- Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni
(Buddha Sàkyamuni)
- Thích Thanh Từ
-oOo-
Danh Hiệu
Thích Ca, Trung Hoa dịch là Năng nhân. Mâu Ni dịch là Tịch
Mặc. Nghĩa là người hay phát khởi lòng nhân mà tâm hồn luôn luôn yên tĩnh.
Lược Sử
Trước đây trên 25 thế kỷ, ở Ấn Độ có vị thánh xuất
thế, đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi ấy, xã hội Ấn Độ chia làm
bốn giai cấp: Bà La Môn (Brahmanes), Sát Đế Lỵ (Kastryas), Phệ Xá (Vaisyas)
và Thủ Đà (Soudas). Đức Phật Thích Ca sanh trong dòng quý tộc thuộc giai
cấp thứ hai. Thân sinh Ngài là vua Tịnh Phạn (Suddodhana) và thân mẫu là
hoàng hậu Ma-Gia (Maya), ở thành Ca Tỳ La (Kapilavatsu). Ngài giáng sanh vào
ngày trăng tròn, tháng hai Ấn Độ, nhằm ngày rằm tháng tư âm-lịch Trung
Hoa. Tên Ngài là Sĩ Đạt Ta (Sidhartha).
Ra đời chưa đầy một tháng, Ngài đã mồ côi mẹ, nhờ
Dì mẫu nuôi dưỡng cho đến trưởng thành. Năm 29 tuổi, Ngài trốn vua cha
vượt thành xuất gia tầm thầy học đạo. Tương truyền trước khi xuất
gia, Ngài đã dạo chơi bốn cửa thành mục kích cảnh sanh, già, bệnh, chết.
Từ đó, Ngài ôm lòng thương cảm vô hạn, quyết tìm con đường giải thoát
cho mình và tất cả chúng sinh. Vì thế, Ngài cương quyết ruồng bỏ ngai vàng,
và mọi lạc thú ở đời, xuất gia tầm đạo, mặc dầu có lắm người hết
lời khuyên nhủ ngăn can.
Sau khi xuất gia, Ngài lê bước khắp nơi tìm thấy học đạo.
Ngài đã từng tham học với hai vị sư trứ danh đương thời là A La Lã Ca
Lan (Aralah-Kalama) và Uất Đà Già La Ma (Udraka-Kamaputar). Nhưng xét đến kết
quả đạo lý của họ đều không làm cho Ngài thỏa mãn.
Sau đó, Ngài từ giả họ vào rừng sâu tu khổ hạnh sáu năm,
mỗi ngày chỉ ăn uống chút ít đủ duy trì mạng sống, nhưng rốt cuộc
cũng chẳng đem lại kết quả gì. Cuối cùng nhận thấy phương pháp khổ
hạnh không phải là con đường chân chính, Ngài liền bỏ từ nó, trở lại
lối sống bình thường, vận dụng tâm trí quán sát tướng chân thật của
vũ trụ. Một hôm ngày thứ 49 ở dưới cội Bồ đề, Ngài bừng ngộ thấy
rõ chân lý của cuộc đời, biết được mọi người đều có đủ khả
năng giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Sau khi đã chứng đạo, Ngài không ấp ủ tư lợi riêng
mình liền nhập thế phổ độ chúng sanh. Từ đó, Ngài du hành thuyết
pháp suốt 45 năm, chu du đến một phần ba (1/3) xứ Ấn Độ. Những môn đồ
được Ngài giáo hóa đông vô kể. Nơi Ngài thường đến và thường lưu
trú là thành Vương Xá (Rakagrha) nước Ma Kiệt Đà (Magadha), thành Phệ Xá
Ly (Vésali), thành Xá Vệ (Shavasti) nước Câu Tát La (Kosala) v.v...
Năm 80 tuổi, nơi rừng Ta la song thọ (Sala) ngoài thành Câu
Thi (Kusinagara), sau buổi thuyết pháp cuối cùng, Ngài vào Niết bàn
(Nibbana).
Biểu Tướng
Vào trong các chùa Phật giáo Bắc Tông, ngay giữa chánh điện
hoặc thờ một tượng Phật Thích Ca, hoặc thờ ba tượng ngồi ngang, đức
Thích Ca ngự giữa, bên phải đức Phật Thích Ca là Phật A Di Đà, bên
trái là Phật Di Lặc (Phật tương lai). Lối thờ nầy tượng trưng tam thế
Phật, Phật Thích Ca là Phật hiện tại, Phật Di Đà là Phật quá khứ, Phật
Di Lặc là Phật tương lai. Bất cứ lối thờ nào, đức Thích Ca đều ngự
ở giữa, nên cũng gọi Ngài là đức Trung Tôn.
Tượng Phật Thích Ca không giống người Ấn Độ, mà tùy
ở nước nào tạo tượng Ngài giống người nước ấy. Ngài ngự trên đài
sen, hai tay để ấn tam muội, đôi mắt khép lại ba phần tư (3/4).
Thâm Ý
Nhìn sơ qua hình tượng đức Phật Thích Ca, chúng ta đã thấy
những điểm cách xa thực tế. Tại sao người ta không tạo tượng Ngài thật
giống người Ấn Độ ngồi trên tòa cỏ dưới cội cây Bồ Đề?
Bởi vì Bắc Tông Phật giáo quan niệm đức Phật không phải
căn cứ vào con người xác thịt tầm thường, mà thấy Phật là pháp thân
thường trụ. Hiện thân Thái Tử Sĩ Đạt Ta tu hành thành Phật, chỉ là một
giai đoạn, một hóa thân tùy cơ cảm của chúng sanh thị hiện đấy thôi.
Đã là hóa thân tùy cơ cảm thì ở đâu có cảm đức Phật đều ứng hiện
như nguyện để độ họ. Vì thế, ở Việt Nam, cảm mộ Phật, Phật sẽ
thị hiện người Việt Nam, ở Trung Hoa cảm mộ Phật, Phật sẽ hiện người
Trung Hoa để hóa độ... Đó là tư tưởng siêu thực, không còn thấy Phật
ở trong một hình thức cố định nào. Đức Phật đã đồng hóa theo từng
dân tộc, từng chủng loại. Do tư tưởng nầy, Bắc Tông Phật giáo đối
với đức Phật không thấy xa lạ, mà rất gần gũi thân mật và phát sinh
tín ngưỡng "Phật tùy tâm hiện". Ta hãy nghe vị Quốc Sư núi Yên
Tử nói với vua Trần Thái Tôn, khi ông nầy lên núi cầu đạo:
"Núi vốn không có Phật, chỉ có ở tâm. Lắng tâm mà
thấy, đấy gọi là chân Phật. Nay bệ hạ muốn giác ngộ tâm ấy thì đứng
ở trần gian mà thành Phật, không phải khốn khổ cầu Phật ở
ngoài". (Khóa Hư Lục)
Đã tin Phật tùy tâm hiện, nếu tâm mình tưởng Phật tức
là có Phật hiện đến. Do đó phát sinh tín ngưỡng "Phật hiện cứu
khổ mọi người". Cho nên, những khi lâm tai, mắc họa, người ta hay
thành kính, lễ mễ cầu Phật hiện mách bảo cho phương cách thoát khỏi
tai họa.
Phật ngự trên đài sen cũng là một ý nghĩa tượng trưng
siêu thực. Bởi vì hoa sen được biểu thị cho đức tánh thanh tịnh và giải
thoát. Hoa sen phát xuất trong lòng vũng bùn nhơ nhớp, mà vẫn tỏa ra mùi hương
thanh khiết. Đó là đặc tính không thể tìm được trong các loài hoa
khác. Nằm giữa vũng bùn nhơ nhớp, mà không bị lây nhiễm mùi hôi hám,
trái lại còn đầy đủ hương vị thơm tho, đó mới thật là thanh tịnh.
Vì cái thanh tịnh ngay giữa chỗ ô uế, mới chơn thật thanh tịnh. Nếu
hoa sen mọc giữa bãi cát trắng phau, hay trên gò đất khô sạch sẽ, dầu
có hương sắc gấp mấy lần hơn vẫn không được quý trọng. Bởi nó
chui từ vũng bùn hôi hám mà lên, lại giữ được tánh cách thanh khiết,
nên mới được mọi người hâm mộ.
Đức Phật cũng thế, trước kia Ngài cũng là một con người
như chúng ta, cũng có gia đình, cũng hưởng giàu sang sung sướng, nhưng con
người ấy không bị dục lạc làm ô nhiễm, không bị sợi dây gia đình
trói buộc. Ở trong cảnh nhiễm ô dục lạc mà tâm hồn Ngài trinh bạch,
ngồi trong tù ngục gia đình mà chí Ngài đã vượt ra ngoài vũ trụ mênh
mông. Đức tánh trinh bạch và siêu việt ấy, chỉ có hoa sen mới đủ sức
tượng trưng.
Bắc tông Phật giáo đặc trọng ý nghĩa "thanh tịnh
trong ô nhiễm" nên chủ trương "phiền não tức bồ đề",
"sanh tử tức niết bàn". Không thể tìm Bồ Đề ngoài phiền não,
không thể có Niết bàn ngoài sanh tử. Cứ ngay trong phiền não chúng ta
khéo chuyển sẽ thành Niết bàn. Không chán sợ trốn tránh, không mơ ước
mong cầu nơi nào khác. Vì thế, đi đến chủ trương "tích cực nhập
thế". Bởi vì không thể có đức Phật ngoài chúng sanh, không thể có
cõi Cực lạc thanh tịnh ngoài cõi Ta bà uế trược.
Đôi mắt đức Phật đăm chiêu nhìn xuống là biểu thị
quán sát nội tâm. Giáo lý Phật dạy là giáo lý nội quan, luôn luôn phản
chiếu nội tâm để tự giác tự ngộ. Tâm mình là chủ nhân ông của mọi
hành động, mọi nghiệp quả. Ngộ được tự tâm là thấy được nguồn
gốc vũ trụ và nhơn sinh. Vì thế, Phật giáo chủ trương con người làm
chủ mọi quả báo an lạc hay đau khổ của mình. Muốn tránh quả khổ
đau, cầu quả an lạc, con người phải tự sửa đổi hành vi trong tâm niệm
và hành động nơi tự thân mình. Một tâm niệm lành, một hành động tốt
sẽ đến cho ta kết quả an vui hạnh phúc. Ngược lại, một tâm niệm ác,
một hành động xấu sẽ chuộc lấy kết quả khổ đau về nơi mình. Chỉ
có ta mới đủ thẩm quyền ban phúc giáng họa cho ta. Sự cầu cạnh, sự
van xin nơi tha nhân hay thần linh, nếu có chỉ là phần phụ thuộc không đáng
kể. Cho nên, ta phải quán sát lại ta, để luyện lọc tâm tánh và sửa đổi
hành động của mình. Ách yếu của sự tu hành là phản quán tự tâm. Vua
Trần Nhân Tôn hỏi về bổn phận, tôn chỉ thiền, Tuệ Trung Thượng sĩ
đáp:
"Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha tắc"
(Soi lại nơi mình là bổn phận, không từ nơi người mà được). (Tam tổ
thực lục)
Những phút sống lại nội tâm đương nhiên đôi mắt đăm
chiêu nhìn xuống. Như khi chúng ta kiểm soát lại tâm tư hay hành động của
mình, dù đi, đứng, ngồi đôi mắt chúng ta nhất định phải nhìn xuống.
Khi chúng ta muốn van xin điều gì với những người đáng kính bên ngoài dĩ
nhiên đôi mắt phải trông lên vị ấy. Vì thế, khi nhìn lên đôi mắt đức
Phật, đôi mắt các vị thánh của tôn giáo khác, chúng ta có thể nhận biết
tôn giáo nào chủ trương nội quan, tôn giáo nào chủ trương ngoại quan.
Trên đảnh đức Thích Ca có cục thịt nổi cao gọi là nhục
kế (cục thịt đỏ), để biểu thị cho trí tuệ tuyệt vời. Theo các kinh
Pháp Hoa, Hoa Nghiêm... trên đảnh đức Phật có tướng không thể thấy, tướng
ấy bậc Bồ Tát từ Sơ địa trở lên chỉ thấy được đôi phần, trừ
Phật với Phật mới thấy trọn vẹn. Tướng ấy biểu thị cho pháp thân.
Vì chúng sanh không thể thấy nên gọi là "Vô kiến đảnh tướng".
Chung quanh tượng Phật có những tia hào quang sáng chiếu để
tiêu biểu ánh sáng trí tuệ của Phật lúc nào cũng soi sáng thế gian. Theo
trong kinh nói chung quanh đức Phật luôn luôn có hào quang soi sáng một tầm.
Bởi vì con người luôn luôn có một lớp nghiệp bao quanh, nếu nghiệp ác
thì hiện lên vừng hắc ám, chúng sanh trông thấy kinh sợ, nếu nghiệp thiện
thì hiện ra ánh sáng trong lành, chúng sanh trông thấy sanh tâm kính mến.
Vì mắt thịt chúng ta quá thô thiển nên không thể trông thấy rõ ràng,
song nếu tinh tế nhận xét cũng có thể biết được phần nào. Như người
hiền lành đến trước chúng ta, nhình thoáng gương mặt là ta có cảm
tình ngay. Nếu người dữ đến trước chúng ta, nhìn sơ qua ta tự nhiên nảy
sanh ác cảm liền. Cái linh cảm ấy không phải căn cứ vào hình thức, mà
nó siêu hình thức. Thiết thực nhứt là các anh đồ tể khi vào xóm làng
bị chó theo đuổi sủa không thôi, dù họ chỉ đi tay không cũng thế. Cho
nên ngày xưa các vị tu hành đắc đạo, có ai đến tham học, một phen nhìn
qua là các Ngài biết phước duyên kẻ ấy mỏng hay dày, rồi tùy căn cơ
giáo hóa. Đức Phật là con người thuần thiện, tâm thanh tịnh, trí sáng
suốt thì ánh sáng hào quang bao bọc chung quanh là lẽ đương nhiên.
Phật giáo Bắc Tông thường thờ tượng Phật Thích Ca sơ
sanh. Tượng này hình một hài nhi đứng trên hoa sen, tay mặt chỉ lên, tay
trái chỉ xuống. Đó là biểu thị một bậc thánh nhân xuất thế, vừa lọt
lòng mẹ đã có những hành động siêu phàm. Và câu Ngài thốt ra lúc ấy
là:
Trên trời dưới trời,
Chỉ ta hơn hết;
Tất cả thế gian
Sanh, già, bệnh, chết.
Nghĩa là từ nhơn gian đến các cõi trời, đối với vấn
đề sanh, già, bệnh, chết, chỉ có Ngài là người vượt ra và cứu thoát
tất cả. Song Bắc Tông Phật giáo thường thường dẫn hai câu đầu thôi,
để nhấn mạnh vào chữ "ta" ám chỉ pháp thân tuyệt đối, trên
trời dưới đất không gì bì kịp.
Đây chỉ lược giải thích vài đặc điểm trong hình tượng
đức Phật Thích Ca. Mong rằng mỗi khi đến lễ dưới chân tượng Ngài, mỗi
người đều ý thức được mình phải làm gì đối với hình ảnh biểu
thị ấy. Sự hữu ích của việc lễ Phật gốc ở chỗ nhận được thâm
ý, rồi thể theo đó sống một cuộc đời cao đẹp như Ngài.