Ngoài biểu lộ tâm tư tình cảm chủ quan, thì phương thức biểu đạt của thi
ca không thể tách rời hình tượng. Trong quá trình kết cấu tư tưởng nghệ
thuật một bài thơ, thi nhân thường bằng vào năng lực tư duy hình tượng,
đem tư liệu cuộc sống đã nắm bắt được, tái hiện trong não bộ, thêm vào sự
so sánh, chọn lựa khái quát, tổng hợp, rồi nung chảy thành một hình tượng
nghệ thuật hoàn chỉnh mới mẻ, gọi là hình tượng tư duy. Hình tượng tư duy
thường khiến cho những hình tượng phân tán tập trung lại, những gì bị ẩn
mất hiện ra rõ ràng sáng tỏ, thậm chí có thể sáng tạo thêm những gì trong
cuộc sống chưa từng có. Tuy nhiên, đó không phải điều thi ca nhắm đến, mà
là phương tiện cần yếu để thể hội nội dung hay tính triết lý.
Hình tượng tư duy lệ thuộc
phạm trù phát tán tư duy, là loại hình hoạt động quan trọng trong tư duy
hoạt động của con người, cũng là hoạt động tư duy chủ yếu cho việc sáng
tác một thi phẩm. Thi nhân thường thông qua hình tượng tư duy để sáng tạo
một thế giới ý tượng phong phú, muôn màu muôn vẻ; đem những gì thuộc lãnh
vực trừu tượng, thanh âm, tình cảm…… biểu lộ một cách sinh động, khiến
người đọc khi thưởng thức tác phẩm, gặt hái được niềm vui từ thẩm mỹ trực
quan, tăng thêm sức cảm thụ nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Do đó,
việc đọc và thưởng thức một tác phẩm luôn cần hình tượng tư duy, cần nhờ
vào những văn tự miêu tả trong tác phẩm. Tuy nhiên, đôi khi việc cho ra
đời môït thi phẩm, nhất thiết cần phải vận dụng hình tượng tư duy, nhưng
nó không như văn học, là xem hình tượng tư duy như là phương thức tư duy
chủ yếu, xuyên suốt gần trọn tác phẩm.
Để tìm hiểu đặc sắc nghệ
thuật sử dụng hình tượng tư duy trong thơ Mặc Giang, sau đây người viết
thử thông qua phân tích sơ vài hình tượng được vận dụng trong thơ.
1. Cảnh tượng vạn vật :
Vạn sự vạn vật trong thơ Mặc
Giang, đôi khi là một hình ảnh rất nên thơ. Miêu tả về Sắc thắm muôn hoa,
Mặc Giang viết:
Hoa lan đủ loại đủ màu,
Non nghiêng bóng nước rầu rầu ngẩn ngơ,
Chim sa rũ cánh bơ phờ
Cá chìm lẳng lặng, đẫn đờ vây man.
Bằng hình tượng nghiêng, rầu
rầu, lẳng lặng, đẫn đờ của núi non, của chim và cá, ý thơ đã phác họa một
cảnh thắm sắc vẻ đẹp muôn hoa, một bức tranh mỹ lệ của loài lan. Đó là nét
đẹp tinh khôi, ươm mầm sức sống vươn lên, một dáng dấp với sự thanh cao,
khí tiết, ngạo nghễ. Từ trong cái đẹp trinh nguyên, trong sức sống dạt dào
của cảnh vật, ta như đi sâu thẳm trong sức sống muôn loài, mà chỉ có ở đó,
mới cho ta đủ sức mạnh xây dựng cho chính mình cái đẹp của một tâm hồn
thanh cao trong sạch miên trường. Do đó, ta cảm thấy rằng, hình ảnh vạn
vật hương hoa trên hiện lên qua bút lực của Mặc Giang bỗng trở nên rất
diệu kỳ, rất thực, rất sinh động cụ thể giữa trần đời sinh diệt, giữa
phong sương tuế nguyệt ta đà.
Cũng bằng vào năng lực tư duy,
khả năng phân tích theo chiều hướng tổng hợp, quy nạp và khả năng bản lĩnh
tư duy được tôi luyện chín muồi, người thơ Mặc Giang đã xây dựng khá thành
công cảnh tượng rất thực, rất nên thơ, và phảng phất chút dư âm bút pháp
lãng mạn :
Thong dong trời
xanh mây trắng,
Trời xanh mây trắng thong dong,
Óng vàng rải nhẹ nắng hong,
Bướm bay vườn rau
đón gió.
(Mặc Giang, đi đâu cũng nhớ
trở về)
Với thủ pháp biểu đạt ngôn ngữ tinh luyện, thi sĩ Mặc Giang đã tạo nên một
hình tượng thanh tao, sáng đẹp, nhẹ nhàng, có thể nói là hoàn chỉnh trong
hình thức không gian, đặc sắc trong ý tưởng xây dựng. Đây là một ý cảnh.
Trong ý cảnh này, ta không những chỉ bắt gặp vẻ đẹp sinh đôïng, mát lành,
tươi mươi, nhẹ nhàng của vạn vật ngoại giới, mà còn cảm nhận được tình cảm
nội tâm, diễn biến của cảm xúc tâm linh theo chiều hướng tích cực, đó là
một tinh thần mẫn tiệp thông tuệ, một ý tưởng sảng khoái bay vút, một tâm
hồn nhẹ nhàng an vui.
Ý cảnh trên cố nhiên được xây
dựng trên kích thước chiều sâu của tâm thức khi ngắm nhìn sự hiện diện của
vạn vật, ở đó không phải đơn thuần là cái nhìn của cảm tính, quan năng,
hay cái nhìn của trực cảm, không thông qua trung gian lý luận phân tích
theo chiều hướng phát triển ngoại tại của sự vật, mà còn có những thẩm sâu
chuyên chở trong tứ thơ là cái dạt dào của ý thức, của tư duy chủ quan về
sự hiện hữu của giới cảnh. Do vậy, hình ảnh thong dong của mây và trời,
óng vàng của nắng… ở đây được hiểu như là một ngoại tại của dòng vô
thức, nhưng cũng chính là một ý cảnh được tái hiện qua sự sàng lọc của tâm
thức. Cho nên, ảnh tượng này càng không phải là bộc phát của ý thức, không
qua trung gian lý tính, mà đó là lôgích diễn biến tình cảm của tâm trạng
“xa rồi vẫn nhớ vẫn trông, quê nghèo thơm thơm đất mẹ”. Rõ cho thấy, nghệ
thuật hình tượng trên, là hình tượng của tư duy, là một hình tượng có quan
hệ mật thiết, không thể tách rời tình cảm chân ý, đây chính là cốt cách,
là chủ hướng cho ý tưởng chất thơ của nhà thơ Mặc Giang.
Cảnh tượng gắn liền với tình
người sâu đậm ở trên, đã tạo dựng một viễn cảnh xán lạn, tràn trề nhựa sức
sống, nhưng đâu đó trong một góc của cuộc sống, là hình ảnh thê lương buồn
tẻ, là mặt còn lại của cuộc đời hay cái ẩn nấp đằng sau sức sống ươm nụ,
được Mặc Giang đã phác họa một cách rất thực, tế nhị, sâu sắc qua hình ảnh
:
Nơi sau vườn cỏ
cao bằng đọt chuối,
Chuối trổ buồng rồi chín héo đeo cây
Nơi cửa trước không cài,
bao lớp bụi phủ dày,
Khu xó bếp xác xơ, tro tàn
bay muốn hết,
..…Bên bờ ao, cá ngậm tăm,
không đớp,
Súng chen bèo, buồn
ủ dột lặng thinh
(Mặc Giang, thương những gia
đình bất hạnh).
Bằng phong cách ngôn ngữ với phút pháp
nghệ thuật miêu tả hình tượng, nhà thơ Mặc Giang đã xây dựng thành công
đáng kể một hình ảnh thật trong đời thường. Cỏ cao bằng đọt chuối, chuối
héo, cửa không cài, tro tàn bay muốn hết, cá không đớp……đều là những
hình ảnh vừa có tính ám chỉ, vừa có tính tượng trưng; ám chỉ buồn mênh
mang của những gia đình bất hạnh ly tan, tượng trưng cho nỗi đau thương
nhuốm màu thời gian. Đó là ảnh tượng của thực trạng cảnh chết chóc của tập
thể gia đình. Bát nhang của họ đầy mạng nhện, rồi đến lúc nhện cũng bỏ đi,
vì ruồi muỗi cũng không còn. Cho thấy thi nhân đã phác họa một hình tượng
với ý cảnh hoàn chỉnh, bao hàm miêu tả cả trọn vẹn sinh động ngoại cảnh
lẫn nội tâm, không gian lẫn thời gian.
Bút pháp nghệ thuật tài tình của thi sĩ
Mặc Giang cho độc giả cảm nhận được rằng, thơ ông không phải chỉ thuần là
sản phẩm của cảm tính, tức miêu tả sự vật thông qua cảm giác của quan năng
và não bộ của tự thân, rồi đem những hình ảnh cụ thể trực tiếp cảm thọ từ
sự vật khách quan, vận dụng thi ca để biểu đạt qua những ý tượng hình ảnh
khác nhau. Mà là đằng sau bức màn của những hình ảnh thuần túy cảm tính ấy,
là sự phối hợp, khống chế của lý tính. Cho thấy, đối thoại của thi nhân
Mặc Giang là đối thoại dưới tiền đề không đi ngược với lý tính, mang rõ
sắc màu lý tính. Nét đặc sắc này có lẽ bất chợt nhìn không ra, vì nó ẩn
nấp rất sâu.
Dưới sự chỉ đạo của tiền đề lý tính ấy,
Mặc Giang đủ cơ sở, đủ bản lĩnh hướng dẫn người thích thơ đi sâu hơn, cụ
thể hơn trong thâm sâu của tình cảm hay cảm tính. Trong bài Cao Nguyên quê
hương tôi, thi nhân viết:
Cao Nguyên
như tóc mẹ bồng bềnh,
Gió
lộng Trường Sơn bạt biển Đông
Những thuở thanh bình thêu gấm ngọc,
Những khi
nguy biến tợ như đồng
Tóc bồng bềnh, thêu gấm ngọc, tợ như đồng,
đều là những hình ảnh có tính tượng trưng,
tượng trưng cho bản làng Cao Nguyên luôn hài hòa trong nét đẹp đan thanh
hùng vĩ giữa mây ngàn gió núi chốn lam sơn, với những tháng ngày hoan ca
trong sinh khí đầy nhựa sống; cũng tượng trưng cho tâm hồn tình cảm của
người dân trong những khi éo le, không mấy bằng phẳng ấm yên. Đây là những
hình ảnh sinh động, vừa gợi hình gợi cảm, vừa vui thanh vắng tao nhã, vừa
có chút u buồn trầm tĩnh kiêu sa, nhưng cũng khép lại đằng sau bởi yếu tố
lí tính, là sự trở về với nội tại định tĩnh sâu sắc của hồn thơ khép kín
trên cung bậc lí tình song vận.
2. Vi tế sinh động của
thanh âm
Ngôn ngữ miêu tả hình dung
thanh âm trong thơ Mặc Giang cũng mang nét đặc biệt, được ra đời trên cơ
sở của sựï thể hội những bí ẩn của thế giới nghệ thuật trong cuộc sống.
Trong Đưa tay mở cửa trần gian, thi sĩ Mặc Giang tả :
Đất trời rộng qúa thênh
thênh,
Cuối sông nước chảy, đầu
ghềnh thác reo
Tử sinh chiếc lá đưa vèo,
Gởi thân quán trọ bọt bèo hợp tan
Cảnh tượng với bao thanh âm
kì vĩ này thật sự như tạo nên một không gian như dàn trải đến vô tận, một
thời gian đang đứng lặng vần xoay, rồi như cao vút tận lưng đồi, rồi cũng
như đang chuyển mình mềm mại xuống vực sâu để hòa quyện với bao tinh hoa
âm dương của đất trời lao la. Tiếng reo của thác nước, âm vang đưa vèo của
chiếc lá đầu cành, như là âm vận của cảnh sắc, của bức chân dung bề mặt
nổi, hay chính là cái cảnh sắc hài hòa ý vị đang gảy trên cung bậc hòa tấu
đan xen của thời-không. Bản thân chúng cũng chính là một trong trăm ngàn
diệt sanh biến hiện, nhưng khi tái hiện dưới bút pháp của thi nhân, thì
như một bản trường ca với nhiều âm vang cung vận hay và đẹp, như vẽ ra một
khoảng không mà ở đó con người có thể cảm nhận được chân lý miên viễn sau
sự cộng hưởng của một dàn thanh điệu tiết tấu nhịp nhàng của đất trời.
Trong cái miên viễn ấy, phải chăng cũng đã bao hàm tính chất tạm bợ, “có
mặt nhau trong khoảng một đời, bèo trôi dạt người đi người ở lại” của kiếp
người.
Chỉ bốn câu thơ với
chừng ấy hình tượng, nhưng cũng đủ cho ta thấy, tư tưởng và ý hướng của
thi nhân như vừa khép lại vừa mở, như điệp khúc quê hương đang ru hồn
người con lạc lõng trên phố xá hoa lệ trở về với quê nhà ấm yên. Ở đây,
rõ ràng cho chúng ta thấy, việc xây dựng hình tượng qua sự miêu tả thanh
âm này đã mang đến cho người đọc là, hoàn toàn không chỉ dừng lại thả hồn
trên cái thinh thang lồng lộng thi vị của đất trời, mà nên nhận chân được
yếu tố toàn diện trong cuộc sống, nhìn sự vận hành của thế cuôïc là một
quá trình, là sự tổng hòa giữa văn và chất, giữa ngoại tại và nội tại, hay
là giữa động và tĩnh.
Và đôi khi, trong tiếng suối róc rách, tiếng sóng vỗ bờ, hay thanh
âm của “muôn chim hót reo bình minh thức dậy” ấy , là hình của bóng đêm
với âm vang :
Tiếng lá khua nghe rung rinh lay động
Tiếng dế kêu nghe ủ dột mùi sương
Tiếng quốc kêu nghe não nuột đêm trường
Và nghe cả tiếng canh thâu cô tịch
(Mặc Giang, nhìn bóng đêm ngái ngủ)
Bằng vào nghệ thuật
miêu tả phác họa một số hình ảnh thanh âm của cảnh đêm, thi nhân đã tạo
nên một nền không gian với bao cảnh cô tịch, trầm lắng, lặng lẽ, thâm sâu
chảy dài trong vạm vỡ chất ngất của bóng đêm. Và ở đây, qua việc xây dựng
hình tượng miêu tả thanh âm này, tác giả không làm sao dấu giếm được nỗi
niềm yêu quê thương nước qua hình ảnh con quốc với giọng kêu não nuột.
Trong bóng đêm cô tịch ấy, tiếng kêu não nuột của con quốc như tạo nên
trạng huống yên phận, thủ thường, nhưng cũng như muốn xâm chiếm cả màn đêm,
xé tan khoảng chân không ngái ngủ.
Thông qua một loạt hình tượng
sinh động trên, cho ta thấy, thi nhân không những đã miêu tả hình ảnh rất
thật, rất sinh động của bóng đêm, mà đã vận dụng được hình tượng tư duy,
khiến cho những ý tượng về màu đen hay cái sự kinh khủng bàng hoàng của
bóng đêm từ trong thơ hiện lên rất sắc nét sinh động gợi cảm, khiến người
đọc có cảm giác như đang kề cận, đang ở trong cảnh đó, do đó có khả năng
làm tăng thêm sức mỹ cảm của khổ thơ. Cũng trong chiều hướng này, cũng qua
việc vận dụng được hình tượng tư duy, trong Cao Nguyên quê hương tôi, ,
Mặc Giang có những câu thơ xây dựng ý tượng của một buôn làng, rất
bình dị, rất Việt Nam, đó là :
Quê hương tôi đó ở Cao Nguyên
Núi thẳm rừng sâu thật
diễm tuyền
Suối vắng ven đồi reo róc
rách
Đêm thanh gió lộng nhạc
thần tiên
(Mặc Giang, Cao Nguyên quê
hương tôi)
Hình ảnh làng quê với bao thanh âm róc rách của suối, tiếng du dương của
điệu nhạc thần tiên, cho ta thấy nhà thơ Mặc Giang đã vận dụng hình tượng
tư duy, hình tượng hóa những thanh âm trừu tượng, tạo nên một âm sắc tiết
tấu, cảm động sâu sắc tâm hồn người đọc bằng những sắc màu của hình tượng
hóa tươi mát, bằng một không gian khoan khoái, trong lành dễ chịu như một
sáng tinh mơ, khi vạn vật chưa manh động với sự ô nhiễm của âm thanh đời
thường khác, chưa bị chi phối bởi sức cám dỗ của bao cảnh đời tục lụy .
Nói chung, về lĩnh vực hình tượng hóa những thanh âm trừu tượng, thi
nhân Mặc Giang đã dùng những ảnh tượng thanh âm một cách có chọn lọc rộng
rãi, sâu sắc, nên đã tạo ra một loạt ý tượng sống động sinh đôïng, rung
động lòng người, bởi đã đem cái đẹp thanh thoát của thanh âm trong thiên
nhiên nâng lên đến tận cùng của nó.
3. Rung cảm tình người :
Những biểu hiện diễn biến cảm xúc tình cảm trong thơ Mặc Giang thông qua
hình tượng tư duy thường thì thanh thoát nhẹ nhàng, không bi lụy sầu
thương, bịn rịn, u uất nghẹt thở, sầu tê tái. Trong Việt Nam, quê hương
còn đó, ông viết,
Sông ơi ! có nhớ lấy nguồn
Núi ơi ! có nhớ lấy non
mấy lần.
Tang thương mấy độ phong trần,
Lại còn mấy lớp phù vân tiêu điều
Thi nhân đã vận dụng những hình ảnh cụ thể như sông, nguồn, núi, phù vân,
tiêu điều để biểu đạt tình cảm yêu quê hương đất nước dạt dào, và càng xót
thương quê nhà, đứt ruột đứt gan do những biến cố thăng trầm của lịch sử.
Qua việc vận dụng hình tượng “sông” với “nguồn”, “núi” với “non”, biểu
hiện mối quan hệ vĩnh hằng không thể phân cách của hai sự kiện, hai cũng
chính là một mà thôi, tác giả đã khéo khẳng định rằng, chính trong quê
hương vốn đã và sẽ vĩnh viễn mang tiếng khóc đầu đời của mình; và trong
huyết mạch thi nhân không khi nào là không cưu mang nâng niu, ấp ủ hình
bóng quê hương. Nên một lần nữa, qua phong cách biểu đạt hình tượng nghệ
thuật, thi nhân đã thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa hai khối đại tình cảm
trong những ngày viễn xứ tha hương bằng hình ảnh gợi cảm sinh động của:
Bụi tre nghiêng bóng sau hè, Bờ sông mòn lối con đê
Dấu mờ rải nhẹ lê thê, Nhà tranh còn mái tình quê
(Mặc Giang, Tôi nói anh
nghe)
Một loạt hình ảnh này đã vẽ ra trước mắt
chúng ta một cõi nhớ thương đợi chờ, mỏi mòn năm tháng của gốc đa bến nước,
của mẹ, của em, của chị, của anh, của thầy, của bạn….Phải chăng thi nhân
muốn nói rằng: “ra đi ai không nhung
nhớ, trở về ai chẳng chờ mong, quê hương còn đây muôn thuở, chạnh lòng nhớ
những đêm đông”. Cũng vì nơi chôn nhau cắt rốn, nơi “võng trời kẽo kẹt”,
có “mẹ già đưa từng trái bắp củ khoai ” ấy, là bao kỉ niệm đẹp của thời
thơ ấu:
Đêm trăng tắm mát dòng
sông, áo phơi trước ngọn gió lồng
Cùng reo câu hò tiếng hát,
khuya về bỏ lại bến không
(Mặc Giang, Xóm nhỏ làng quê)
Những cảnh vật và hình ảnh
vừa thực vừa hư như bụi tre, con đê, nhà tranh, và hình ảnh của tắm mát
dòng sông, bến không…. đều là nhà thơ Mặc Giang dùng tư duy hình tượng hóa
để miêu tả những mô thức điển phạm của tình cảm. Đặc biệt, khuya về bỏ lại
bến không, là một hình tượng nói lên cảnh quê nhà vừa thanh vắng vừa thanh
thoát, vừa sáng đẹp vừa nhẹï nhàng, thi vị. Tuy rằng đó chỉ là một hình
ảnh làm người đọc hình dung ngay ra cái cảnh thinh lặng, không một âm
thanh, mà chỉ còn là tiếng sóng rạt rào lăn tăn, vi tế đang vỗ êm ả vào bờ,
là cái đẹp của cảnh sắc vượt thời gian, nhưng đó cũng chính là cái đẹp
trầm tĩnh, đong đưa bao kỉ niệm đẹp thanh cao miên viễn trong suốt cuộc
đời. Cho thấy, thi nhân đã tạo nên một nghệ thuật nhuần nhuyễn, vừa sinh
động, lại vừa tinh luyện, truyền thần, khắn khít, thân thiết, và tự nhiên.
Những hình thức tư duy của hình tượng hóa này, càng nói lên rõ hơn nỗi
niềm của người phương xa, đó chính là tình cảm mà thi sĩ Mặc Giang đã nói
trong Việt Nam, quê hương còn đó là “thương quê từ bấy đến giờ, yêu quê
từ độ bơ vơ khơi dòng.”
Và trong Gãy một nhịp cầu sa
bóng nước, thi nhân viết : “bãi cát phù sa mờ gió bụi, lối mòn rêu phủ vết
xa xăm……Nhớ mẹ âm thầm dưới mái tranh, thương em không nói liễu buông mành”.
Đều là những danh từ câu cú đặc biệt, sử dụng phương thức tư duy hình
tượng hóa, là những hình ảnh gần gũi làng quê, thân thiết, u buồn, nhưng
rất đẹp, rất sống, rất thơ, đã miêu tả tình cảm và nỗi niềm tình quê lớn
dần theo năm tháng thời gian của người thơ. Nỗi nhớ niềm mong rất cảm động
này, quả dễ dàng chấn cảm mạnh tâm linh người đọc.
Thông qua hình tượng tư duy
với ý cảnh đặc biệt, thi sĩ Mặc Giang đã trình bày một cách sống động, gợi
cảm, rất thực tâm tư tình cảm nội tâm con người, nội tâm của chính mình.
Nghệ thuật xây dựng hình ảnh vừa cụ thể, vừa trừu tượng này, trong vô hình
đã tạo nên một thế giới thanh âm kì vĩ được thẩm thấu qua những hình tượng
tư duy khá điển hình. Chúng như những thanh âm hùng tráng của nhạc khúc
khải hoàn, reo ca không ngớt trên lộ trình đi về miên viễn của đạo lộ nhân
sanh.
4. Biểu cảm
Thông qua biểu đạt, miêu tả
những cảm xúc tình cảm biểu hiện ra bên ngoài của con người, thi nhân Mặc
Giang đã dẫn chúng ta đi một bước xa hơn về tìm hiểu hình tượng tư duy
trong thơ ông. Trong Đất trời sao lắm phũ phàng, viết khi tai nạn sóng
thần năm 2004, Mặc Giang viết :
Tiếng cứu người, tiếng cứu
trợ, tiếng mất tích, khóc la
Tiếng chết chóc, tiếng kêu
thương, tiếng kinh hoàng bão thổi
Rồi gió mưa, rồi nghiêng
ngửa, rồi cuốn chìm, trôi nổi
Rồi trào tuôn, rồi tan nát,
rồi nước xoáy, vỡ bờ
và trong Em bé mồ côi,
thì tả:
Nước mắt em ứa hoen mờ
Hoen lên đỉnh núi mờ bờ
thùy dương.
Em mang giọt lệ đau thương
Từng bước chân, đếm trên
đường đơn côi
Rõ cho thấy, những biểu cảm
trên đều đã bộc lộ tận cùng đau thương của tai nạn sóng thần lịch sử, và
nỗi buồn sâu thẳm không có gì có thể bù đắp hay thay thế trong cõi lòng
của những em bé mồ côi, của những em bé lang bạt trên vỉa hè góc phố.
Thông qua hình tượng tư duy được miêu tả sống đôïng này, cho ta thấy, Mặc
Giang như cũng đã nói rằng, “sao nhìn tôi, em không nói nên lời, tôi đã
hiểu đời em nhiêu đau khổ”. Cũng thông qua hình tượng tư duy, nhưng trong
hoàn cảnh lao ngục, thi sĩ Mặc Giang tả :
Mắt hằn sâu, ngó khung
trời biền biệt
Chân tay còng, bó góc cạnh
đơn cô
Trán ôm đầu, cho nát những
tàn khô
Mang thân phận đẳng đeo
theo trọn kiếp
(Mặc Giang,
thương cảnh ngục tù)
Qua hình tượng đôi mắt hằn
sâu, ngó nhìn vào phương trời biền biệt, động tác của chân, tay …… thi
nhân rõ đã xây dựng thành công một cách sinh động của tâm hồn người tù
trong cảnh ngục tù bị nhốt đứng xích ngồi, đó là một tâm lý hết sức buồn
sầu, trách hận, ăn năn thống hối, hay đăm chiêu, ngậm đắng, nuốt cay, chai
đá, hùng anh. Cũng với bút pháp nghệ thuật miêu tả tương tợ, trong Ngày
trở về, Mặc Giang viết :
Ngày trở về, tôi lặng
yên không nói
Mắt buồn buồn, nhìn, ngó
thật xa xôi
Ngó trước sau, ngó quanh
quất một hồi
Rồi đảo mắt, xa dần ra đầu
ngõ
Những biểu hiện cảm xúc bên ngoài như phong thái trầm ngâm, buồn
không nói, rồi ngó nhìn quanh quẩn bốn phương tám hướng, là một hình tượng
miêu tả sống động nỗi lòng khi trở về quê mẹ sau bao năm xa cách, không
che dấu kìm nén được cảm xúc tâm tư, nỗi niềm thầm kín đong đầy trong lòng.
Tuy rằng trở về quê mẹ, hay chính quê hương Việt Nam, là trở về với nguồn
cội tình thương, dễ làm ấm lòng, nhưng cũng chính ngay hình bóng quê mẹ,
cũng khiến không khỏi khắc khoải u hoài, buồn hiu, tiếc thương những nỗi
niềm thầm kín nào đó.
Hình tượng tư duy được dùng
trong thơ Mặc Giang đã sáng tạo những tiêu biểu về thế giới ý tượng, tạo
dựng những ý cảnh tuyệt đẹp. Việc vận dụng thành công hình tượng tư duy
trong thơ ông, đã mở rộng được nội hàm và dung lượng thi ca, hình tượng
hóa những trừu tượng, tạo nên một ý tượng thơ ca phong phú đa dạng, làm
người đọc triển khai được đôi cánh của sức tưởng tượng, tiến nhập vào thế
giới ý tượng thuần mỹ, tăng thêm chiều sâu và nét đẹp nghệ thuật của thơ.
Tuy nhiên, nghệ thuật dùng hình tượng miêu tả cảnh vật trong thơ của Mặc
Giang đã cho ta thấy, những câu thơ tuy đến từ tình cảm, đến từ sự dẫn dắt
của lý tính của ý thức thâm sâu, nhưng thi nhân cũng khó mà cảm tri sự chỉ
đạo của lý tính khi hồn thơ tuôn chảy dưới nghệ thuật vận dụng hình tượng
tư duy cụ thể và trừu tượng, mà chỉ có sau khi tác phẩm hình thành, thì tự
nhiên thấy nó lưu lộ. Đây chính là nghệ thuật, chính là đối thoại. Nó có
một quy luật của nó, đó là quy luật cảm tri tính và khắc chế tính.
Vì vậy, cái đẹp của thi ca
Mặc Giang không chỉ bao hàm phong cách ngôn ngữ, bút pháp nghệ thuật, hình
thức biểu hiện, mà quan trọng hơn vẫn là nội dung. Nét đẹp thi ca của ông
là sự kết tinh thống nhất hài hòa giữa tư tưởng và nghệ thuật, nội dung và
hình thức, ý và cảnh. Do đó cho ta thấy, tác giả đã phải nhiệt tình chú
tâm quan sát xã hội, quan sát tự nhiên, quan sát và thể nghiệm cuộc sống
thân thiết của chúng ta trong từng nhịp tim hơi thở. Trong quá trình quan
sát và thể nghiệm, người thơ Mặc Giang đạt được nhận thức; thông qua quá
trình đó, đã nắm bắt hình tượng, tích lũy tình cảm, đem tình nhập cảnh,
dùng tư tưởng và trí huệ của mình để phát huy tình cảm và sự thể nghiệm
của nội tâm
Nói chung, hình tượng về cảnh
vật trong thơ Mặc Giang tuy nó là nó, nó là thế giới của thi ca, của sự
chấp bút đôi khi chỉ trong khoảnh khắc nhất thời, nhưng thực chất đó là
một quá trình của sự hấp thu và chọn lựa từ những gì chắt lọc trong trẻo ý
vị trong cuộc sống. Hình như thi sĩ Mặc Giang đang đối thoại với sự vật,
đó là một linh động; nhưng những tình cảm trào tuôn trong tâm nhà thơ, là
tác dụng trên sự vật, mà sự linh động khiến cho sự vật và cảm thọ chủ quan
dung hợp nhau một cách hòa hài.
Có thể nói rằng, “thơ ca
trình bày cái thực cái đẹp của tự nhiên, của con người là sáng tạo chứ
không phải sao chép mà thành”. Nhà thơ Mặc Giang đã từ trong sâu sắc của
tâm linh chế tác lại cảnh tượng của đại tự nhiên, hoặc thêm những sáng tạo
từ những gì thấy được một cách linh động, tinh vi tôi luyện. Như Biệt Lâm
Tư Cơ (1811-1848), một nhà bình luận văn học người Nga, nói: “bất kì
trường hợp nào, cái đẹp đều xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn, vì cảnh
tượng của đại tự nhiên không thể là cái đẹp tuyệt đối. Cái thực hay cái
đẹp đó ẩn nấp trong tâm linh của người sáng tạo hoặc quan sát chúng”. Vậy,
Thi nhân
Mặc Giang cũng đã dùng tình
cảm và tư tưởng của mình sau khi quan sát vạn
vật, đã tô vẽ cho đại tự nhiên càng thêm sinh khí, để nội dung chuyển tải
trong từng hình tượng tư duy càng rõ rệt, càng rốt ráo. Điều này khiến cho
nội dung thi ca như đã và đang mở ra một xu hướng, một cơ hội chuyển tải
sâu xa hơn về ý nghĩa thâm sâu hay triết lý của nó.