Trong khóa nghiên tu an cư mùa
hạ năm 2005, tại Tổ đình Từ Quang Montréal, Canada, các thắc mắc sau đây
được nêu lên trong phần tham luận:
1)
Khi nào gọi các vị xuất gia bằng Thầy, khi nào gọi bằng Đại Đức,
Thượng Tọa hay Hòa Thượng?
2)
Khi nào gọi các vị nữ xuất gia bằng Ni cô, Sư cô, Ni sư hay Sư Bà?
Có bao giờ gọi là Đại Đức Ni, Thượng Tọa Ni hay Hòa Thượng Ni chăng?
3)
Khi ông bà cha mẹ gọi một vị sư là Thầy (hay Sư phụ), người con hay
cháu phải gọi là Sư ông, hay cũng gọi là Thầy? Như vậy con cháu bất kính,
coi như ngang hàng với bậc bề trên trong gia đình chăng?
4)
Một vị xuất gia còn ít tuổi đời (dưới 30 chẳng hạn) có thể nào gọi
một vị tại gia nhiều tuổi (trên 70 chẳng hạn) bằng “con” được chăng, dù
rằng vị tại gia cao niên đó xưng là “con” với vị xuất gia?
5)
Sau khi xuất gia, một vị tăng hay ni xưng hô như thế nào với người
thân trong gia đình?
* * *
Trước khi đi vào phần giải đáp các thắc mắc trên, chúng ta cần thông qua
các điểm sau đây:
1)
Chư Tổ có dạy: “Phật pháp tại thế gian”. Nghĩa là: việc đạo
không thể tách rời việc đời. Nói một cách khác, đạo ở tại đời, người nào
cũng đi từ đời vào đạo, nương đời để ngộ đạo, tu tập để độ người, hành đạo
để giúp đời. Chư Tổ cũng có dạy: “Hằng thuận chúng sanh”. Nghĩa
là: nếu phát tâm tu theo Phật, dù tại gia hay xuất gia, đều nên luôn luôn
thuận theo việc dùng tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự)
để đem an lạc cho chúng sanh, tức là cho mọi người trong đời, bao gồm
những người đang tu trong đạo.
2)
Từ đó, chúng ta chia cách xưng hô trong đạo Phật ra hai trường hợp:
Một là, cách xưng hô chung trước đại chúng nhiều người, có tính
cách chính thức, trong các buổi lễ, cũng như trên các văn thư, giấy tờ
hành chánh. Hai là, cách xưng hô riêng giữa hai người, tại gia hay
xuất gia, mà thôi. Người chưa rõ cách xưng hô trong đạo không nhứt thiết
là người chưa hiểu đạo, chớ nên kết luận như vậy. Cho nên, việc tìm hiểu
và giải thích là bổn phận của mọi người, dù tại gia hay xuất gia.
3)
Có hai loại tuổi được đề cập đến, đó là: tuổi đời và tuổi đạo.
Tuổi đời là tuổi tính theo đời, kể từ năm sinh ra. Tuổi đạo là tuổi
thường được nhiều người tính từ ngày xuất gia tu đạo. Nhưng đúng ra, tuổi
đạo phải được tính từ năm thụ cụ túc giới và hằng năm phải tùng hạ tu học
theo chúng và đạt tiêu chuẩn, mỗi năm như vậy được tính một tuổi hạ. Nghĩa
là tuổi đạo còn được gọi là tuổi hạ (hay hạ lạp). Trong nhà đạo, tất cả
mọi việc, kể cả cách xưng hô, chỉ tính tuổi đạo, bất luận tuổi đời. Ở đây
không bàn đến việc những vị chạy ra chạy vào, quá trình tu tập trong đạo
không liên tục.
Bây giờ, chúng ta bắt đầu từ việc một người tuổi đời dưới 20 phát tâm xuất
gia, hay do gia đình đem gửi gắm vào cửa chùa, thường được gọi là chú
tiểu, hay điệu. Đó là các vị đồng chơn nhập đạo. Tùy theo số
tuổi, vị này được giao việc làm trong chùa và học tập kinh kệ, nghi lễ.
Thời gian sau, vị này được thụ 10 giới, gọi là Sa di (nam) hay
Sa di ni (nữ), hoặc Chú (nam) hay Ni cô (nữ). Khi tuổi
đời dưới 14, vị này được giao việc đuổi các con quạ quấy rầy khu vực tu
thiền định của các vị tu sĩ lớn tuổi hơn, cho nên gọi là “khu ô sa di”
(sa di đuổi quạ).
Đến năm được ít nhất là 20 tuổi đời, và chứng tỏ khả năng tu học, đủ điều
kiện về tu tánh cũng như tu tướng, vị này được thụ giới cụ túc, tức là 250
giới tỳ kheo (nam) hay 348 giới tỳ kheo ni (nữ) và được gọi là Thầy
(nam) hay Sư cô (nữ). Trên giấy tờ thì ghi là Tỳ Kheo (nam)
hay Tỳ Kheo Ni (nữ) trước pháp danh của vị xuất gia. Ở đây xin
nhắc thêm, trước khi thụ giới tỳ kheo ni, vị sa di ni (hoặc thiếu nữ 18
tuổi đời xuất gia và chưa thụ giới sa di ni) được thụ 6 chúng học giới
trong thời gian 2 năm, được gọi là Thức xoa ma na ni. Cấp này chỉ
có bên ni, bên tăng không có. Tuy nhiên trong tạng luật, có đến 100 chúng
học giới chung cho cả tăng và ni. Cũng cần nói thêm, danh từ tỳ kheo có
nơi còn gọi là tỷ kheo, hay tỳ khưu, tỷ khưu. Bên nam tông, tỷ kheo có 227
giới, tỷ kheo ni có 311 giới.
Giới cụ túc (tỳ kheo hay tỳ
kheo ni) là giới đầy đủ, viên mãn, cao nhất trong đạo Phật để từng vị xuất
gia tu tập cho đến lúc mãn đời (thường gọi là viên tịch), không phải thụ
giới nào cao hơn. Việc thụ bồ tát giới (tại gia hay xuất gia) là do sự
phát tâm riêng của từng vị theo bắc tông, nam tông không có giới này. Ở
đây, xin nói thêm rằng: Bắc tông (hay bắc truyền) là danh từ chỉ các tông
phái tu theo sự truyền thừa về phương bắc của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tây
Tạng, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật bổn và Việt Nam.
Nam
tông (hay nam truyền, nguyên thủy) là danh từ chỉ các tông phái tu theo sự
truyền thừa về phương nam của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tích Lan, Thái Lan,
Miến Điện, Lào, Cao Miên và Việt Nam.
Trong lúc hành đạo, tức là làm việc đạo trong đời, đem đạo độ đời, nói
chung sự sinh hoạt của Phật giáo cần phải thiết lập tôn ti trật tự (cấp
bậc) có danh xưng như sau theo hiến chương của giáo hội Phật giáo:
1)
Năm 20 tuổi đời, vị xuất gia thụ giới tỳ kheo được gọi là Đại
Đức.
2)
Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo được 20 tuổi đạo, được gọi là Thượng
Tọa.
3)
Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo, được gọi là Hòa
Thượng.
Còn đối với bên nữ (ni bộ):
4)
Năm 20 tuổi đời, vị nữ xuất gia thụ giới tỳ kheo ni được gọi là
Sư cô (hiện nay ở Canada, có giáo hội gọi các vị tỳ kheo ni này là Đại
Đức).
5)
Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 20 tuổi đạo, được gọi là Ni
sư.
6)
Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 40 tuổi đạo, được gọi là Sư
bà (bây giờ gọi là Ni trưởng).
Đó là các danh xưng chính thức theo tuổi đời và tuổi đạo (hạ lạp), được
dùng trong việc điều hành Phật sự, trong hệ thống tổ chức của giáo hội
Phật giáo, không được lạm dụng tự xưng, tự phong, tự thăng cấp, mà phải
được xét duyệt và chấp thuận bởi một hội đồng giáo phẩm có thẩm quyền, và
được cấp giáo chỉ tấn phong, nhân dịp đại lễ hay đại hội Phật giáo, trong
các giới đàn, hay trong mùa an cư kết hạ hằng năm.
Như trên, chúng ta có thể hiểu rằng: Sư cô nghĩa là Đại đức bên ni bộ. Ni
sư nghĩa là Thượng tọa bên ni bộ. Sư bà (hay Ni trưởng) nghĩa là Hòa
thượng bên ni bộ. Bởi vậy cho nên, các buổi lễ hay văn thư chính thức,
thường nêu lên là: “Kính bạch chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức,
Tăng Ni”, chính là nghĩa đó vậy. Tuy vậy, trên thực tế, chưa thấy có nơi
nào chính thức dùng các danh xưng: Đại đức ni, Thượng tọa ni, hay Hòa
thượng ni. Nếu có nơi nào đã dùng, chỉ là cục bộ, chưa chính thức phổ
biến, nghe không quen tai nhưng không phải là sai.
Đối với các bậc Hòa Thượng mang trọng trách điều hành các cơ sở giáo hội
Phật giáo trung ương cũng như địa phương, hay các Đại tùng lâm, Phật học
viện, Tu viện, thường là các vị trên 80 tuổi đời, được tôn xưng là Đại
Lão Hòa Thượng hay Trưởng Lão Hòa Thượng. Các vị thuộc hàng
giáo phẩm này thường được cung thỉnh vào các hội đồng trưởng lão, hoặc hội
đồng chứng minh tối cao của các giáo hội Phật giáo. Tuy nhiên, khi ký các
thông bạch, văn thư chính thức, chư tôn đức vẫn xưng đơn giản là Tỳ
kheo, hay Sa môn (có nghĩa là: thầy tu).
* * *
Đến đây, chúng ta nói về cách
xưng hô giữa các vị xuất gia với nhau và giữa các vị cư sĩ Phật tử tại gia
và tu sĩ xuất gia trong đạo Phật.
1)
Giữa các vị xuất gia, thường xưng con (hay xưng pháp danh,
pháp hiệu) và gọi vị kia là Thầy (hoặc gọi cấp bậc hay chức
vụ vị đó đảm trách). Bên tăng cũng như bên ni, đều gọi sư phụ bằng
Thầy, (hay Sư phụ, Tôn sư, Ân sư). Các vị xuất gia cùng tông
môn, cùng sư phụ, thường gọi nhau là Sư huynh, Sư đệ, Sư tỷ, Sư
muội, và gọi các vị ngang vai vế với Sư phụ là Sư thúc, Sư bá.
Có nơi dịch ra tiếng Việt, gọi nhau bằng Sư anh, Sư chị, Sư em. Ngoài đời
có các danh xưng: bạn hữu, hiền hữu, thân hữu, hội hữu, chiến hữu. Trong
đạo Phật có các danh xưng: đạo hữu (bạn cùng theo đạo), pháp hữu
(bạn cùng tu theo giáo pháp). Các danh xưng: tín hữu (bạn cùng tín ngưỡng,
cùng đức tin), tâm hữu (bạn cùng tâm, đồng lòng) không thấy được dùng
trong đạo Phật.
2)
Khi tiếp xúc với chư tăng ni, quí vị cư sĩ Phật tử tại gia (kể cả
thân quyến của chư tăng ni) thường đơn giản gọi bằng Thầy,
hay Cô, (nếu như không biết rõ hay không muốn gọi phẩm trật của vị
tăng ni có tính cách xã giao), và thường xưng là con (trong tinh
thần Phật pháp, người thụ ít giới bổn tôn kính người thụ nhiều giới bổn
hơn, chứ không phải tính tuổi tác người con theo nghĩa thế gian) để tỏ
lòng khiêm cung, kính Phật trọng tăng, cố gắng tu tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp
bỏ tự ái, cống cao ngã mạn, mong đạt trạng thái: niết bàn vô ngã, theo lời
Phật dạy. Có những vị cao tuổi xưng tôi hay chúng tôi với
vị tăng ni trẻ để tránh ngại ngùng cho cả hai bên. Khi qui y Tam bảo thụ
ngũ giới (tam qui ngũ giới), mỗi vị cư sĩ Phật Tử tại gia có một vị Thầy (Tăng
bảo) truyền giới cho mình. Vị ấy được gọi là Thầy Bổn sư. Cả gia
đình có thể cùng chung một vị Thầy Bổn sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị
ấy bằng Thầy. Theo giáo phái khất sĩ, nam tu sĩ được gọi chung là
Sư và nữ tu sĩ được gọi chung là Ni. Còn nam tông chỉ có Sư,
không có hay chưa có Ni. Việc tâng bốc, xưng hô không đúng phẩm vị của
tăng ni, xưng hô khác biệt trước mặt và sau lưng, tất cả đều nên tránh,
bởi vì không ích lợi cho việc tu tâm dưỡng tánh.
3)
Khi tiếp xúc với quí vị cư sĩ Phật tử tại gia, kể cả người thân
trong gia quyến, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi
(hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni), cũng có khi chư
tăng ni xưng là Thầy, hay Cô, và gọi quí vị là đạo hữu,
hay quí đạo hữu. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia bằng
pháp danh, có kèm theo (hay không kèm theo) tiếng xưng hô của thế
gian. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia là “quí Phật tử”.
Chỗ này không sai, nhưng có chút không ổn, bởi vì xuất gia hay tại gia đều
cùng là Phật tử, chứ không riêng tại gia là Phật tử mà thôi. Việc một
Phật tử xuất gia (tăng ni) ít tuổi gọi một Phật tử tại gia nhiều tuổi bằng
“con” thực là không thích đáng, không nên. Không nên gọi như vậy, tránh
sự tổn đức. Không nên bất bình, khi nghe như vậy, tránh bị loạn tâm.
Biết rằng mọi chuyện trên đời: ngôi thứ, cấp bậc, đều có thể thay đổi,
nhưng giá trị tuổi đời không đổi, cứ theo thời gian tăng lên. Theo truyền
thống đông phương, tuổi tác (tuổi đời) rất được kính trọng trong xã hội,
dù tại gia hay xuất gia.
4)
Trong các trường hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận theo đời, không có
tính cách chính thức, không có tính cách thuyết giảng, chư tăng ni có thể
gọi các vị cư sĩ Phật tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, một
cách trân trọng, tùy theo tuổi tác, quan hệ, như cách xưng hô xã giao
người đời thường dùng hằng ngày. Danh xưng Cư sĩ hay Nữ Cư sĩ
thường dùng cho quí Phật tử tại gia, qui y Tam bảo, thụ 5 giới, phát
tâm tu tập và góp phần hoằng pháp. Còn được gọi là Ưu bà tắc (Thiện
nam, Cận sự nam) hay Ưu bà di (Tín nữ, Cận sự nữ).
5)
Chúng ta thử bàn qua một chút về ý nghĩa của tiếng xưng
“con” trong đạo Phật qua hình ảnh của ngài La Hầu La. Ngài là con của
đức Phật theo cả hai nghĩa: đời và đạo. Ngài sớm được tu tập trong
giới pháp, công phu và thiền định khi tuổi đời hãy còn thơ. Ngài không
ngừng tu tập, cuối cùng đạt được mục đích tối thượng. Ngài thực sự thừa
hưởng gia tài siêu thế của đức Phật, nhờ diễm phúc được làm “con”
của bậc đã chứng ngộ chân lý. Ngài là tấm gương sáng cho các thế hệ Phật
tử tại gia (đời) cũng như xuất gia (đạo), bất luận tuổi tác, tự biết mình
có phước báo nhiều kiếp, hoan hỷ được xưng “con” trong giáo
pháp của đức Phật.
6)
Đối với các vị bán thế xuất gia, nghĩa là đã lập gia đình trước khi
vào đạo, vẫn phải trải qua các thời gian tu tập và thụ giới như trên, cho
nên cách xưng hô cũng không khác. Tuy nhiên để tránh việc gọi một người
đứng tuổi xuất gia (trên 40, 50) là chú tiểu, giống như gọi các vị trẻ
tuổi, có nơi gọi các vị bán thế xuất gia này là Sư chú, hay Sư
bác. Hai từ ngữ này có nơi mang ý nghĩa khác. Việc truyền giới cụ túc,
hay tấn phong, có khi không đợi đủ thời gian như trên đây, vì nhu cầu Phật
sự của giáo hội, hay nhu cầu hoằng pháp của địa phương, nhất là đối với
các vị bán thế xuất gia có khả năng hoằng pháp, đảm nhận trọng trách,
nghiên cứu tu tập trước khi vào đạo.
7)
Vài xưng hô khác trong đạo như: Sư ông, Sư cụ thường
dành gọi vị sư phụ của sư phụ mình, hoặc gọi chư tôn đức có hạ lạp cao,
thu nhận nhiều thế hệ đệ tử tại gia và xuất gia. Một danh xưng nữa là
Pháp sư, dành cho các vị xuất gia tăng hay ni (sư) có khả năng và hạnh
nguyện thuyết pháp (pháp) độ sanh. Ngoại đạo lạm dụng danh xưng này chỉ
các ông bà thầy pháp, thầy cúng.
8)
Danh xưng Sư tổ được dành cho chư tôn đức lãnh đạo
các tông phái còn tại thế, và danh xưng Tổ sư được dành cho chư tôn
đức đã viên tịch, được hậu thế truy phong vì có công lao trọng đại đối với
nền đạo. Đối với các bậc cao tăng thạc đức thường trụ ở một tự viện,
người trong đạo thường dùng tên của ngôi già lam đó để gọi quí ngài, tránh
gọi bằng pháp danh hay pháp hiệu của quí ngài,
để tỏ lòng tôn kính.
9)
Ngày xưa khi đức Phật còn tại thế, các vị tỳ kheo thường dùng tiếng
Ðại Ðức (bậc thầy đức độ lớn lao, phúc tuệ lưỡng toàn) để xưng tán
Ngài, mỗi khi có việc cần thưa thỉnh. Các vị đệ tử lớn của đức Phật cũng
được gọi là Ðại Ðức. Trong các giới đàn ngày nay, các giới tử cũng xưng
tán vị giới sư là Đại Đức.
10)
Nói chung, cách xưng hô trong đạo Phật nên thể hiện lòng tôn kính
lẫn nhau, noi theo Thường bất khinh Bồ tát, bất tùy phân biệt, bất luận
tuổi tác, dù tại gia hay xuất gia, nhằm ngăn ngừa tư tưởng luyến ái của
thế tục, nhắm thẳng hướng giác ngộ chân lý, giải thoát sinh tử khổ đau,
vượt khỏi vòng luân hồi loanh quanh luẩn quẩn. Nhất giả lễ kính chư Phật.
Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh. Cho nên đơn giản nhất là
“xưng con gọi Thầy”. Theo các bộ luật bắc tông và nam tông còn có
nhiều chi tiết hơn.
http://www.buddhismtoday.com/viet/vh/cach_xungho_pg.htm