- PHẬT GIÁO VỚI VĂN HÓA DÂN
GIAN
Chức năng giáo dục Phật giáo và
văn hóa dân gian như đôi cánh đưa dân tộc Việt Nam bay khắp vòm trời viễn
đông. Từ thời kỳ đồ đá cũ xuất hiện các nền văn hóa: Núi Đọ, Xuân
Lộc, rồi văn hóa Sơn Vi, cho đến thời đồ đá mới có các nền văn hóa:
Hòa Bình, Bắc Sơn và đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn thời cổ đại, đã
đưa Việt Nam lên điểm đỉnh của các nền văn hóa đương thời. Rồi thời
vàng son ấy bị lụi tàng theo năm tháng, nhưng lại bù vào đó là sự tiếp
nhận từng bước văn hóa Phật giáo đã tăng thêm sức sống cho nền văn
hóa bản địa. Thế là cánh buồm của tổng thể văn hóa Việt Nam như đủ
sự chắc chắn vượt qua bão táp, lướt sóng đến khắp năm châu ngày
nay.
Ai đó đã từng nói: “Việt Nam đất
nước cả ngàn năm văn hiến”, như là một tiền đề cho thế hệ hôm
nay nhận thức về cội nguồn văn hóa dân tộc. Nhưng sức mạnh ấy, cội
nguồn ấy phải được nhìn dưới nhiều góc độ mới có thể mô phỏng
phần nào về hình thái và hành trạng. Trong tổng thể ấy, phải nói chức
năng văn hóa Phật giáo như dòng suối cam lồ tưới tẩm cho đạo đức dân
tộc mà trên phương diện phổ quát nhất, gần gũi nhất là văn hóa dân
gian.
Đi sâu vào vấn đề, chúng ta có
thể nói một sự vật hiện tượng có ý nghĩa, giá trị tuyệt đối khi
được phát huy đúng chức năng của nó. Ngược lại, tổng thể ấy bị
chúng ta nhận thức sai lệch, đưa đến hành động đảo lộn thì những
giá trị văn hóa mà các thế hệ ông cha ta đã khổ công xây dựng sẽ bị
hủy hoại và tất nhiên tính chân-thiện-mỹ của nó cũng không còn tồn tại.
Như vậy, nhận thức đúng chức năng của văn hóa, các giá trị truyền thống
là một hành động có ý nghĩa rất lớn, rất quan trọng trong đời sống
thực tại mỗi chúng ta. Đặc biệt, văn hóa Phật giáo đã đóng vai trò
là linh hồn dân tộc Việt (mái chùa che chở hồn dân tộc), nếu
chúng ta tách rời nó ra thì những giá trị nhân bản dân tộc Việt sẽ
không còn. Nếu như văn hóa Phật giáo được chú ý phát huy đúng chức năng
thì nó sẽ biến một xã hội lạc hậu thành một xã hội công bằng, văn
minh. Ý nghĩa thực tại nhất đó là nó giúp chúng ta nhận chân chính xác
bản chất mọi giá trị, định hướng đúng mục đích sống, làm phong
phú tâm hồn cũng như nhân cách của chính mình.
Vậy văn hóa là gì? "Văn hóa
là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và hiện
tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ
thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu – những yếu tố
xác định đặc tính riêng của từng dân tộc".
Từ định nghĩa trên, chúng ta thấy
“văn hóa” là tinh hoa được con người rút ra từ các hoạt động sống.
Nó làm chức năng giáo dục, bảo tồn, truyền thừa những thành quả, những
giá trị tâm linh lẫn vật chất. Rồi qua thời gian, những hoạt động sáng
tạo của con người được đúc kết thành các giá trị vật thể và phi vật
thể, hình thành nên truyền thống đạo đức, quan niệm sống, chứng tích
lịch sử của từng dân tộc.
Nhìn vào tổng quan các giá trị mà
xét thì bản chất Phật giáo là từ bi, trí tuệ; bản nguyện Phật giáo
là giác ngộ, giải thoát; bản hạnh Phật giáo là hòa bình, giáo dục và
từ thiện. Từ những tính chất thiết thực ấy, Phật giáo đã phát huy
chức năng nhập thế, hòa mình vào nền văn hóa bản địa, giúp dân tộc
Việt xây dựng một nền văn hóa rực rỡ, hùng cường mà lịch sử các
triều đại Lý - Trần đã chứng minh điều đó.
Văn hóa có chức năng, sức chi phối
vượt thời gian, siêu không gian trong tất cả các hoạt động sống. Cho nên
lịch sử dài nhất của nhân loại là lịch sử truyền thừa một nền văn
hóa. Sức ảnh hưởng của nó là phi giới vứt và vượt thời gian. Tuy nhiên,
một nền văn hóa cũng có thể bị mất đi hoặc bị biến chất chức
năng của nó nếu thế hệ kế tiếp không biết bảo tồn, thừa kế. Như
thế thì Phật giáo Việt Nam qua hơn 2000 năm là một thực thế hiện hữu
của nguyên lý văn hóa siêu việt.
Quay về cội nguồn của nền văn hóa
nội sinh, thì Việt Nam là cư dân nông nghiệp lúa nước, đời sống người
Việt cổ gắn bó với cỏ cây sông nước rừng biển, chịu ảnh hưởng của
khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa. Từ chu kỳ tuần hoàn của vũ trụ như vậy
đã tạo nên lối tư duy của người Việt gắn liền với tri thức âm dương,
với tư duy phồn thực, với nền văn minh lúa nước. Quan niệm "trời
tròn đất vuông” được thể hiện qua truyện kể dân gian Bánh chưng
bánh dầy đã góp phần nói lên điều ấy. Từ nhận thức thế giới
quan, nhân sinh quan và vũ trụ quan như vậy, con người đã giáo dục, truyền
thừa lại thế hệ sau những kiến thức đơn giản nhất mà họ đã góp
nhặt được từ đời sống thực tại. Đó là hình thức giáo dục tri thức
văn hóa sơ khai. Bên cạnh ấy, "tư duy lưỡng hợp" từ nhận
thức vũ trụ quan đã giúp người Việt đúc kết thành kinh nghiệm sống:
Tua rua một tháng mười ngày
Cấy tróc vùng cày cũng được lúa
xơi
Bao giờ nắng rửa bằng trời
Tua rua quắt lại thì thôi cấy mùa.
(Ca dao)
Đến Sơ kỳ đồ sắt, nền
văn hóa bản địa - văn hóa Đông Sơn đã có sức mạnh đủ để làm nền
tảng cho văn hóa dân tộc, nhưng sau đó bị yếu dần và nếu không nói
là tàn lụi (không rõ nguyên do), thì sau bối cảnh đó (tức đời các vua
Hùng) một thời gian, Phật giáo từ Ấn Độ theo đường biển đã du nhập
vào Việt Nam. Mà theo "Đạo Phật Và Dòng Sử Việt" của
Hòa Thượng Đức Nhuận, trang 18-21 ghi:
“Phật Giáo phát nguồn từ Ấn
Độ đầu tiên được truyền đến Việt Nam vào khoảng 300 năm trước Tây
Lịch do phái đoàn của vua A Dục tổ chức và hai vị sư cầm đầu phái
đoàn tên là Soma và Uttara. Tại Đồ Sơn thuộc Giao Chỉ, cách Hải Phòng
12 cây số, có một bảo tháp tên là A Dục Vương (Asoka) do hai nhà sư Ấn
Độ của phái đoàn nói trên xây dựng nên. Về sau bảo tháp này bị hư
hoại và đến khoảng giữa thế kỷ XI Tây Lịch, vua Lý Thánh Tông lại
xây một bảo tháp khác nơi bảo tháp nói trên lấy tên là Tháp Tường
Long, nhưng ngày nay ngôi bảo tháp Tường Long được cải biến thành ngôi
Chùa Tường Long. Tiểu sử về hai ngọn bảo tháp A Dục Vương và Tường
Long còn để lại một bài thơ với nhan đề là Tháp Sơn Hoài Cổ và bài
thơ này tả cảnh về hai bảo tháp nói trên. Bài thơ đó được dịch
nghĩa như sau:
Tháp xưa lau cỏ tốt bời bời,
Vua Dục đi, vua sau cũng đổ rồi!
Chuông nặng ngàn cân kêu đáy nước,
Tháp cao chín bậc hóa thành vôi.
Chú tiều dựng củi nằm đo đá,
Trẻ mục lùa trâu vội xuống đồi.
Lên núi muốn cùng Sư giảng kệ,
Chuông đâu mà đánh thử một hồi?"
..."Vào khoảng 435 trước Tây Lịch,
Phò Mã Chử Đồng Tử và Công Chúa Tiên Dung Mỵ Nương, cháu của Hùng Vương
đời thứ 3, thọ giáo với sư Phật Quang (Sư Bần) tại Chùa Hang nơi Đồ
Sơn thuộc cửa biển của sông Thái Bình, tỉnh Hưng Yên. Hiện nay, tỉnh Hưng
Yên có đền thờ Chử Đồng Tử bên bờ sông Thái Bình".
Về phương diện nhận thức, văn hóa
dân tộc Việt chịu ảnh hưởng rất lớn bởi văn hóa Ấn Độ và văn hóa
Trung Hoa. Từ xưa, “Vùng đất miền Nam nước ta từ cửa Sót trở vào
đã mang nặng những vết tích của nền văn hóa Ấn Độ... ngôi chùa Trúc
Viên đã có từ thời Lữ Gia, tức khoảng năm 110 Tr.dl tại núi Thầy (Sài
Sơn), ở Sơn Tây". Qua đó, chúng ta thấy văn hóa Ấn Độ theo đường
biển phía Nam du nhập vào nước ta từ rất sớm. Cũng khoảng những kỷ
nguyên đương đại, theo dòng tư tưởng đô hộ của người phương Bắc,
văn hóa Trung Hoa cũng truyền sang nước ta. Hai nền văn hóa trên được
người Việt tiếp biến cho phù hợp với cơ sở văn hóa bản địa. Ba nền
văn hóa cùng tồn tại, cùng giao lưu với nhau đã làm giàu cho văn hóa dân
tộc.
Qua đó, chúng ta thấy những giá trị
tâm linh, lối tư duy Phật giáo của người Việt cổ đã thuần nhất trong
nền văn hóa bản địa. Văn hóa Phật giáo giàu tính nhân bản, rất phù hợp
với nền văn hóa bản địa; lại trong thời điểm chưa có một hệ thống
giáo lý nào khác xâm nhập, nên khi Phật giáo truyền bá nơi đây lập tức
được người Việt dễ dàng chấp nhận và trở thành truyền thống văn hóa
dân tộc. Những câu nói hằng ngày như: "Tội nghiệp quá!", "Hằng
hà sa số", "Ta bà thế giới",v.v... đều là thuật ngữ của
Phật giáo. Xét về hệ thống ngôn ngữ, ca dao, văn học dân gian… chúng
ta thấy văn hóa Phật giáo rõ ràng đã ghi dấu tư duy của họ.
Câu tục ngữ: "Lù khù nhưng
ông Cù (đàm) độ mạng" nói lên niềm tin rằng một người khù khờ,
nếu phát tâm quy y Phật, có niềm tin Phật là đấng toàn trí, có thần
thông quảng đại luôn gia hộ để họ có cuộc sống bình an thì sẽ được
cảm ứng (có cảm thì tất có ứng). Và hình ảnh Bụt trong truyện Tấm
cám cũng là nét đặc trưng để nói lên điều đó.
Nhận thức vận mệnh đời người
thì được thể hiện bằng giáo lý nhân quả nghiệp báo, luân hồi. Họ
tin rằng gây nhân lành thì kết quả tốt chắc chắn sẽ đem đến, nếu
không kiếp này thì kiếp sau cũng nhận được.
"Ai ơi! Hãy ở cho lành,
Kiếp này không được, để dành kiếp sau".
Giáo lý Vô thường cũng được
thể hiện rõ qua câu:
“Cuộc đời đâu khác loài hoa,
Sớm còn tối mất nở ra lại tàn".
Và cho đến ngày nay, câu ca dao nổi
tiếng mà đa số người Việt đều thuộc:
"Lênh đênh qua cửa Thần
Phù,
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm".
Cửa Thần Phù theo Việt Nam Tự điển,
là tên của con sông Chính Đại, thuộc Yên Mô, Ninh Bình đổ ra vịnh Bắc
Việt. Về sau, cửa sông bị cát bồi thành; cho đến cuối đời nhà Lê,
dân cư sinh sống nơi đây thành lập Tổng Thần Phù. Cư dân đa số sống
bằng nghề chài lưới nên thường vật lộn với sóng nước để tồn tại.
Thuyền bè thường qua lại cửa sông và mỗi khi gặp nạn thì có kẻ còn
người mất. Từ hiện trạng đó, người dân mới mượn hình ảnh
"lênh đênh" của thuyền qua lại cửa Thần Phù để biểu tượng
cho luân hồi sanh tử. Chữ "nổi" là biểu tượng cho sự giải thoát,
chữ "chìm" là biểu tượng cho sự đọa lạc, hai chữ "khéo
tu" là chỉ cho những người thực hành giáo lý giác ngộ.
Lối tư duy ấy đã trở thành xương
máu của họ. Cho đến khi nền văn học được phát huy rực rỡ, các nhà
thơ, nhà văn lớn cũng mang trong mình dòng chảy tư duy văn hóa Phật giáo:
"Đã mang lấy nghiệp vào
thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời
xa
Thiện căn bởi tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ
tài".
Nguyễn Du.
Về mặt giáo dục thể chất, văn
hóa làm chức năng giúp con người có sự hiểu biết ngày càng chính xác về
sự vận hành tâm sinh lý của chính bản thân mình. Lối sống chánh niệm,
làm sạch tư tưởng; phép quán thân bất tịnh của Phật giáo đã trở
thành quan niệm sống lâu đời của người Việt. Mặt khác, thông qua hình
thức nghệ thuật, văn hóa giáo dục con người một hệ thống tình cảm
chuẩn mực. Thế nên lễ nhạc Phật giáo, kiến trúc chùa chiền, nghệ thuật
điêu khắc Thánh tượng… luôn là đề tài sống động làm phong phú tâm
hồn mọi người.
Con người đẹp theo quan niệm của
người xưa và ngày nay cũng khác nhau. Ngày nay, một con người toàn diện
phải đầy đủ trí, đức, mỹ, thể mà ý nghĩa của nó không khác lời
Phật dạy: "Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và dòng nước
mắt cùng mặn", "giá trị của con người được đánh giá qua trí
tuệ có sâu dày và đức độ có hậu bạc” của họ. Một con người
toàn diện, người ấy phải có thể chất khỏe mạnh. Phật dạy: "Không
có một tinh thần minh mẫn trong một thân xác gầy yếu", đó là
chân lý. Do vậy, rèn luyện thể chất cho con người cũng là chức năng giáo
dục cần yếu của văn hóa.
Ngày nay, trong hình thức giáo dục
gia đình, pháp Tam quy-Ngũ giới một khi được Phật hóa gia đình thì sự
giáo dục ấy là toàn mỹ. Trường học là hình thức giáo dục bắt buộc
có định hướng và đây chính là cái nôi của sự hình thành tri thức sống
và nhân cách cho mọi người. Ngành giáo dục phải đào tạo nhân lực đúng
với định hướng chiến lược. Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục nhà trường
nếu không có phương pháp hay nội dung đúng đắn thì sự phản tác dụng
của nó có thể làm hư đi cả một thế hệ, nếu không nói là nhiều thế
hệ mai sau. Tuy nhiên, nếu chúng ta thiếu may mắn, không được sống trong
một gia đình tốt, không có điều kiện cắp sách đến trường, không
được sinh hoạt trong môi trường xã hội có văn hóa thì chúng ta sẽ bị
sự đào thải, vùi dập và biến chất hay sao? Trong thực tế, có rất nhiều
người thiếu may mắn nhưng họ biết vươn lên thay đổi số phận. Như vậy,
trong con người đã có sẵn “tấm lưới gạn lọc”. Họ biết tiếp nhận
tri thức hay đẹp, chống lại sự tác động xấu ác từ bên ngoài. Do đó,
chiến lược giáo dục tri thức này là sự rèn luyện phẩm chất tự
giác, giác tha của chúng ta để giúp mọi người nâng cao tính tự giáo dục.
Hiện tại, thanh thiếu niên Việt Nam đang bị tha hóa đạo đức, cả dân
tộc bậc gốc khỏi nền tảng văn hóa bản địa, áo nghĩa Phật đà bị
quên lãng,… là tiếng chuông báo động ở cấp nguy hiểm mà chúng ta
không thể không lưu tâm.
Cuộc sống và tình yêu là hai nhân
tố song phương tồn tại trong một con người. Riêng quan niệm khổ đau, chúng
ta có thể chấp nhận quan điểm của Goethe, qua lời thơ của ông: "Trong
khi mà con người, trong đau khổ không nói nên lời, thì đã có một vị thần
nói lên những gì tôi đang chịu đựng” (Und wenn der Mensch in seiner Qual
verstummt, Gab mir ein Gott, zu sagen, wieich leide). Ngày nay thông qua chức năng
văn hóa, con người có tri thức ngày càng sát với chân lý, sát với bản
chất vận hành của sự sống cũng như vũ trụ. "Vì một cái gì xa
lạ và trái với bản chất người, tức là một sản phẩm kỳ cục riêng
thuộc của tưởng tượng, không thể nào lại được thiên tài thi ca mọi
thời đại không ngớt mô tả, và lại được nhân loại tiếp đón với một
lòng ái mộ không bao giờ vơi cạn; vì không có chân lý không thể có thẩm
mỹ". Và Boileau cũng từng tuyên bố: "Không gì đẹp bằng cái
thật, chỉ cái thật mới đáng yêu”. Đúng vậy, chỉ có cái thật mới
tồn tại và giáo pháp Như Lai chính là tiếng nói "thâm diệu như thật"
(diệu đế) được mọi người đón nhận.
Về phương diện nghệ thuật, điển
hình là nội dung nghệ thuật Tây Tạng qua đề tài Mạn-đà-la, mô tả
hình tròn biểu tượng vũ trụ đã có sức thu hút vượt quá vai trò nghi lễ
của chúng. "Đối với các nhà tâm lý học, chúng là những hình tượng
phổ biến phản ánh những bản năng của con người. Đối với nhiều người
khác, chúng có sức thu hút thông qua sự pha trộn của trật tự và sự
hài hòa, những hình tượng đa tầng đầy bí ẩn của chúng như là cách
thức biểu hiện những ý nghĩa mang tính chất tri thức và cảm xúc sâu xa".
Phải nói Phật giáo là một tôn
giáo có sức ảnh hưởng rất lớn trong tâm hồn người Việt. Hệ thống
giáo lý: "nhân quả", "luân hồi", "thiện
ác nghiệp báo”... đã trở thành nhận thức truyền thống dân tộc.
Thử tìm lại trong thi ca xưa, chúng ta thấy kệ "cáo tật thị chúng"
của thiền sư Mãn Giác mô tả một định luật tất yếu của cuộc sống
mà con người không thể đảo lộn theo ý muốn của mình được. Nhận thức
được sự nhỏ bé và rất giới hạn của mình trước vũ trụ bao la, Thiền
sư viết:
Xuân khứ bách hoa l ạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Việc đời qua trước mắt
Già theo đến trên đầu).
"Chính nhận thức như vậy,
họ mới thấy cuộc sống muôn hình muôn vẻ cứ tiếp tục theo đuổi nhau
đi qua trước mắt con người, trong lúc đó thì con người là một hữu hạn,
chỉ có một số lượng thời gian và không gian nhất định để nhận thức
và nắm lấy cuộc sống ấy".
Tuy nhiên, trong cái nhỏ bé ấy,
"họ đã có một niềm tin mãnh liệt vào khả năng cải tạo vô tận
đối với thế giới, và từ đó một tương lai sáng lạn đang chờ đợi
họ và con cháu họ":
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai).
Tóm lại, như chúng ta đã biết, để
có cái nhìn chuẩn xác về văn hóa một dân tộc thiểu số, ít nhất các
nhà nghiên cứu phải căn cứ vào kết quả của một cuộc điền dã dân tộc
học. Huống chi văn hóa Phật giáo đã trở thành truyền thống ăn sâu
trong tư duy dân tộc Việt qua mấy nghìn năm rồi; nếu muốn nhận chân đúng
giá trị của của nó, buộc chúng ta phải có cái nhìn thật khách quan,
thì may ra mới đúng phần nào; còn nếu muốn hiểu tương đối chính xác
thì phải sống với nó chứ không còn cách nào khác hay hơn. Giá trị của
Phật giáo trong văn hóa dân gian giữ một vị trí to lớn trong tổng thể văn
hóa Việt Nam. Sự hiện hữu của nó qua mấy ngàn năm lịch sử đã kết
thành xương tuỷ trong dòng giống Lạc-Rồng mà thế hệ chúng ta phải
trân trong giữ gìn. Đặc biệt, qua bài này người viết muốn gởi đến
quí độc giả một thông tin về giá trị Phật giáo trong đời sống văn hóa
dân gian Việt Nam đang bị xói mòn nếu không nói là bị lãng quên.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/phatgiao-dangian.htm