phật Bà Quán Âm,
thành Bà Chúa Ba của chùa Hương Tích “Nam thiên đệ nhất động”, thành Bà
Quán Âm Thị Kính của Phật giáo dân gian Việt Nam v.v…”[8].
Theo đó, Trần Quốc Vượng đã chỉ ra rằng Phật giáo thâm nhập vào văn hóa
dân tộc trước hết và phần lớn là theo con đường dân gian.
Trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam, có truyện Xẩm sờ voi,
Mèo lại hoàn Mèo,… nguyên là những câu chuyện ngụ ngôn của Ấn Độ,
được Phật giáo sử dụng trong việc thuyết giáo; đến khi truyện này theo
Phật giáo vào Việt Nam, nó đã được trả về với đời sống dân gian, hầu như
không còn thấy vết tích của Phật giáo. Điều này đã được các tác giả của
công trình nghiên cứu Văn học dân gian Việt Nam nhận định: “Nhiều
phật thoại đã tách khỏi kinh Phật, hoặc lời thuyết giáo của sư sãi để trở
thành truyện ngụ ngôn hoặc truyện cổ tích của nhân dân ta.
Đó là những truyện ngụ ngôn như Xẩm sờ voi, Mèo lại hoàn mèo,
hoặc truyện cổ tích như Cây nêu ngày tết…”[9].
Một trường hợp khác, đó là hình tượng rắn hóa thành vàng (hay ngược lại
vàng hóa ra rắn khi lọt vào tay kẻ không có số được hưởng) lưu hành ở một
số dân tộc trong một số môtip giới hạn, chẳng hạn gần gũi với ta ở vùng
Đông nam Á thì có các bản của người Kinh, Mường, Tày, Miến-điện
(Myanmar)…, “Hóa ra chúng đều tiếp thu từ một “bản gốc”: bản trong Tạp
bảo tạng kinh, vốn được dịch ra chữ Hán từ năm 472. Có nghĩa là về mặt
thời gian, “bản gốc” được nhập tịch theo lối truyền miệng vào các dân tộc
nói trên, có thể còn sớm hơn nữa, mà cội nguồn phát sinh phải là nơi ra
đời của đạo Phật”[10].
Có thể nhận thấy truyện Bính và Đinh (truyện số … trong Kho tàng
truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi, Nxb Giáo Dục 2003; sau
dây chúng tôi sẽ viết tắt: KTTCTVN) của ta đã tiếp thu trực tiếp hình
tượng trên. Nguyễn Đổng Chi cho rằng truyện này bắt nguồn từ Tạp Bảo
tạng kinh, truyện nhằm minh họa cho chủ đề nhân quả báo ứng - thói
tham lam, nham hiểm bao giờ cũng sẽ phải gánh chịu hậu quả bi thảm.
Cũng theo Nguyễn Đổng Chi, truyện Cứu vật vật trả ơn, cứu nhơn nhơn trả
oán xuất phát từ Lục độ tập kinh
- một trong những bản kinh đầu tiên của Việt Nam, hình thành khoảng
từ trước đến sau thời Hai Bà Trưng và “có khả năng là được tập thành khi
nhà nước độc lập do anh hùng Khu Liên thành lập vào khoảng những năm 138
trở đi”, do Khương Tăng Hội dịch ra chữ Hán vào khoảng những năm 220 – 250[11].
Giống như một số truyện khác, truyện này có nguồn gốc từ kho tàng truyện
cổ dân gian Ấn Độ trước khi đi vào kinh Phật. Còn truyện Hai con cò và
con rùa là câu chuyện thí dụ về tai hại của “khẩu nghiệp” vốn có nguồn
gốc từ Kinh Tam tạng với đầu đề là Hai con ngỗng và con rùa.
Truyện Chàng đốn củi và con tinh thì có nguồn gốc từ Đại tạng
kinh. Truyện Của trời trời lại lấy đi, giương đôi mắt ếch làm chi
được trời có nguồn gốc từ một phật thoại Việt Nam - Sự tích 18 ông
Phật La hán (Rất có thể Sự tích 18 ông Phật La hán cũng có
nguồn gốc từ Cựu tạp thí dụ kinh và Lục độ tập kinh mà chúng
tôi sẽ dẫn ra trong đoạn sau). Truyện Sự tích cá he khá giống với
một câu chuyện trong Kinh Tam Tạng v.v…
So sánh, đối chiếu 200 truyện cổ tích trong Kho tàng truyện của tích
Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi, Lê Mạnh Thát nhận thấy có 4 truyện có
thể truy một phần hay toàn bộ cốt truyện vốn có mặt trong Cựu tạp thí
dụ kinh; đó là các truyện số 1, 15, 61, 143 - tức các truyện: Sự
tích dưa hấu; Sự tích con dã tràng, Của trời trời lại lấy đi, giương đôi
mắt ếch làm chi được trời; Hai con cò và con rùa. Trong đó truyện
Sự tích dưa hấu xuất hiện trong truyện số 7 của Cựu tạp thí dụ kinh
với một số cải biên tình tiết; truyện Sự tích con dã tràng lại có
nhiều nét tương đồng với truyện số 21; truyện Của trời trời lại lấy đi,
giương đôi mắt ếch làm chi được trời mở rộng cốt truyện số 24; truyện
Hai con cò và con rùa có cốt lõi thống nhất với truyện số 39. Đặc
biệt, truyện số 15, 62 và 143 của Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, qua đối chiếu,
Lê Mạnh Thát nhận thấy có sự tương đương với văn học bản sinh Pāli. “Do
thế, chúng có khả năng rất lớn là đã đạo xuất từ Cựu tạp thí dụ kinh.
Đặc biệt là truyện 60 và 142[12],
dù mở rộng và cải biên tới đâu, vẫn có cốt truyện hoàn toàn thống nhất với
truyện 24 và 39 của Cựu tạp thí dụ kinh và với các truyện
Vedabhhajātaka và Kacchapajātaka của văn học bản sinh Pāli. Vì
vậy chúng cùng với các truyện 25 và 49 của Lục độ tập kinh có thể
nói là các tác phẩm văn học truyện kể xưa nhất hiện biết của lịch sử văn
học dân tộc ta. Thời điểm lưu hành của chúng từ đó không thể chậm hơn năm
299 sdl, nếu không là sớm hơn vào thế kỷ thứ II, thậm chí thứ nhất sdl”[13].
Qua tìm hiểu một số kinh sách Phật giáo, chúng còn tôi phát hiện truyện
Gái ngoan dạy chồng có nhiều chi tiết giống với một thí dụ trong phẩm
Tín giải, kinh Pháp Hoa - bộ kinh nổi tiếng của Phật giáo
Đại thừa, có mặt ở Việt Nam từ thời Bắc thuộc. Chuyện kể về đứa con lạc
cha đến 50 năm, tha phương cầu thực, nghèo khó và tâm tánh trở nên hạ liệt.
Trong lúc đi cầu xin của bố thí, đứa con đến nhà cha mình mà không biết,
thấy nhà cha sang trọng quá thì đâm sợ hãi. Cha biết con nhưng không vội
nhận, tìm cách cho con làm thuê và trả công xứng đáng, dần dần cất nhắc
con lên và cuối cùng, khi thấy con bỏ hết tâm tánh hạ liệt, bèn tuyên bố
với mọi người đây là con mình và giao hết tài sản cho con. Còn truyện
Gái ngoan dạy chồng thì kể về một người vợ hiền thục chăm lo cho nhà
chồng, nhưng gặp phải anh chồng không lo làm ăn, chỉ ham chơi bời lêu lổng.
Đến khi cha chồng mất đi, hắn bèn đuổi vợ ra khỏi nhà để khỏi bị ai ngăn
cản việc chơi bời trác táng. Chẳng mấy chốc của cải, nhà cửa đội nón ra đi
theo việc chơi bời, hắn nghèo túng phải bỏ xứ lang thang đầu đường xó chợ,
ngửa tay xin ăn. Nói về người vợ, sau khi chồng đuổi đi, nàng đến xứ khác,
thay tên đổi họ, làm ăn ngày một khấm khá. Chị biết chồng nghèo hèn, bèn
nghĩ ra việc bố thí để dụ chàng ta đến. Quả nhiên anh chồng nghe tin có
người bố thí liền đến xin ăn. Vợ trông thấy, biết ngay chồng mình, nhưng
không vội nhận, còn chồng không nhận ra vợ bởi nàng đã trở nên sang trọng
khác thường. Chị tìm cách khiến anh trở thành người làm, trả công xứng
đáng và từ từ cất nhắc anh lên. Đến lúc nhận thấy chồng sửa đổi tính tình,
biết chăm lo làm ăn và nghĩ đến vợ, nàng mới tuyên bố với mọi người rằng
đây chính là chồng mình…
Khác với Gái ngoan dạy chồng nội dung truyện không trực tiếp minh
họa giáo lý, truyện Sự tích sông Nhà Bè hay truyện Thủ Huồn vẫn giữ
được tư tưởng Phật giáo và mục đích giáo huấn của nhà Phật, khuyên người
ta ăn hiền ở lành, biết tin nhân quả và dốc lòng tu tập. Từ nội dung và
cốt truyện, có thể khẳng định rằng truyện này có nguồn gốc từ trong Kinh
Đại Bảo Tích (Pháp hội thứ mười bốn: Phật thuyết nhập thai tạng).
Chuyện trong kinh kể về ngài Nanda, người em cùng cha khác mẹ của Phật.
Nanda vừa cưới vợ không bao lâu thì gặp dịp đức Phật trở về thành Ca tỳ la
vệ, bị ngài dẫn dụ xuất gia. Dù vậy, lòng trần chưa dứt, Nanda luôn nhớ vợ
và những người đẹp trong cung nên nhiều lần tìm cách trốn về. Để cảnh tỉnh
Nanda, Phật bèn dẫn chàng lên cung trời Đao Lợi cho xem cung điện và mỹ nữ
ở cõi trời. Nanda mê mẩm, hỏi xem ai làm chủ chốn này, mới hay nơi này
dành sẵn cho chàng nếu chàng chăm lo tu tập. Lần khác, Phật dắt Nanda
xuống địa ngục, nơi tra tấn, hành hình những tội nhân. Đến một dãy chảo
dầu sôi, trong đó có những tội nhân đang lặn hụp, kêu gào, Nanda lấy làm
lạ khi có một chảo dầu to lớn lạ thường đang được một con quỷ đun sôi sùng
sục nhưng không thấy có người ở trong. Chàng liền mon men lại gần dò hỏi
thì được quỷ đáp: Chảo này đang đợi một người tên là Nanda, hiện đang tu
với đức Phật. Nếu người đó không chăm lo tu hành, khi chết sẽ bị đun sôi
trong chảo dầu này. Nanda nghe nói rùng rợn, từ đó trở đi chàng tinh tấn
thực tâm tu tập.
Truyện Thủ Huồn có kết cấu đơn giản hơn, thay vì một lần lên trời,
một lần xuống địa ngục, thì ở đây, Thủ Huồn đến hai lần xuống địa ngục;
chảo dầu sôi thì được thay thế bằng chiếc gông to. Do ở trần gian làm ác,
xuống địa ngục lần đầu, Thủ Huồn thấy cái gông to lớn khủng khiếp, hỏi ra
mới hay cái gông đang chờ để dành cho mình, sợ quá, bèn trở về dốc lòng
làm việc thiện. Lần sau trở xuống, Thủ Huồn thấy cái gông bé hẳn đi, vì
thế Huồn lại chăm làm việc thiện hơn trước, sau nhờ phước đức ấy mà thác
sinh được làm vua Trung Quốc…
Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy truyện Sự tích cây huyết dụ cũng có
những tình tiết, môtip rất gần với kinh điển nhà Phật. Truyện kể về một
bác đồ tể nhà ở cạnh chùa. Mỗi khuya, bác đồ tể nghe tiếng chuông chùa thì
thức dậy mổ lợn. Một hôm, sư trụ trì ngôi chùa nọ nằm mộng thấy có một bà
mẹ dắt năm đứa con đến van xin Hòa thượng cứu mạng bằng cách ngưng đánh
chuông khuya một bữa. Hòa thượng theo lời báo mộng, khuya đó chỉ ngồi lâm
râm niệm Phật, không gọi chú tiểu dậy. Bác đồ tể không nghe chuông nên ngủ
một giấc ngon lành đến sáng. Tỉnh giấc, thấy đã trễ, bác giận quá, chạy
qua chùa quở trách sư trụ trì. Hòa thượng bèn đem câu chuyện về giấc mơ kể
lại cho bác đồ tể nghe. Bác ta về nhà, nhìn vào chuồng lợn thì thấy lợn mẹ
mà bác định giết đã sinh được năm con. Bác ta vô cùng ăn năn hối hận, cầm
con dao mổ chạy qua cắm trước chùa, thề từ rày về sau sẽ bỏ nghề mổ lợn,
quyết tu nhân tích đức để tránh quả báo về sau…
Truyện trên vốn có nhiều dị bản; đặc biệt những câu chuyện loài vật báo
mộng xin cứu mạng lưu truyền khá rộng rãi trong giới Tăng Ni, Phật tử.
Kiểu truyện này cốt yếu đề cao vấn đề “quy thiện” theo quan điểm của Phật
giáo Đại thừa - một người dù xấu xa, độc ác, gây nghiệp nhân nặng nề đến
đâu, đến khi quay đầu họ cũng có thể trở lại bờ và tu thành chánh quả.
Trong kinh Đại bát niết bàn cũng có kể câu chuyện về một đồ tể vì
giác ngộ Phật pháp đã buông dao quyết chí tu hành, sau được làm con vua
trời Tỳ sa môn. Quyển thứ 17, phẩm Phạm hạnh của bộ kinh nổi tiếng
này ghi rằng: “Thành Ba la nại có người đồ tể tên là Quảng Ngạch, ngày
ngày giết vô lượng dê, gặp ngài Xá Lợi Phất liền thọ tám giới, trải qua
một ngày đêm. Do nhân duyên này nên khi mạng chung được làm con vua trời
Tỳ sa môn ở phương Bắc. Đệ tử của đức Như lai còn có đại công đức như vậy,
huống lại là đức Phật vậy”. Hình ảnh này vốn đã được thể hiện qua câu
thành ngữ quen thuộc không chỉ đối với giới học Phật mà cả trong dân gian:
“phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật”, được Tuệ Trung Thượng Sĩ thể hiện
qua câu thơ: “Đồ Tể Quảng Ngạch thành nguyện vương, Tỳ kheo Khánh Hỷ công
đức thánh” (Phàm thánh không hai). Có lẽ Sự tích cây huyết dụ
ít nhiều đã ảnh hưởng phật thoại này và đã được dân gian kể lại như
trên.
3.3. Hiện tượng một cốt truyện hay một môtip cùng có mặt trong nhiều
truyện kể dân gian các nước không phải là một hiện tượng lạ. Điều này được
cắt nghĩa bằng sự vay mượn, sự di chuyển cốt truyện… và đặc biệt là sự
tương đồng trong tư duy của các dân tộc. Trong khi đó, Ấn Độ được xem là
một trong những “cái nôi” của truyện cổ, và đạo Phật nảy sinh từ trong
“cái nôi” ấy nên trong kinh điển Phật giáo có nhiều yếu tố truyện kể dân
gian là điều dễ hiểu.
Tuy nhiên, trong một bộ sách Phật được xem là ra đời tại Việt Nam từ
khoảng thế kỷ thứ II, lại có mặt một môtip quen thuộc trong huyền thoại
lập quốc của dân tộc ta là một điều thú vị và rất đáng chú ý, đó là bộ
Lục độ tập kinh. Theo nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát, “Lục độ tập kinh
là văn bản đầu tiên và xưa nhất, ngoài bài Việt ca, tập thành những
chủ đề tư tưởng lớn của dân tộc như nhân nghĩa, trung hiếu, đất nước, mất
nước v.v… làm cột sống cho chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam và truyền thống văn
hóa Việt Nam. Lục độ tập kinh được Khương Tăng Hội dịch vào thời
Tam Quốc, từ một nguyên bản Lục độ tập kinh tiếng Việt, gồm có cả
thảy 91 truyện”[14].
Lê Mạnh Thát cho rằng: “khi nghiên cứu về truyền thuyết Trăm trứng
trong truyện họ Hồng Bàng, ta thấy truyền thuyết này đã xuất hiện trong
Lục độ tập kinh 3 ĐTK152 tờ 14a26-c8 truyện 23”[15].
Truyện thứ 23 trong Lục độ tập kinh, có đoạn: “… Mang thai đủ ngày,
sinh ra một trăm cái trứng, (…). Lũ tà lấy hũ đựng trứng, bịt kín miệng
lại, đem quăng xuống dòng sông. Trời Đế Thích xuống lấy ấn đóng miệng lại,
chư thiên theo giữ, xuôi dòng dừng lại như trụ cắm đất. Vua nước hạ lưu
đang ở trên đài, xa thấy giữa dòng có hũ trôi xuống, ánh sáng rực rỡ, như
có oai trời. Bèn vớt lên xem, thấy dấu ấn Đế Thích, mở có trăm trứng, ra
lệnh trăm người đàn bà ấp nuôi ấm nóng. Đủ ngày thành hình, nở ra trăm
người con trai, sinh ra đã có trí thượng thánh, không dạy mà vẫn tự biết,
nhan sắc hơn đời, tướng tốt hiếm có, tài cán thế lực hơn người trăm lần,
tiếng nói vang như sư tử rống”.
Truyện Họ Hồng Bàng của ta kể rằng: Âu Cơ vốn người Phương Bắc, một
hôm theo cha là Đế Lai đi tuần xuống phía Nam. Nhân đây Âu Cơ gặp Lạc Long
Quân, hai người lấy nhau. “Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là
điềm bất tường, vứt ra cánh đồng; qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả
trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không phải bú
mớm, các con tự lớn lên, trông đẹp đẽ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song
toàn, người người đều kính trọng cho là triệu phi thường”. Trăm người con
trai ấy chính là tổ tiên của người Bách Việt[16].
Những môtip trứng nở ra người (hay quả trứng thần kỳ); người đẻ ra bọc, từ
bọc sinh ra con; người mẹ sinh một lúc nhiều con trai… không phải là môtip
xa lạ trong kho tàng truyện kể dân gian của các dân tộc. Môtip người sinh
ra một bọc trứng, bọc trứng nở ra nhiều con trai cũng được chúng tôi tìm
thấy trong một phật thoại Ấn Độ. Bối cảnh câu chuyện diễn ra vào thời kỳ
đức Phật còn tại thế, khi ngài an trú tại vườn Cấp Cô Độc và thái tử Kỳ Đà.
Bấy giờ có một vị quan đại thần của vua nước Ba Tư Nặc đang tìm một nàng
dâu giỏi để làm vợ người con trai út. Nàng dâu tên Tỳ Xá Ly, sau khi lấy
người con trai út thì “sanh ra một bọc 32 cái trứng, nở ra 32 người con
trai, người nào cũng thông minh anh dũng, văn võ toàn tài, sức một người
địch nổi muôn người, cha mẹ rất yêu mến, mọi người đều kính sợ”[17]
Những môtip khảo sát trên cho thấy người sinh ra một bọc trứng, bọc trứng
nở ra nhiều con trai là những môtip khá quên thuộc, phản ánh một cách nghĩ
rất xưa về nguồn gốc con người của các dân tộc bên cạnh môtip quả bầu mẹ.
Tuy thế, giữa Lục độ tập kinh và huyền thoại lập quốc của ta xem ra
vẫn có sự gần gũi hơn so với môtip cùng loại của các dân tộc khác và đây
cũng là một điểm đặc biệt. Lê Mạnh Thát cho rằng: “Giả như Lục độ tập
kinh nói tới chuyện con người sinh ra từ trứng một cách tổng quát, thì
việc đó cũng không có gì đặc sắc cho lắm. Điểm đặc sắc của câu chuyện do
Lục độ tập kinh ghi lại và vì thế nằm ở chỗ, nó liên kết việc sinh
ra một trăm người con từ một trăm cái trứng và việc một trăm cái trứng
sinh ra từ cùng một bào thai”[18].
“Nói là đặc biệt nhất, bởi vì nếu tách rời ra, chuyện một trăm người con
không phải là không được biết đến trong lịch sử văn học Phật giáo và Ấn Độ,
và chuyện con người sinh ra từ trứng không phải là đã không được biết đến
trong lịch sử văn hóa Trung Quốc và thế giới”[19].
Việc trăm trứng sinh nên trăm người con trai thể hiện rất rõ mối giao thoa
giữa Phật giáo với truyện kể của người Việt. Mối giao thoa đó cũng rất
tiêu biểu cho sự giao hòa giữa Phật giáo với dân gian.
Mặc dầu Lục độ tập kinh có thể ra đời trễ hơn nhiều so với truyện
Họ Hồng Bàng, song chúng ta vẫn chưa có cơ sở xác định truyện 23
trong Lục độ tập kinh ảnh hưởng huyền thoại lập quốc của Việt Nam
hay ảnh hưởng trực tiếp từ Ấn Độ. Bởi môtip sinh nhiều người con trai một
lúc đã có mặt trong kinh điển Phật giáo, cụ thể là trong tập Bách thoại
(Soạn tập bách duyên kinh - Đại tạng kinh 200, tờ
237a20-b9), được bảo tồn trong nguyên bản Phạn văn cũng như Hán văn và
Tạng ngữ. Bản tiếng Việt được Lê Mạnh Thát dịch, có đoạn: “Phật ở tại nước
Ca tỳ la vệ dưới cây ni câu đà. Lúc bấy giờ trong thành ấy có một trưởng
giả (…). Vợ ông có thai, đủ đầy mười tháng, sinh một bọc thịt. Lúc trưởng
giả kia, thấy việc như vậy, lòng bèn buồn bã, cho là không lành. Bèn đến
chỗ Phật, lạy trước chân Phật, (…). Phật bảo trưởng giả: “Ngươi chẳng ngờ
lạ, chỉ khéo nấng nuôi, bảy ngày đủ xong, ngươi sẽ tự thấy”. (…) Khi bảy
ngày qua, bọc thịt nở ra, có trăm con trai. Chúng rất đoan chính, đời ít
khi có…”[20].
Điểm giống nhau ở đây là từ trong một bọc nở ra trăm con trai khôi ngô
tuấn tú; điểm khác là huyền thoại của ta trăm con trai nở ra từ bọc trứng,
còn trong phật thoại Ấn Độ lại nở ra từ một bọc thịt. Đây cũng là một gợi
ý rất đáng chú ý và cần quan tâm nghiên cứu.
Như vậy, từ mối giao thoa giữa kinh điển, điển tích Phật giáo với truyện
cổ dân gian Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy rõ hơn mức độ thâm nhập
của Phật giáo vào đời sống dân gian; ngược lại, Phật giáo cũng đã tiếp thu
rất nhiều từ nền văn hóa bản địa để làm phong phú thêm cho văn hóa của
mình. Điều này đã tạo cho Phật giáo Việt Nam có một nét rất riêng, rất đặc
thù; Phật giáo trở thành tôn giáo của người Việt, cùng dân tộc trải qua
không biết bao nhiêu thăng trầm của thời cuộc. Quan mối giao thoa này,
chúng ta cũng có thể thấy từ rất xa xưa, dân Việt đã biết đến kinh Phật,
biết thực hành đạo Phật; những câu chuyện từ kinh điển Phật giáo vì vậy đã
ăn sâu vào lòng người, được dân gian tái tạo lại qua nhiều hình thức, tiêu
biểu nhất là hình thức truyện kể, mà trong đó, những dấu ấn Phật giáo vẫn
còn rất đậm, nhiều khi chúng rõ ràng đến mức chúng ta có thể chỉ ra chúng
ảnh hưởng trực tiếp từ bộ kinh nào.
[1]
Thích Trí Quảng (2003), “Tinh thần đạo Phật trong dân gian Việt
Nam”,
Nguyệt san Giác ngộ (3), tr.2.
[2]
Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2003), Văn
học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.128.
[3]
Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian - mấy vấn đề phương pháp
luận và nghiên cứu thể loại, Nxb Giáo dục,
tr.251.
[4]
Đinh Gia Khánh (1968), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ
tích qua truyện Tấm Cám, Nxb Văn học, Hà Nội,
tr.58.
[5]
Cao Huy Đỉnh (1998), “Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ”, Bộ ba tác phẩm
nhận giải thưởng Hồ Chi Minh, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội,
tr.684-685.
[6]
Cao Huy Đỉnh (1998), “Tìm hiểu
tiến trình văn hóa dân gian Việt
Nam”,
Bộ ba tác phẩm nhận giải thưởng Hồ
Chi Minh,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội,
tr.70.
[7]
Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian - mấy vấn đề phương pháp
luận và nghiên cứu thể loại, Nxb Giáo dục,
tr.251.
[8]
Trần Quốc Vượng (2003), “Vài nét về Phật giáo dân gian Việt Nam”,
Nguyệt san Giác ngộ (3),
tr.25.
[9]
Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2003), Văn
học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.128.
[10]
Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam
(tập 1- 5), Nxb Giáo dục, Hà Nội,
tr.1678.
[11]
Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt
Nam,
tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.17&96.
[13]
Lê Mạnh Thát (2001), Tổng tập văn học Phật giáo Việt
Nam,
tập 2, Nxb TP.HCM, tr.65-70;
Lịch sử…
tr.113-116.
[14]
Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử…,
tr.45.
[15]
Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử…,
tr.16.
[16]
Vũ Quỳnh, Kiều Phú (Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San dịch) (1960),
Lĩnh Nam chích quái,
Viện Văn học, Nxb Văn hóa,
tr.22.
[17]
Minh Chiếu (1999), Truyện cổ Phật giáo, tập 2, Nxb TP.HCM,
tr.374.
[18]
Lê Mạnh Thát (1972), Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên
dân tộc ta, Tu thư đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn,
tr.33.
[19]
Lê Mạnh Thát, Lục độ tập…,
tr.24.
[20]
Lê Mạnh Thát, Lục độ tập…,
tr.34-52.
http://www.buddhismtoday.com/viet/vanhoc/phatgiao&truyenco.htm