-
Thơ Mặc Giang qua vài thành tựu
nghệ thuật
Xem
đại lượng thi phẩm của Mặc Giang, người viết nhận thấy tác giả khá thành
công trong việc xây dựng tính nghệ thuật khi mô tả, trình bày, diễn giải,
hay tỏ bày tình cảm đối với một cảnh huống, một nội dung nào đó. Cho thấy,
đối với yêu cầu của một bài thơ, người thơ Mặc Giang tỏ ta khá nghiêm túc.
Có thể nói, thơ Mặc Giang là điển hình của triết lý hiện sinh, viên dung
các giá trị nghệ thuật đặc trưng của thế giơí thi ca. Hay nói khác hơn, là
nơi tụ hội sự thống nhất tập trung thuần nhất giữa tư tưởng nội dung với
thủ pháp nghệ thuật.
Từ phong cách sáng tác,
một trong những thành tựu đặc sắc trong thơ Mặc Giang là giá trị hiện thực.
Xưa nay, thi nhân Việt Nam viết thơ tự sự không nhiều, đề cập đến đời sống
quần chúng cũng ít. Về phương diện này, có thể nói rằng, Mặc Giang đặc
biệt thể hiện khá sinh động, gần như toàn diện. Mặc Giang có những trải
nghiệm cuộc sống rất phong phú, mà mỗi lần xúc cảnh là mỗi lần biến thành
sức thần cho ngọn bút tuôn chảy giữa thế giới thơ muôn màu và tánh thể vô
biên của tình thương. Thơ Mặc Giang có rất nhiều bài đến từ cuộc sống, từ
tâm hồn biết hoà nhập dịu xoa nỗi khốn khổ cho đời. Hay đó chính là từ
chân thành nhiệt huyết khắc khoải ngóng trông của cái nhìn “mờ mắt lệ
viếng thăm dòng sinh tử”, ấp ủ nâng niu tình người. Tất cả như đang tuôn
chảy không mệt mỏi, không điểm đích về trang đời, hay chính là những trang
thơ hiện thực.
Mỗi câu thơ, ý thơ, tứ thơ
của Mặc Giang, là một hướng sống đẹp, một ý chí vực dậy giữa dòng sống với
bao yếu hèn mộng mị. Hay đó chính là sự thẩm thấu sâu xa những thanh âm,
những màn đêm vụn vỡ, kinh hoàng của kiếp sống bèo bọt, tương tác trên
chuỗi biến hiện thành-trụ-hoại-không này. Do đó, những áng thơ về
hiện thực của Mặc Giang là luôn viết về những nghiệt ngã thương đau, buồn
tẻ của bao mảnh đời chỉ biết vùi chôn trong bóng đêm, trong ngõ cùng không
lối thoát. Qua đó, cho thấy, thơ hiện thực của Mặc Giang luôn là những dư
âm, tàn tích, là gương soi dòng tâm đang phản chiếu bóng dáng hình hài của
dòng hiện sinh, rồi dâng tràn trong khối óc, chảy dài trong huyết mạch.
Tất cả như đang từng hồi gõ theo nhịp đập cảm xúc, theo bao tang thương
không lường. Thơ Mặc Giang chân thật cụ thể phản ánh cuộc sống hiện thực
một cách rất hình tượng, rất sống động, như một hiện cảnh đang dàn trải
trước không gian không bến bờ.
Tuôn chảy từ kết tinh của
lô trình tương duyên đó, nên môt trong những nghệ thuật sáng tác của người
thơ Mặc Giang, là chọn cho mình thủ pháp biểu hiện chủ nghĩa hiện thực của
cuộc sống đang là này. Đây là một trong những nguyên nhân nội tại đặc sắc,
khiến nguồn thơ Mặc Giang ra đời với số lượng choáng ngợp, với chất lượng
như dấu ấn trải dài vun vút trên cán cân công lý và cung đàn tình thương;
khiến người đọc thêm trân quý, phân tích, suy tư, nghiền ngẫm để dừng gót
chân phiêu lãng đi kiếm tìm hoá thành giữa phố phường mộng ảo.
Một trong những đặc sắc
trong thơ hiện thực Mặc Giang, là biểu hiện rất nổi bật, phong phú và hoàn
chỉnh trong cảnh tượng, cũng như âm sắc gợi hình gợi tả. Do đó, thơ tự sự
và thơ trữ tình của Mặc Giang là nét son ấn lên những trang thơ hiện thực
của dòng thơ Việt
Nam. Nó là sông núi,
là suối nguồn, mãi mãi là hơi thở của tất cả hiện hữu của dòng chảy sinh
mệnh.
Tìm vài đặc điểm chủ nghĩa
hiện thực trong thơ Mặc Giang, người viết chỉ khiêm tốn xoay quanh những
áng thơ theo hai thể loại tự sự và trữ tình, thông qua những đặc trưng
nghệ thuật biểu đạt sau :
Thứ nhất,
Mặc Giang rất tài trong nghệ thuật khái quát cuộc sống điển hình. Có thể
thấy rõ người thơ Mặc Giang khá thành công trong việc chọn lựa và khái
quát những nhân vật ý nghĩa điển hình; biết thông qua tình tiết cá biệt để
phản ánh, gợi mở cái thường tình, hay chính nét chung của cuộc sống.
Mẹ quê khóc mãi đêm dài
Da mồi tóc bạc, hôm mai
bơ phờ
Kia trông em bé thơ
ngây
Xuân xanh đốt cháy
trông chờ chi đây
Kìa trông thiếu phụ vai
gầy
Phấn son nhoà nhạt,
niềm tây lạnh lùng
(tiếng lòng nức nở quê
hương)
Qua tình tiết cá biệt
người mẹ quê, em bé vùi tuổi thơ trong cảnh thương tâm thất vọng, tuổi
xuân đã bị gậm nhấm bởi vết buồn thương theo tà tháng năm, người thiếu phụ
mòn mỏi nhớ nhung niềm vui đoàn viên hay tái hợp, thi nhân đã vẽ ra toàn
cảnh niềm đau của quê hương.
Tiếp theo những dòng thơ
hiện thực, người thơ Mặc Giang đã miêu tả bằng lối kể chuyện:
Có những em bé,
Không bao giờ được ngậm
cục kẹo, cắn cà rem
Chỉ đứng nhìn rồi lấm
lét phát thèm
Nuốt nước bọt rồi quay
đi chỗ khác
Thân xương xẩu bọc làn
da tái mét
Mũi thò lò thụt thịt có
tội không
..…Vọc đất bụi bay,
ruồi muỗi bu đầy…..
(Những em bé cơ cùng)
Đặc trưng hình ảnh này nói
lên sự thật về cuộc sống của những em bé cơ cùng trên mọi nẻo miền quê
hương đất nước. Hễ nghèo khó khốn cùng, đau thương vùi dập, thì trẻ thơ
trên quê nghèo khốn khó phải trải qua những thương tâm xót xa như vậy. Bên
cạnh đó, người thơ Mặc Giang còn khái quát một cách tập trung cao độ gia
cảnh người nghèo:
Mái tranh chừa lỗ ngó
ông trời
Vách lá chừa khe đón
gió chơi
Cơm cháy phơi khô dành
nấu cháo
Nhà không đóng cửa
chẳng ai dời
Tháng năm lui tới không
ai hỏi
Thấp thỏm lân la chẳng
ai mời
Là thực trạng chung những
mảnh đời nghèo khó. Qua cái cá biệt, dưới ngòi bút điêu luyện, thiện nghệ,
bút lực vô song, thi nhân Mặc Giang giúp chúng ta thấy cái chung của những
phận nghèo. Đặc trưng những hình ảnh này nói hộ rằng, đã từ lâu lắm rồi,
mảnh đất “quê hương chất chồng bao thương tích, vết cũ chưa khô máu lại
bồi”. Vâng, vết thương tích là sự nối dài diễn tiến của những lằn sẹo
vết thương trước, nhưng cũng chính nó lại là dòng sinh mệnh nghiệt ngã,
tạo thành móc nối cho những vết thương tiếp theo. Chúng đang nối đuôi nhau
đi mãi về hoang sơ, tiêu điều, buốt giá…
Bằng nghệ thuật thông qua
cái một để biểu thị cái nhiều, cái riêng để lột tả cái chung, miêu tả một
vùng miền để rõ tất cả miền đất khác trên quê hương Việt Nam, người thơ
Mặc Giang cho thấy, đằng sau giá trị nghệ thuật này chính là nỗi lòng, là
tâm tình vùi chôn giữa chiếc bóng thời gian của người cùng khổ. Cũng chính
sau giá trị nghệ thuật kể chuyện tự sự, là sự âm thầm của lời kêu gọi
lương tri, trách nhiệm của giữa mỗi con người, giữa các giai tầng xã hội.
Thứ hai,
là Mặc Giang giỏi gởi chủ quan nơi khách quan. Cũng chính là đem ý
thức chủ quan, tình cảm tư tưởng riêng mình dung hóa trong những miêu tả
cụ thể sự vật khách quan, mà không nói ra rõ ràng lộ liễu, như con trâu
thì nói con trâu, buồn nhức nhối tâm can thì cứ nói đau lòng xót dạ. Đây
là một trong những đặc điểm lớn và rất điển hình trong thơ tự sự của Mặc
Giang, cũng là một trong những bản lĩnh của thi nhân. Bởi Mặc Giang đã
khéo khắc chế trạng huống cảm xúc, xúc động. Đó là gì? là Gợi lòng
con quốc, quốc kêu sương. Con quốc với tiếng kêu buồn khản tiếng,
hình ảnh nước sông nguồn ngọn lá cây, đá … đều là những hình ảnh nói hộ
nỗi lòng thống thiết đau buồn của thi nhân. Thi nhân hẳn buồn thương nhức
nhối trước bao biến thiên lỡ bồi bãi biển nương dâu đan chéo trên quê
hương, trước bao biến trạng đổi thay bấp bênh nghịch chiều vận động phát
triển của cuộc đấu trí tồn sinh. Đồng thời cũng đã âm thầm gởi gắm niềm
thiết tha mong ước, đợi chờ trong hi vọng le lói.
Cũng chính nhờ Mặc Giang
đem cảm thọ chủ quan và bình luận của mình dung hóa trong miêu tả những sự
vật khách quan, nên khiến bản thân sự vật trở nên hấp dẫn cuốn lôi người
đọc, hay chính bản thân chúng trực tiếp cảm nhiễm đôc giả. Để rồi đâu đó
là lời thống thiết của hồn thơ chắp cánh bay đi ngàn phương, nấc lên nốt
nhạc buồn khi dấu chân hành trình vô định trở thành dấu hài lưu lạc giữa
phương trời viễn xứ :
Một đi cửa đóng then cài
Một đi lối cũ dấu hài dặm
băng
Vi vu thông gọi lời ngàn
Nao nao nước chảy miên man
mịt mờ
Với thủ pháp nghệ thuật
này, ý thơ đã chuyển tải được ý nghĩa bước chân và tâm hồn của người con
cùng tử. Một chuyến ra đi nào đâu phải để rong rêu phủ kín thềm hoang, ra
đi là đi để trở về quê xưa, nơi có tiếng hát ầu ơ của mẹ, tiếng vọng buồn
của cha. Gót chân người con cùng tử giờ thoạt nhìn như “lang thang làm
khách phong trần mãi, ngày vẫn xa quê vạn dặm trường”. Thế nhưng, hẳn sự
ra đi này xa rời cách biệt với ý niệm ra đi vừa nêu của Trần Thái Tông.
Bởi ra đi bây chừ là cuộc ra đi quyết định tồn sinh định hướng cho mảnh
đất tâm, là bước chân gõ lên đường đơì những dấu hài vọng thiên thu. Ngày
đoàn viên đôi khi và cũng có thể chỉ là “đánh dấu hỏi gởi phương trời vô
định”.
Tâm tình thi nhân Mặc
Giang ẩn náu gởi gắm kí thác qua hình ảnh “bụi tre nghiêng bóng sau hè,
bờ sông mòn lối con đê”, hay “rừng khuya thức giấc mấy canh trường,
gội bóng trăng tàn những vấn vương”. Hình ảnh cảnh vật gợi tả ở đây
cũng chính là tâm hồn nặng trĩu tình quê, thân thiết vò võ thổn thức tận
đáy hồn, vô chung…, mà bởi lý do thầm kín riêng tư nào đó khiến mộng ước
cứ mãi như trò bắt bóng, càng nắm bắt càng xa xăm.
Việc gởi tình cảm chủ quan
nơi sự vật khách quan như thế của Mặc Giang, lắm lúc khiến chúng ta không
khỏi âm thầm quặn thắt xót xa. Tình cảm chủ quan là vậy đó, là mượn nhờ
cảnh vật nói hộ sự mong mỏi đợi chờ nhưng lại sẵn sàng chối từ cuộc đoàn
viên như là thái độ “đưa không nhận, đẩy không cho, không thêm không bớt”.
Mà mâu thuẩn ở chỗ là, tháng ngày chỉ trở thành nơi chôn sâu chìm lắng tâm
tình người ly hương. Để từ đó, sự dâng tràn thâm thiết của tâm hồn được
gởi gắm qua hình ảnh buồn tênh “….. nhìn trông con én liêng từng không,
vỗ cánh buồn bay dưới bụi hồng, mặt nước chân mây lồng lộng quá, về đâu
con én giữa mênh mông”. Giữa từng không dịu vợi, giữa mây trời vần vũ,
cánh én đơn côi biết về đâu đây. Én bay khắp phương trời vô định, góp nhặt
trong hương nước mây ngàn dấu ấn của dòng sống, cũng chính là sự tom góp
không mệt mỏi những hoá thân, những nỗi niềm xúc cảm tình tự của Mặc Giang.
Cuối cùng, con én vốn không là chứng tích cuả mùa xuân ấy mãi hiện hữu,
xuất nhập, tới lui… lang bạt khắp nơi, rồi như truyền đi khắp nơi tiếng rì
rào của sóng nước. Làn sóng giao thoa, bươn dài mãi mãi, sinh thành tồn
tại trong từng sợi tơ lông của cánh én vút từng mây, lan đi và đi mãi đó
đây…. Để làm gì nào? để mang hình sơn khê, để ngao du cho hết cõi đời, để
gom góp cái tàn dư rong rêu của cuộc sống, và để hoá mình vào tự thể quang
minh. Cuối cùng, khiến tự thể quang minh trở thành sức bật cho thi ca chắp
cánh vút đi, lao thẳng giữa thế giới Thơ, nghệ thuật và Đạo. Nên “về
đâu con én giữa mênh mông” là câu hỏi nhưng cũng là trả lời. Nơi đi về
ấy là “phương ngoài phương, cõi ngoài cõi”, tìm không thấy, nhưng
không đâu không hiện.
Một loạt hình ảnh thanh âm
thể hiện tình cảm, cảm nghĩ nữa là :
Quốc kêu sương não nuột
tiếc đêm dài
Ếch nhái cũng tàn hơi,
tiếng một tiếng hai
Hổ sói chồn beo cũng ồ ề
mệt ngủ”
hoặc :
Hùm thiêng còn ái ngại
thét tiếng gầm vang,
Chim muông vở tổ vụt cánh
bàng hoàng
và
Chiều rủ bóng rừng già ru
cỏ dại
Bờ lau lách ao tù reo ếch
nhái
Đồng ruộng hoang, đầm lạch
gọi ểnh ương
Tiếng thạch sùng chắt lưỡi,
tiếc đêm trường
Chúng đều là mượn cảnh tả
tình, xúc cảm xót thương trước thực trạng quê hương khi mà “nhiễu điều…”
héo hắt, đùa bỡn; khi chỉ còn trơ lại sỏi đá của những hành trình “độc đạo”,
chỉ có con đường mở ra lộ trình đi về ngõ tắt, bóng tối thâm u. Tiến thêm
bước nữa, thơ Mặc Giang là vậy đó, nói cái này, đã bao hàm cái kia trên
cùng một hệ tương sinh. Gì là cái kia? chính là Mặc Giang kí thác vùi chôn
nỗi buồn tê dại, mà hoạt dụng của ngôn từ cũng phải bất lực, phải ngậm tăm
bí lối, cho dù chữ nghĩa lấp đầy trăng sao, nghẽn lối càn khôn. Cái đau
buồn vô cùng này cũng là những tan vỡ bàng hoàng, biến thiên theo những vi
tế nhất của cảm xúc, của tác ý; nhưng không thể dừng lại để giúp Mặc Giang
ngủ một giấc dài, ru giấc mộng đời với vui thú hải hồ. Thế đó, bước tiếp
theo là một tất yếu, là tác giả phải cảm thọ, rồi phải tưởng
và tư. Trong thơ Mặc Giang, những giá trị không thể đong lường bằng
ngôn từ này mang đến cho người đọc sự cảm nhận, choáng ngợp mến phục,
chính là hảo cảm đối với thi phẩm. Để từ đó mới có thể cùng nhau lắng nghe
tiếng kêu buồn tê dại, lạnh buốt cả cuộc hành trình tràn đầy thơ, đó là
“tiếng kêu con quốc những đêm đông, tuế nguyệt phong sương vẫn lạnh lùng,
năm tháng bọt bèo trêu sóng nước…”.Ôi ! đêm đông, tuế nguyệt,
phong sương vẫn còn đó, con quốc vẫn còn đây, kêu…, gào …, nỉ non… vô tận…
Thứ ba,
là cá tính hóa đối với việc vận dụng đối thoại và ngữ ngôn nhân vật; nhằm
phản ánh kinh nghiệm, tâm lý cá nhân, miêu tả nhân vật một cách sinh động.
Mặc Giang hình như cũng hấp thu có chọn lọc kinh nghiệm sáng tác của những
thi nhân tiền bối, đã vận dụng đối thoại hoặc tiếng nói một mình của nhân
vật, và rất thành công trong thể hiện cá tính hóa của ngôn ngữ nhân vật.
Trong cuộc sống, không thể có những lời nói hoàn toàn giống nhau, mà Mặc
Giang phát hiện được những nét riêng của ngôn ngữ nhân vật, giúp đọc giả
hình dung được hoàn cảnh, bản chất tính cách nhân vật.
Trong thơ tự sự của Mặc
Giang, loại này xuất hiện khá nhiều. Trong Tôi là người chinh nhân,
viết: “… từ biệt mẹ già từ biệt em thơ….. chỉ còn một con đường
chọn lựa, đem tấm thân ngang dọc mọi chiến trường, đem màu đào nhuộm thắm
khắp quê hương”.Vì khẳng nhận : “tình sống chết là tình yêu lính
chiến”, nên khi nào chinh nhân cũng cảm nghe “một bước hành quân,
gợi niềm nhung nhớ…” Ngay cả niềm thương chôn kín trong gót giày, tuôn
ta trên đầu ngọn súng mờ khói lửa, là chỗ sâu kín tế nhị khó thấy, ấy vậy
mà vẫn được Mặc Giang lột tả thành một thứ ngôn ngữ riêng, thổn thức riêng
của người trong cuộc. Cũng như trong trong Tôi là người thanh nữ
thì tả “ lòng ôm chặt những những nỗi niềm riêng lẻ, ……..gánh bơ phờ đã
nặng trĩu hai vai, tôi vẫn vui không tiếng thở dài…”. Là lời kể thân
thiết của người thanh nữ về thân phận và trách nhiệm của họ, phản ánh diện
mạo tinh thần khá nổi bật, mà đọc lên, cho chúng ta luôn có cảm giác như
thấy như nghe được cảm xúc trong thẳm sâu nỗi lòng của họ. Hoặc viết :“tôi
là một người già, tháng ngày ngồi ngóng co ro, ra vô ngán ngẫm dày
vò….. đứng đi từng bước lò mò…..”. Đây chính là ngôn ngữ có thể nói
thành 1ời, nhưng cũng có thể không nói ra của người già. Nhờ vào nghệ
thuật cá tính hóa ngôn ngữ này, Mặc Giang đã tỏ bày sự cảm thông chia sẻ
nỗi cô đơn trống trải của người già. Rồi trong trong các bài như Em
là người khuyết tật, Tôi là một người câm, Tôi là một người điếc, Tôi là
người dân quê đồn điền, Thăm người mua bán ve chai, Khổ
nghèo ôm thân phận, Thăm người lao động, Tôi người tài xế xe đò, Tôi người
đạp xích lô, Tôi người cạo mủ cao su… , đều là các bài thơ như mở
rộng mức thân thiết cảm, như nói hộ tiếng lòng cho bạn tri âm. Chẳng hạn
về cảnh đói nghèo, thì tả: “tháng năm dài đờ đẫn thở hết ra, đi đây đó
nhìn cuộc sống của người ta, về vừa tời xó nhà trông phát quải…… khi thất
mùa phải lo chạy cân đong, khi bịnh hoạn nằm lì không thang thuốc…. Chuyện
nọ kia càng khốn khổ thấy bà, nên lủi thủi xó nhà ôm thân phận”. Chỉ
tượng trưng đôi câu vây thôi, đã làm nổi bật tính cách nhân vật qua những
ngôn từ rất riêng của bạn nghèo. Loại này hầu như bàng bạc khắp trong các
bài thơ tự sự của Mặc Giang.
Nói chung, qua những thi
phẩm tự sự của Mặc Giang, ta thấy lời nói của nhân vật thường xuất hiện
nhiều hơn ngôn ngữ kể chuyện của tác giả, nên càng có khả năng thể hiện sự
sinh động và khiêu gợi cho người đọc hình dung về bản chất, tính cách của
từng thân phận, như viết : “Tôi là một người già, nhiều khi đi đây đi
đấy, thập thò mà ngóng mà trông, thấp tha thấp thỏm trong lòng, mỏi mòn
cháu con mới tới, chưa kip đi đã nghe hối, chưa kịp bước gọi nhanh lên”….
Đọc lên, ta nghe như một ông bà già đang thụt thịt, vừa quẹt nước mũi, vừa
lau nước mắt tâm sự với chúng ta, chứ không mang lại cho chúng ta cảm giác
là đang đọc thơ với lối tường thuật hay kể chuyện nào cả.
Qua đó cho ta thấy, Mặc
Giang đã hiểu rõ, làm sao có thể có những người nói như nhau, vì vậy cần
phải phát hiện những nét riêng của ngôn ngữ nhân vật để thể hiện rõ nét
riêng biệt nổi bật trong thi phẩm. Trong các bài thơ hiện thực, việc cá
tính hóa nhân vật trong bao mảnh đời bất hạnh, được Mặc Giang đặc biệt
quan tâm và thể hiện nhiều cách khác nhau, có thể sử dụng môt số ngôn từ
địa phương, như : “mệt thấy bà”, “buồn thúi ruột”, “bên nớ, bê ni” ,
“không hè”, “nẫu” là tôi, “tâu tư bòn”, “phát quải” là mệt mỏi, “khú đế
như miêu nó vẫn meo”, “mệt ui cha!”, “khỉ mốc”, “cóc lác”, “mà nị”, “rùm
beng”, “ngươita nói chi như rứa”, “tôi nói chi như ri”… Nhưng dù sử dụng
cách nào, ngôn ngữ nhân vật đều phải có sự chọn lọc nhằm đạt đến sự thống
nhất giữa cá thể và khái quát hóa; đồng thời rất phù hợp với từng hoàn
cảnh và tính cách nhân vật.
Thứ tư
là chọn dùng ngôn ngữ thông tục đời thường, hình ảnh dân dã thân quen. Đây
là một trong những nét nổi bật trong thi Mặc Giang. Trong những bài thơ
xoay quanh tình cảm, Mặc Giang dùng rất nhiều văn từ thông tục, rất đời
thường, rất dung dị, bình phàm dễ hiểu, nhưng trong thơ tự sự thì càng
phong phú hơn. Do vì thơ tự sự phần nhiều là viết về cuộc sống của con
người, nhờ chọn dùng một vài ngôn ngữ thông tục, nên làm nó tự tăng thêm
tính chân thật và thân thiết cảm trong thơ ca:
Có tre mấy luỹ yên lành
Có chim ca hát trên
cành líu lo
Có con đường dất quanh
co
Có người đưa đẩy con đò
lại qua...
Có đầm sen nở sum suê
Dân làng xin hái đem về
cúng dâng
…………
Có ve réo rắt trưa hè,
Có cây phượng vĩ chở
che oi nồng
Chùa tôi có kiểng có
bông….
Có hàng ghế đá rêu
phong
Có hòn non bộ nằm trong
sân chùa.
Đây đều là những hình ảnh,
những ngôn từ rất đỗi dung dị thân quen. Hình ảnh này là hơi thở, câu nói
tiếng cười nơi chôn nhau cắt rốn cuả người dân làng; là nét đẹp thôn trang,
rộn rã nhưng yên bình, dân dã nhưng cao sang và thanh tao, rất Việt Nam…
Hình ảnh ngôi chùa cổ kính, mang màu sắc cổ kính, hiền hoà tao nhã với thú
mây trời gió núi, đầy ắp tình dân quê này càng làm cho người đọc cái cảm
giác thân gần hơn, ấm cúng hơn, để lời ca :“chùa tôi tôi nhớ tôi thương,
quê tôi tôi nhớ vấn vương muôn đời” trở thành tiếng nói thầm kín của
người dân quê Việt Nam .
Hoặc viết “già cả mấy
đồng cắt ca cắt củm…..già tôi khổ quá vậy hè !” hoặc trong mấy bài như
Hỏa hoạn điêu tàn, Bảo lụt thảm thương, những ngôn từ thông
tục trong bài đều hiển bày bản sắc của sự kiện, đều là những hình ảnh sinh
động gợi hình gợi tả nhất, khiến người đọc như chứng kiến hiện trường cái
cảnh hoạn nạn, như đang nghe nỗi đau đớn, tiếng thở dài não nuột của nạn
nhân. Rồi cũng dùng ngôn ngữ giản dị khi tả cảnh phòng khám: “…. bịnh
bó tay thì há hốc, im re, giàu sang nghèo khó cùng kéo một bè, thượng vàng
hạ cám cùng đi một lối”; hoặc “khoẻ khoắn gì đâu, mệt thấy bà”…
đều là những câu với ngôn từ rất quê, rất mộc mạc, càng làm tăng tính thân
thiết cảm của ý thơ.
Thứ năm
là miêu tả tỉ mỉ. Mặc giang giỏi nắm bắt một cách phong phú nơi sức biểu
hiện, có khả năng hiển bày một cách chi tiết tỉ mỉ bản chất sự vật hoặc
diện mạo tinh thần của nhân vật. Như trong Cuộc sống người cùi,
Mặc Giang tả : “lết lê mòn mỏi một vùng, lết ra ngao ngán lạnh lùng lết
vô, lết mòn vỏ lớp làm mo, dày thêm lớp nữa lết cho hết đời….lết lê nước
mắt hai hàng, lết reo nhân thế động lòng ban cho”. Sự tỉ mỉ chi li này
cho chúng ta hình dung một cách sống động cảnh ngộ của người bệnh phong.
Cái giá trị đằng sau đó nữa là hình ảnh này không những biểu hiện nỗi
thống khổ của người bệnh, mà còn nói rõ, họ là những thân phận đáng được
quan tâm hỗ trợ, đông viên, an ủi. Đồng thời nó cũng là tình cảm chân
thành chí thiết cảm thông sâu sắc, xót thương vô vàn của tác giả. Trong
Tôi mang thân phận người mù, thì “bóng hình nào có
trong đời, dung nhan nào biết khôi ngô đê hèn, rà qua soát lại làm quen,
nhấp nhô, thò thõm, hom hem nhô lồi”. Chi tiết và động tác này
khắc hoạ được nội tâm sống trong âm thầm đau khổ buồn tủi đến tận cùng của
người mù. Chưa dừng lại trong cảnh mù đâu, Mặc Giang còn dẫn chúng ta
viếng cảnh Từ cõi chết em lần mò sống lại :
Trố mắt, sững sờ, ngậm
câm, kinh ngạc
Máu ngừng trôi, tim
ngừng đập, khóc, than
…..Khóc nữa đi em cho
cạn thương đau
Cõi sống còn đâu, cát
đá đổi màu….
….Khung trời cong cong
một bọc
Đất mờ lãng vãng bụi
bay
Ở đây không những miêu tả
chi li, đường nét sinh động của thảm cảnh động đất, mà còn lột tả được tâm
tình chồng chéo ngổn ngang, khổ đau chất ngất của nạn nhân. “Khung trời
cong cong một bọc” là khung trời tím xám ly biệt tang thương, ao ước chờ
đợi cuộc sống mới. Sống trong cảnh màn trời chiếu đất, không thân thích
không cơ nghiệp, là sống giữa uất nghẹn … não nề…. Nó như kéo dài mãi
trong cuộc đời của những số phận hẩm hiu. Đây hẳn là sự miêu tả độc đáo,
chí tình chí thiết của tác giả.
Còn trong Hạn hán
bạo tàn, thì tả: “trâu bò há mồm dưới rãnh dưới
mương, súc vật đẫn đờ giữa dòng giữa suối, đàn cò trắng cắm đầu giữ
đầm lầy nhả khói”; trong Thăm người mua bán ve chai, tác
giả viết :“bán buôn đủ mọi thứ trên đời, xoong chảo nồi niêu, chén, bát,
môi, nhôm bạc thau chì đồng kẽm sắt, và thêm lông vịt nữa”. Đặc điểm
miêu tả tỉ mỉ như vậy trong thơ tự sự của Mặc Giang là nhiều lắm. Tùy vào
hoàn cảnh và nội dung sự việc khác nhau mà tác giả có những cách miêu tả
tỉ mỉ chi li khác nhau, nhưng cái chung nhất là thể hiện sức quan sát tinh
tế, toàn diện. Qua đó, thể hiện tấm lòng rộng mở, nhiệt huyết, ánh mắt
luôn vò võ ….xa xăm…. đầy thương cảm.
Trong thơ tự sự, Mặc Giang
gởi tình nơi sự vật; trong thơ trữ tình, thì gởi tình nơi cảnh, dung cảnh
vào tình, khiến tình và cảnh giao dung. Đây cũng có hai tình huống, một là
tình và cảnh đồng thời xuất hiện, như “bên bờ ao cá ngậm tăm không đớp,
súng chen bèo buồn ủ dột lặng thinh”, “ngày vụt tắt nghe tiếng gãy cánh,
đêm chìm sâu nghe tiếng dế nỉ non” “bóng đom đóm lập loè trong đêm tối,
hắt hiu thành lời, ghi nét đau thương”. Một tình huống khác là chỉ có
cảnh mà không thấy tình, như :“trời chiều kéo hoàng hôn, chim bay về tổ
ấm, cho gừng cay muối mặn, cho hoa trái đơm bông”, đã bao hàm tâm tình
thương xót.
Qua đó cũng cho thấy,
trong thơ tự sự, Mặc Giang thường tỏ ra hết sức có ý thức về việc tránh
phát nghị luận. Còn trong thơ trữ tình, cụ thể là thơ nói về cảnh đất nước
con người, lại thỉnh thoảng phát biểu nghị luận, đưa ra cái nhìn đúng đắn
và phê bình nhận định đối với sự việc, như… “lưỡng hổ tranh hùng nhất
sinh nhất tử, đa cáo tranh phong, đại náo đại thương …đày biển dâu cho nát
bã nhục vinh, đọa thương hải cho tang điền ứ đọng” ….
Qua đó cho thấy, là một
thi nhân viết tương đối nhiều về hiện thực, thơ tình cảm của mặc Giang
cũng có phong cách của riêng của cá nhân mình. Trong thơ tự sự, Mặc Giang
thường thường khắc họa những khổ đau thầm kín, nỗi khổ đời thường của nhân
vật, những mâu thuẩn của thế giới nội tâm. Tất cả những mức độ khổ đau và
tâm thái tiếp nhận khổ đau, đều được tác giả tiến hành mỗ xẻ một cách chi
tiết, hoàn chỉnh; và tác giả cũng đã biến tình và cảnh dung hợp thống nhất
hoàn chỉnh trong một không gian thời gian nhất định. Chúng có sức rung cảm
tận chiều sâu lòng người đọc.
Vậy, cái đẹp nghệ thuật
trong thơ hiện thực của Mặc Giang không phải ở chỗ ngôn từ nặng ký, trau
chuốt hoa mỹ, hình ảnh xa xôi mờ ảo nào, mà chính là ngay trong ngôn từ
thông tục, hình ảnh đời thường; cũng là ngay khi tình và cảnh hòa làm một.
Đó cũng chính là cái thường Đạo, cũng chính là triết lý hiện sinh. Chúng
cùng có mặt trong nhau, bổ sung hài hòa lẫn nhau. Cái thế giới nội dung-nghệ
thuật–thường Đạo như thế ấy như muốn tuôn chảy mãi giữa đời. Nhờ đó mà con
người sẽ có cơ hội cảm thụ được “thi hữu tận mà ý vô cùng”; tìm thơ bắt
gặp uyên nguyên của Đạo, tìm Đạo thì hấp thụ được nguyên khí của thơ. Thơ
Mặc Giang chỉ là thế đó. Bát ngát và mãi mãi…. Và đây ! chân trời thi ca
viễn mộng ấy đã và đang sờ sờ trước mắt ta đó. Cố nhiên, với nghệ thuật
chuyên chở và nội dung như vậy, nào phải là ngẫu nhiên, mà là quy luật có
tính chuyển hoá “nước đến thì ao thành”- người thơ Mặc Giang đã khéo dụng
tâm dụng lực gần cả mấy mươi năm nay.
http://www.buddhismtoday.com/viet/vh/MG_thanhtuu_nghethuat,htm