- Nguồn gốc
và ý nghĩa của chiếc áo cà-sa
- Hoàng Phong
Chữ cà-sa có nguồn gốc từ tiếng Phạn kasaya.
Nhưng thật sự chữ kasaya trong tiếng Phạn không có nghĩa gì là
áo cả mà chỉ có nghĩa là bạc màu, cáu cặn hay hư hoại.
Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm (màu nhạt), trọc hay
trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch này là hoại
sắc, bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại
chiếc áo cà-sa của người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng
trưng cho những gì nghèo nàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người
đọc, nếu chưa có ý niệm gì về chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có
thể hơi ngạc nhiên khi đọc những điều vừa nêu trên đây. Thật vậy, kẻ thế
tục thường hay đồng hoá chiếc áo với người tu hành hay Đạo Pháp, họ chỉ
thấy những biểu tượng, những quy ước. Đạo Pháp hay người tu hành rất cao
cả, nhưng chiếc áo rất tầm thường, hoặc đôi khi cũng có thể hiểu ngược
lại : chiếc áo tượng trưng cho cao cả, nhà sư là tầm thường. Tầm thường ở
đây có nghĩa là khiêm tốn, nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa đen là không
xứng đáng để khoác lên người chiếc áo cà-sa. Bài viết không đề cập
đến trường hợp theo nghĩa đen hiếm hoi này, tuy nhiên trên thực tế cũng có
thể xảy ra được.
Tóm lại, chiếc áo cà-sa không bao giờ mang màu sắc
sáng chói, kết ren hay thêu thùa. Chiếc áo của người tu hành không phải là
một hình thức để tạo ra ảo giác, không dùng để loè mắt những người thế tục…Chiếc
áo cà-sa là biểu tượng của những gì khiêm tốn, đơn sơ và tầm thường
nhất mà ta có thể tưởng tượng ra được. Nhưng đồng thời, chiếc áo cà-sa
cũng là biểu tượng của Đạo Pháp, do đó cũng tượng trưng cho những gì cao
cả và thiêng liêng nhất, vượt lên trên sự hiểu biết quy ước của chúng ta.
Ngày nay, nhiều tu viện lớn ở Miến điện vẫn còn giữ được
truyền thống thật xưa, theo đó các nhà sư phải tự đi nhặt những mảnh vải
vụn, những tấm khăn đắp hay liệm người chết vứt bỏ ở những nơi hỏa táng,
nghĩa địa hay những đống rác, rồi đem về tự mình chắp nối và may lấy áo để
mặc. Mỗi người chỉ được phép có ba chiếc áo như thế, thêm một bình bát để
khất thực và một bàn chải đánh răng, thế thôi. Đến đôi dép cũng không có,
họ đi chân đất. Theo tôi nghĩ có lẽ đây là truyền thống rất lâu đời, từ
thời của Phật. Nhưng trên thực tế, ngày nay chiếc áo cà-sa đã biến
đổi ít nhiều tùy theo phong thổ, tập quán, chủng tộc, học phái…Nhưng dù
cho có biến đổi, chiếc áo cà-sa vẫn giữ được ý nghĩa nguyên thủy
của nó : sự đơn sơ, khiêm nhường, trân quý và cao cả. Trong bài viết này
tôi sẽ lần lượt chọn hai thí dụ điển hình, một thuộc Nam tông và một thuộc
Thiền học của Bắc tông đề trình bày những biến đổi từ quan niệm đến hình
thức của chiếc áo cà-sa, và sau đó sẽ lạm bàn xa hơn về ý nghĩa của
chiêc ấy.
Nguồn gốc, tên gọi
và những biểu tượng của chiếc áo cà-sa
Theo Luật Tạng (Vinaya), Tăng đoàn của Phật lúc ban đầu ăn
mặc không khác biệt gì với những người tu hành thuộc các truyền thống tôn
giáo khác. Vì thế vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) đề nghị với Phật xin cho
các đệ tử được ăn mặc khác hơn để mọi người dễ nhận ra. Đúng vào thời điểm
ấy, Phật và người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà đang du hành phương Nam
để thuyết giảng, Phật thấy những thửa ruộng lúa hình chữ nhật, chia cắt
bởi những con đê tăm tắp. Phật liền bảo A-nan-đà cứ theo mẫu ấy mà may áo
cho Tăng đoàn. Vì thế, trong kinh sách tiếng Hán, chiếc áo cà-sa
còn gọi là Cát triệt y hay Điền tướng y, mảnh áo mang hình
những thựa ruộng, tượng trưng cho sự phong phú và phúc hạnh. Theo thiển ý
của riêng tôi, câu chuyện này cũng đã bắt đầu cho thấy những dấu hiệu của
sự biến dạng rồi. Cách so sánh khá thi vị trên đây đòi hỏi đến trí tưởng
tượng và những ước mơ phù hợp với tiêu chuẩn và quan niệm về hạnh phúc và
giàu sang của thời đại bấy giờ không có gì là Đạo Pháp cả. Như đã trình
bày trong phần nhập đề, chiếc áo cà-sa gồm nhiều mảnh ráp lại vì đó
là những mảnh vải vụn nhặt được ở bãi tha ma, tượng trương cho những gì
tầm thường nhất và cũng để nhắc nhở người tu hành về tấm thân vô thường
của họ.
Cà-sa trong tiếng Hán còn gọi là Đoạn phục, Pháp y, Nhẫn nhục
khải, Giải thoát chàng,
Cà-sa-duệ, Già-sa-dã…, các chữ này hàm chứa một ý nghĩa chung
là dứt bỏ, bất chính, ô uế, nhiễm bẩn, có màu xích sắc (màu đỏ)… Theo sách
tiếng Hán, áo không nhuộm hẳn bằng một màu nào cả, chỉ tránh không dùng
năm màu chính là xanh, vàng, đỏ, trắng và đen, nhưng pha trộn nhiều màu để
tạo ra một màu xích sắc thật bẩn thỉu, đúng theo ý nghĩa nguyên
thủy của chữ kasaya trong tiếng Phạn. Áo gồm nhiều mảnh, có thể mỗi
mảnh một màu, vì đó là những mảnh vải nhặt được và khâu đùm với nhau. Ngày
nay tùy theo truyền thống của từng học phái, địa phương, phong tục, khí
hậu…mà chiếc áo cà-sa cũng biến dạng đi, từ cách may cho đền màu
sắc : màu vàng ở Ấn độ và các nước theo truyền thống Nam tông ; các màu
vàng, màu lam, nâu, nâu đỏ (nhuộm bằng vỏ cây mộc lan, hay củ nâu) như ở
Việt Nam và Trung quốc ; màu lam ở Hàn quốc ; màu đen hay nâu đen (màu trà)
ở Nhật ; màu vàng nghệ hay nâu đỏ ở Tây tạng…Nói chung có ba màu chính gọi
là Như pháp cà-sa sắc tam chủng (ba màu sắc của áo cà-sa
theo phép quy định) : màu gần như đen (màu thâm, màu bùn dất), màu xanh (màu
rỉ đồng), màu gần như đỏ (màu hoa quả).
Pháp y của người tu hành gồm có ba loại : Đại, Trung và Tiểu.
Loại nhỏ, Tiểu y, gọi là An-đà-hội (Antarvasaka), áo này gồm có năm
mảnh ráp lại (ngũ điều). Áo kiểu Trung gọi là Uất-đa-la-tăng (Yttara-Samgha)
gồm có bẩy mảnh (thất điều). Áo kiểu rộng, Đại y, gọi là Tăng-già-lê
(Samghati), gồm chín mảnh (cửu điều). Trên đây là các loại áo cà-sa
có gốc từ Ấn độ. Tùy theo xứ lạnh hay nóng bức, có thể mặc áo tiểu và
trung bên trong, rồi mặc thêm áo cửu điều bên ngoài.
Chiếc áo cà-sa dùng để che thân, để đắp, để gối đầu
hoặc để gấp lại và ngồi lên đó như một toạ cụ. Kinh Bát-nhã có kể
chuyện Phật cùng với các đồ đệ sau khi khất thực về, ăn xong, Phật tự lau
rửa bình bát, sau đó tự tay xếp áo cà-sa làm tọa cụ và ngồi lên đó
để thuyết giảng. Có khi các đồ đệ lấy áo của mình xếp chồng lên nhau để
Phật ngồi.
Công dụng của chiếc áo cà-sa thiết thực như thế, nhưng dần dần
người ta gán thêm cho nó nhiều đức tính khác nữa. Kinh Bi hoa kể
chuyện Phật thệ nguyện khi đắc Đạo sẽ mặc chiếc áo cà-sa có đủ năm
đức, kinh này gọi là áo Cà-sa ngũ đức và kể các đức ấy ra như sau :
1. Người thế tục nếu biết kính trọng cà-sa sẽ tiếp nhận được Tam
Thừa (tức Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát
thừa), 2. Thiên long nhân quỷ nếu biết kính cà-sa cũng
đắc Tam thừa, 3. Quỷ thần và chúng sinh chỉ cần bốn tấc của chiếc
áo cà-sa cũng được no đủ, 4. Chúng sinh hằng tâm niệm
cà-sa sẽ nẩy sinh lòng Từ bi, 5. Giữa nơi trận mạc, nếu có được
một mảnh nhỏ áo cà-sa và biết cung kính mảnh áo ấy cũng thắng trận.
Một quyển kinh khác là Tâm địa quán kinh lại nêu lên đến mười điều
lợi của chiếc áo cà-sa và gọi là Cà-sa thập lợi : 1. Che thân khỏi
thẹn ngượng, 2. Tránh ruồi muỗi, nóng rét, 3. Biểu thị các tướng tốt của
người xuất gia, 4. Kho chứa châu báu (tức Diệu Pháp của Phật), 5. Phát
sinh nghị lực gìn giữ giới hạnh, 6. Màu nhạt bẩn không làm phát sinh lòng
ham muốn, 7. Mang đến sự thanh tịnh, 8. Tiêu trừ tội lỗi, 9. Mảnh đất tốt
làm nẩy sinh Bồ-đề tâm, 10. Giống như áo giáp, mũi tên phiền não không đâm
thủng được.
Tôi mạn phép kể lể dài dòng như trên đây, vì mục đích muốn nêu
lên một thí dụ điển hình trong việc thêm thắt và biến dạng đối với ý nghĩa
của chiếc áo cà-sa. Chẳng hạn như đức tính thứ năm do Kinh Bi
hoa kể : « nơi trận mạc, nếu có một mảnh nhỏ cà-sa và biết
cung kính cũng thắng trận », theo tôi nghĩ đức tính này không phù hợp lắm
với Đạo Pháp của Phật. Dù sao cũng xin phép được tiếp tục kể thêm rằng
sách gốc Hán đã đặt cho chiếc áo cà-sa đến mười hai danh hiệu khác nhau và
gọi là Cà-sa thập nhị danh : 1. Cà-sa, 2. Đạo phục (áo
của người tu hành), 3. Thế phục (áo của người xa lánh thế tục), 4.
Pháp y (áo đúng theo quy định của Đạo Pháp), 5. Ly trần tục
(áo xa lánh lục trần), 6. Tiêu sấu phục (áo có khả năng tiêu trừ
phiền não), 7. Liên hoa phục (áo như hoa sen không
nhiễm bùn nhơ), 8. Gián sắc phục (áo nhuộm cho hư hoại màu đi), 9.
Từ bi phục (áo của người thực thi đức Từ bi), 10. Phúc điền phục
(áo gồm nhiều mảnh giống như những mảnh ruộng tượng trưng cho phì nhiêu,
phúc hạnh), 11. Ngọa cụ (áo dùng để lót lưng khi nằm), 12. Phu
cụ (áo dùng làm chăn để đắp).
Để tiếp tục kể chuyện về chiếc áo cà-sa, tôi xin trình bày tiếp
theo đây những gì liên quan đến chiếc áo ấy trong Nam tông và Thiền tông.
Lễ Dâng y
của Nam tông
Một trong những lễ hội lớn nhất và quan trọng nhất của Nam
tông là lễ Dâng y trong dịp kết hạ. Sau thời gian ba tháng
an cư trong mùa mưa là lễ kết hạ. Lễ kết hạ đánh dấu
ngày chấm dứt ẩn cư, tức thời gian không được phép đi ra ngoài của các tỳ
kheo. Người Nam tông làm lễ này rất long trọng và gọi là lễ Dâng y
hay Kathina. Thật sự chữ kathina trong tiếng Pali (tiếng Phạn
là kathinya) không có nghĩa gì là áo hay dâng y mà có nghĩa
là sự vững chắc và trong ngôn ngữ Pali chữ này lại có một nghĩa nữa là cái
khung để dệt vải hay may áo.
Trong dịp lễ này, Phật tử dâng vải cho Tăng đoàn may áo
cà-sa. Trước khi dâng, vải và các vật cúng dường khác được đặt vào mâm
rồi đội lên đầu đi diễn hành trong thôn xóm, làng mạc trước khi đến Chùa
để dâng lên các tỳ kheo. Các tỳ kheo phải chia nhau may cắt và phải may
cho xong chiếc áo trong một ngày. Tục lệ này được đặt ra để nhắc lại sự
tích người mẹ nuôi của Phật, cũng là người Dì tức là em của mẹ Phật, tên
là Ma-ha Ba-xà-ba-đề Cồ-đàm-di (Mahaprajapati Gautami), đã từng thức suốt
một đêm để hoàn tất chiếc áo cho Phật. Khi Phật sinh ra đời được bẩy ngày
thì mẹ mất, người Dì đứng ra chăm xóc cho Phật. Sau này, khi Phật đạt được
Giác ngộ, Bà đã xin quy y và thành lập Tăng đoàn các Tỳ kheo ni, vì thế Bà
cũng là Ni sư đầu tiên của Phật giáo.
Quy luật an cư cần phải có tối thiểu năm tỳ kheo cho mỗi nhóm,
và được hưởng một khúc vải dài độ ba thước. Theo nghi lễ, cả nhóm họp lại
để cắt may, xong áo thì tặng cho tỳ kheo nào nghèo nhất, hoặc cho người
nào thông thái nhất hay lớn tuổi nhất trong nhóm. Khi may xong, áo được căng
lên một cái khung (kathina) rồi mời mọi người đến chiêm ngưỡng.
Áo này được gọi là mahakathina. Sau đó, khung căng áo được tháo ra
để tượng trưng cho sự nới lỏng một vài giới luật đối với các tỳ kheo. Nhưng
trước đó trong suốt thời gian an cư, phải giữ khung căng áo nguyên vẹn vì
là biểu tượng của giới luật phải giữ gìn. Vì thế, lễ kết hạ của Nam
tông mang tên là kathina tức là sự chặt chẽ, vững chắc đúng theo
nghĩa của chữ này trong tiếng Phạn và tiếng Pali.
Trên đây là những tục lệ và ý nghĩa được thêm thắt và tô điểm
qua thời gian. Kinh sách tiếng Pali lại có kể một câu chuyện như sau. Trước
mùa an cư, có một nhóm tỳ kheo độ chừng ba mươi đến năm mươi người họp
nhau đến thành Xá-vệ (Savatthi) để cùng an cư bên cạnh Phật. Nhưng trên đường
đến Xá-vệ, họ gặp mưa bảo triền miên, đi đứng khó khăn, khi đến được Xá-vệ
thì quần áo tả tơi và rách nát, hạn an cư ba tháng đã hết. Vì thế nên Phật
quyết định lưu giữ Tăng đoàn lại để vá và may quần áo mới, do đó đã nới
lỏng một vài giới luật. Cũng có một cách giải thích khác là tháng đầu tiên
sau khi kết hạ là tháng dành cho việc may mặc, vì thế nên một vài điều
luật được tạm thời nới lỏng trong thời gian này để các nhà sư lo việc may
áo cà-sa mới. Tuy rằng ngày nay, việc may mặc không còn là một mối
quan tâm cho người tu hành, nhưng thói tục vẫn còn giữ để bảo tồn sự tương
trợ giữa những tỳ kheo với nhau, giúp nhau trong việc may vá. Về phía
những người thế tục, họ phải cúng dường vải vóc để tự nhắc nhở phải nghĩ
đến những khó khăn và thiếu thốn của người xuất gia.
Các câu chuyện trên đây cho thấy những biến dạng trong ý nghĩa
của chiếc áo cà-sa đối với Nam tông. Tuy là những ý nghĩa thêm thắt
nhưng vẫn giữ được truyền thống lâu đời. Những thêm thắt đó củng cố và tô
điểm thêm cho Đạo Pháp và nhất là bày ra những tục lệ giúp một cách thiết
thực vào việc tu hành.
Chiếc
áo cà-sa và Thiền tông
Trước khi tịch diệt, Phật trao y bát cho người đệ
tử uyên bác, kỷ cương và đạo hạnh nhất là Ma-ha Ca-diếp và khuyên bảo các
tỳ-kheo nên nghe theo những lời hướng dẫn của Ca-diếp. Thật ra khi Ma-ha
Ca-diếp gặp Phật lần đầu, Phật đã trao áo cho Ma-ha Ca-diếp rồi. Lúc ấy
Phật đi từ thành Vương-xá (Rajagrha) đến địa phận Na-lan-đà, Ma-ha Ca-diếp
gặp Phật trên đường đi và nhận ra ngay chính đây là Đức Thế Tôn. Ma-ha
Ca-diếp phủ phục dưới chân Phật. Phật tuyên bố đây chính thực là một đệ tử
của Ngài. Phật cởi áo để trao đổi với Ca-diếp và sau đó đã thuyết giảng
riêng cho Ca-diếp. Nhờ thế chỉ tám ngày sau Ca-diếp đắc quả La-hán. Nhưng
cũng nên hiểu rằng ngài Ca-diếp đã có căn tu trừ trước, đã dốc lòng tu tập
trước khi gặp được Phật. Kinh sách kể chuyện ngài bỏ nhà đi tìm Đạo đúng
vào ngày Phật đạt được Giác ngộ. Sau khi Phật tịch diệt, chính ngài Ca-diếp
đứng ra tổ chức và chủ tọa lần kết tập đầu tiên những lời giảng huấn của
Phật. Ma-ha Ca-diếp sống rất thọ, theo Kinh Tăng nhất A-hàm, Ma-ha Ca-diếp
trèo lên hang Thạch đầu ở núi Kì-xà-quật (Kukkutapada) khoác lên người
chính chiếc áo cà-sa của Phật rồi thệ nguyện rằng xác thân này
không bao giờ hư nát cho đến khi nào Phật Di Lặc hiển hiện để cứu độ chúng
sinh. Sau lời phát nguyện, Ngài nhập vào Niết bàn.
Một lần ở núi Linh thứu, trong một buổi đăng đàn, Đức Thế Tôn
không thốt lên một lời nào cả, chỉ cầm một cánh hoa đưa lên cho mọi người
xem. Tất cả đều ngơ ngác không ai hiểu gì, chỉ có một mình Ma-ha Ca-diếp
nét mặt bừng tỉnh và mỉm cười. Truyền thuyết này gọi là « Niêm hoa vi
tiếu » (Cầm hoa mỉm cười), nêu lên khái niệm về sự tinh tế và
cao siêu của Giác ngộ không thể trình bày hay diễn đạt bằng lời nói được.
Yên lặng tượng trưng cho sự quán nhận trực tiếp, vượt lên trên ngôn từ và
sự hiểu biết quy ước của chúng ta. Đây cũng là một đặc thù của Thiền học,
vì thế ngài Ca-diếp được xem là tổ thứ nhất của Thiền tông trên đất Ấn.
Ngài Ma-ha Ca-diếp về sau lại trao y bát của mình cho A-nan-đà.
Tục lệ truyền thụ này kéo dài ở Ấn độ cho đến tổ thứ 28 là Bồ-đề-đạt-ma
(~470-543), tức gần một ngàn năm sau khi Phật tịch diệt. Khi Bồ-đề-đạt-ma
sang truyền Đạo ở Trung quốc, ngài lại trở thành vị tổ thứ nhất của Thiền
tông trên phần đất này. Tục lệ truyền y bát tiếp tục trên đất nước Trung
hoa cho đến tổ thứ sáu là ngài Huệ Năng (638-713), tức được thêm khoảng
hai trăm năm nữa.
Y
bát của tổ thứ năm và ngài Huệ Năng
Ngài Hoằng Nhẫn (601-674), vị tổ thứ năm của Thiền tông
Trung quốc, trao chiếc áo cà-sa tượng trưng sự lảnh đạo tông phái
cho ngài Huệ-Năng, vì Huệ Năng là người thấu hiểu sâu xa hơn hết về Thiền
học trong số các đệ tử của tông phái. Huệ Năng kính cẩn tiếp nhận chiếc áo
cà-sa cao quý ấy và đồng thời cũng hiểu rằng chiếc áo tượng trưng
cho lảnh đạo và uy quyền này rồi sẽ gây ra sự ganh tỵ và tranh chấp trong
Tăng đoàn. Ngài Hoằng Nhẫn cũng ý thức được điều ấy nên khi trao chiếc áo
cho Huệ Năng đã khuyên Huệ Năng bỏ trốn về phương Nam và sau này không nên
truyền thụ y bát nữa.
Hừng đông, Huệ Năng khoác lên người một chiếc áo rách để hóa
trang, ôm chặt cái bọc gói chiếc áo cà-sa của ngũ tổ Hoằng Nhẫn,
lẻn ra khỏi chùa và cắm cổ đi miết về phương Nam. Đi suốt như thế mấy ngày
mấy đêm liền, khi đến vùng núi Đại châu, Huệ Năng ngoảnh cổ nhìn lại phía
sau, bỗng giật mình hoảng hốt vì trông thấy có hàng trăm người đang hò hét
đuổi theo. Dẫn đầu đám đông là sư Huệ Minh, một cựu võ quan đi tu, chính
là người muốn cướp đoạt chiếc áo cà-sa của ngũ tổ. Đám đông càng
lúc càng gần, Huệ Năng thì vừa mệt vừa đói không còn đủ sức để chạy thêm
được nữa, ông liền để cái bọc áo cà-sa lên một tảng đá rồi ngẩng cổ
hướng về phía đám đông và nói lớn lên như sau : « Chiếc áo cà-sa tượng
trưng cho việc Hoằng Pháp. Tại sao các ông là đám người thế tục lại muốn
cướp nó ? Cướp giữ chiếc áo cà-sa nhưng thiếu chính Pháp, chẳng qua cũng
như một cánh hoa phản chiếu trong gương mà thôi ». Nói xong Huệ Năng
tìm một bụi rậm bên đường chui vào để trốn.
Huệ Minh chạy đến thấy cái bọc áo cà-sa, mừng quá liền
ôm lấy, nhưng cái gói lại dính chặt vào tảng đá, không thể nào gỡ ra, hoặc
kéo lên được. Huệ Minh bổng nhiên cảm nhận được sức mạnh vô biên của Đạo
Pháp, liền chui vào bụi rậm tìm Huệ Năng và phủ phục dưới chân Huệ Năng
xin được thọ giáo.
Câu chuyện lại tiếp tục như sau. Huệ Năng rời Huệ Minh và tiếp
tục đi về phương Nam. Huệ Năng đến thôn Tào khê, thuộc quận Thiều châu, tá
túc ở chùa Bảo lâm. Nhiều tháng sau, vào một đêm tối, có một đám đông gồm
nhiều nhà sư, đầu đội mũ sùm sụp, kéo đến đập cửa sau của chùa và hét to
lên : « Này Huệ Năng, ngươi phải đưa chiếc áo cà-sa cho chúng ta.
Nếu không sẽ có chuyện to đấy ».
Trong chùa, Huệ Năng sợ quá, ôm bọc áo tông cổng trước mà chạy. Huệ Năng
phăng phăng trèo lên một ngọn đồi gần chùa, nhìn xuống thấy đám đông đốt
đuốc đuổi theo, họ chạy nối đuôi nhau, ngòng ngoèo như một con rắn lửa đỏ
rực. Huệ Năng thì mệt lả không còn chạy được nữa, liền chui vào một khe đá
để trốn. Một lúc lâu, không nghe động tịnh gì, ông thò đầu nhìn ra. Nhưng
lúc ấy cả ngọn đồi đã cháy rực như một biển lửa. Đám đông, vì không tìm
thấy ông, nên nổi lửa đốt ngọn đồi và tin rằng Huệ Năng thế nào cũng phải
chui ra.
Trong tình huống dầu sôi lửa bỏng như thế, Huệ Năng vẫn không
cảm thấy sợ hãi cho thân mình, chỉ nghĩ đến việc phải bảo vệ chiếc áo mà
thôi. Ông bỗng chực nhớ đến trước đây Huệ Minh không thể nhấc được chiếc
áo lên khỏi tảng đá và ông tin rằng chiếc áo này là biểu tượng của sức
mạnh Đạo Pháp, không thể nào cháy được. Ông liền bình thản mở cái bọc và
khoác lên người chiếc áo cao quý ấy rồi tọa thiền trên một tảng đá. Sau
khi nhập thiền, Huệ Năng cảm thấy thân xác nặng thêm, lún sâu vào đá, cảnh
tượng hãi hùng biến mất. Lửa tắt, khỏi đen và bụi mù cũng tan biến. Cảnh
vật chung quanh trở nên êm ả một cách lạ thường.
Tọa thiền như thế thật lâu, bỗng Huệ Năng cảm thấy có những
tia sáng xuyên vào mắt. Ông mở mắt ra thì mặt trời đã lên cao, cây cỏ
chung quanh và khắp ngọn đồi đã cháy sạch chỉ còn tro bụi. Chiếc áo
cà-sa bám đầy tro nhưng không kém vẽ rạng rỡ. Huệ Năng đứng lên, nhưng
lại hết sức ngạc nhiên nhận thấy trên mặt tảng đá nơi ông ngồi bị lún sâu,
in dấu hai đầu gối của ông lúc tọa thiền, nhìn kỹ hơn lại thấy cả vết vạt
áo, vết vải và đường chỉ khâu nữa. Trước cảnh tượng đó, Huệ Năng bất thần
chứng ngộ được sức mạnh của Đạo Pháp.
Chiếc áo
cà-sa và Thiền học Zen
Tôi xin kể tiếp chuyện chiếc áo cà-sa trong
Thiền tông, đặc biệt là Thiền phái Zen của người Nhật. Người Nhật gọi
chiếc áo cà-sa là okesa hay kesa, chữ này cũng có gốc
từ chữ Phạn kesaya. Chữ okesa trong tiếng Nhật có nghĩa là
miếng vải thừa vứt bỏ, dính bẩn hay hư hoại. Người Nhật tu Thiền còn gọi
chiếc áo kesa là « Fukuden-e », chiếc áo của Phúc hạnh,
hoặc « Mu soo », chiếc áo « Vô tướng » hay « Không hình
tướng », tức chiếc áo của một người « Vô ngã », tự tay khâu lấy
cho mình và mặc lên một thân xác « không mang một dấu hiệu gì cả
». Người tu Thiền có ba chiếc áo kesa, một chín mảnh, một bẩy mảnh
và một năm mảnh. Chiếc áo năm mảnh được biến dạng và trở thành một vật
tượng trưng gọi là rakusu dành cho người xuất gia và cho cả hàng cư
sĩ, tức những người tu tại gia.
Đại khái tùy theo học phái, rakusu gồm năm mảnh vải màu
nâu hay màu lam, khâu ráp vào nhau, có viền vải chung quanh thành hình
vuông hay chữ nhật, lại khâu thêm một quai bằng vải. Rakusu giống
như một cái túi khá rộng, quai dùng để đeo vào cổ, tấm rakusu giấu
vào bên trong áo hoặc để ra trước ngực, tượng trưng cho chiếc áo
cà-sa. Mặt sau của tấm rakusu, lại lót thêm một lớp lụa màu
trắng hay màu ngà. Vị Thầy của người xin quy y ghi pháp danh của người này
lên mặt lụa, viết thêm một câu thơ hay một công án, tất cả đều bằng chữ
Hán, rồi ký tên và đóng triện của mình lên đó.
Điều đáng nêu lên là người xin quy y phải tự may tấm rakusu
cho mình. Tôi tự nghĩ rằng có lẽ người đọc nếu được chứng kiến cảnh tượng
những người Tây phương, trong số này có những giáo sư Đại học, những nhà
Khoa học lừng danh, các Bác sĩ nổi tiếng ghi tên vào những khoá thực tập
để may tấm rakusu trước khi xin quy y, trước cảnh tượng đó có thể
quý vị sẽ cảm động lắm. Họ chăm chỉ may từng mũi kim, ráp từng mảnh vải.
Khâu hỏng, đường chỉ không thẳng… họ lại tháo ra để may lại. Đó cũng là
cách tập chú tâm trong Thiền học, nhưng điều đáng nêu lên chính là sự hiển
lộ của Đạo Pháp trong từng cử chỉ, hành vi và trong quyết tâm của họ.
Người cư sĩ, không có cái may mắn của một người xuất gia, họ
an phận với tấm rakusu, đeo vào cổ và dấu trong ngực áo để nhắc nhở
họ phải giữ giới và để che chở cho tâm thức họ. Trước khi đeo vào cổ phải
đặt tấm rakusu lên đầu, đọc một câu kinh. Khi cởi ra, tấm rakusu
phải được gấp lại thật cẩn thận, cất trong một túi nhỏ, hay gói trong một
miếng vải sạch và đặt lên bàn thờ Phật. Đạo Nguyên (Dogen) nói rằng :
« Áo mặc của kẻ thế tục làm gia
tăng dục vọng – nhưng tấm áo của Phật, tấm áo của một sinh linh
Giác Ngộ, nhổ bỏ tận rễ tất cả những dục vọng đó ».
Để tiếp tục nêu lên ý nghĩa của chiếc áo cà-sa trong
Thiền học, tôi xin phép được trích dẫn thêm những câu khác của Đạo Nguyên.
Đạo Nguyên (1200-1253) là một đại thiền sư và cũng là một trong những nhà
tư tưởng lớn nhất của nước Nhật. Ông sang Trung Quốc tầm Đạo năm 1223, thọ
giáo với thiền sư Trường Ông Như Tịnh (Tiantong Rujing 1163-1228) thuộc
phái Tào động. Ông ngộ được Thiền, trở về Nhật năm 1227 và phát triển dòng
Tào động trên quê hương của ông. Trong tập luận nổi tiếng của ông là
Chính Pháp nhãn tạng (tiếng Nhật : Shobogenzo), Đạo Nguyên đã phát
biểu về chiếc áo cà-sa như sau:
« Những ai đã Giác Ngộ đều tôn
kính chiếc áo cà-sa, tin tưởng nơi chiếc áo đó. Họ xem đó là chiếc áo của
giải thoát, một cánh đồng của phúc hạnh, một mảnh áo vô tướng, mảnh áo của
Như Lai, mảnh áo của Anuttarak Samnyak Sambodhi (hoàn toàn Giác Ngộ,
hoàn hảo và không có gì so sánh được) »
Sau đây là một câu khác của ông trong tập Chính Pháp nhãn
tạng, câu này dùng để nhắn nhủ những người quy y
:
« Tư tưởng của con người không
bao giờ ngưng đọng, vì những tư tưởng ấy sinh ra và chết đi trong từng
khoảnh khắc ; thân xác con người cũng thế, sinh ra rồi biến đi trong từng
giây phút một.
Chiếc áo cà-sa không
phải là một sáng chế của con người, nó cũng chẳng phải không phải là một
sáng chế của con người ; nó không đứng lại ở một nơi nào cả, nhưng chẳng
có một nơi nào mà nó không dừng lại, và Sự Thực tuyết đối của chiếc áo
cà-sa chỉ có chư Phật mới hiểu được mà thôi.
Tuy nhiên, đối với những người tu tập
trên đường Đạo Pháp, những gì xứng đáng do chiếc áo cà-sa mang đến cho họ
thì vô tận, không bao giờ khô cạn (...).
Trong thế giới này chiếc
áo cà-sa luôn luôn hiện đại và cập nhật hoá. Sự hiện thực trong một giây
phút cũng là sự hiện thực của vô biên. Trong giây phút này, chúng ta đang
có cơ duyên tuyệt vời không những được nghe nói về Đạo Pháp, nhưng hơn thế
nữa ta còn được trông thấy, xem xét và tiếp nhận chiếc áo cà-sa này.
Cơ duyên ấy cũng giống như
ta được nhìn thấy Phật, nghe được chính Tiếng nói của Phật. Cơ duyên ấy
chính thực là sự truyền thụ của Tâm thức Phật, tiếp nhận được thân xác và
cốt tủy của Phật ».
Sau đây chúng ta lại tiếp tục tìm hiểu sâu xa hơn về ý nghĩa
của chiếc áo cà-sa.
Lạm
bàn về ý nghĩa của chiếc áo cà-sa
Như ta vừa nhận xét
trên đây về những biến đổi từ hình thức cho đến ý nghĩa của chiếc áo
cà-sa qua thời gian, không gian, nhưng những biến đổi đó vẫn luôn luôn
giữ được truyền thống và phong cách hàng ngàn năm của Phật giáo, từ những
tục lệ của Nam tông cho đến những hình thức mang tính cách tượng trưng
trong Thiền tông. Tất cả đều không đi ra ngoài Đạo Pháp.
Thật vậy, người xuất gia khoác lên người chiếc áo cà-sa
để giúp họ tự giữ giới, nhắc nhở họ không được tà dâm, sát sinh, trộm cắp,
không sân si, bám níu… Chiếc áo ấy đem đến sự an lạc cho họ, giúp họ phát
lộ lòng Từ bi, làm gia tăng trong tâm thức họ sự can đảm, tinh tấn, sức mạnh
và Trí tuệ.
Nhưng phần đông chúng ta đây, những người thế tục, những cư
sĩ tại gia, chúng ta không có cái may mắn, cái cơ duyên tốt lành của một
người xuất gia, hãnh diện được khoác lên người chiếc áo cao quý của Đạo
Pháp. Chúng ta trần trụi và hở hang như những con sâu, phơi bày thân xác
trước cuồng phong bảo táp, làm mồi cho những hiểm nguy của cõi dục giới
và luân hồi. Vậy phải làm sao bây giờ ?
Không được mặc lên người, nhưng chúng ta hãy cố gắng khoác lên
tâm thức chúng ta một chiếc áo cà-sa, một manh áo bạc màu, một manh
áo ta tự khâu lấy bằng những mảnh vải vụn vứt bỏ mà ta mót nhặt từ những
cảnh nghèo nàn và khổ đau chung quanh chúng ta. Một manh áo tuy khiêm tốn,
nhưng ta hãy xem đó là manh áo của Đạo Pháp, ngay thật và tinh khiết, rạng
ngời và cao cả. Dù ta bước ra đường với một chiếc áo thật hợp thời trang,
đắt tiền và thật đẹp, nhưng ta vẫn không hãnh diện bằng chiếc áo bạc màu
trong tâm thức ta. Hoặc kém may mắn hơn, ta phải bước ra đường với một
chiếc áo vá nghèo nàn trên thân xác, nhưng ta không xấu hổ và vẫn ngẩng
đầu cao, vì bên trong ta, chiếc áo cà-sa mà ta khoác lên tâm thức thật là
rạng rỡ.
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta
trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó
ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù. Trong lúc bước chân ra đường,
khi hòa mình với xã hội, thông thường ta chỉ xét đoán con người qua hình
dạng và phong cách bên ngoài, qua phấn son, quần áo, chức vị, cử chỉ, ngôn
từ…, phản ảnh một phần nào tâm thức của họ. Nhưng ta không thấy được những
gì sâu kín trong tâm hồn họ. Có những người ăn mặc sang trọng, chải chuốt,
phấn son loè loẹt, nhưng tâm hồn họ trần truồng, dơ bẩn, đầy lo âu và hổ
thẹn. Có những người nghèo khó, cực khổ, nhưng tâm hồn họ thật an vui, kín
đáo, sạch sẻ và nhân từ. Trên đây là hai trường hợp cực đoan và tiêu biểu
mà thôi, thế gian này thật phức tạp, có đủ mọi hạng người, pha trộn rất
nhiều đức tính và những sai lầm u mê khác nhau. Thế giới ta bà hay
luân hồi gồm có ba cõi : dục giới, sắc giới và vô
sắc giới. Tất cả chúng sinh còn vướng mắc trong luân hồi đều sống
chung đụng bên cạnh nhau trong ba cõi ấy : từ súc sinh, quỷ đói, con người,
cho đến thánh nhân và thiên nhân. Vậy ta hãy quyết tâm khoác lên tâm thức
ta một chiếc áo cà-sa thật tinh khiết để nhìn thấy những thánh nhân
và thiên nhân chung quanh ta để được đến gần với họ. Họ sẽ tập cho ta cởi
chiếc áo cà-sa trong tâm thức để khoác lên thân xác những ai đang
trần truồng và hổ thện, để lau nước mắt cho những người đang khổ đau và băng
bó vết thương cho những sinh linh bị hành hạ. Tất cả những chúng sinh ấy đang
hiện diện chung quanh ta, những cũng may mắn thay, thánh nhân cũng đang ở
bên cạnh ta.
Tóm lại, chiếc áo cà sa trong tâm thức, trước hết giống
như một bức rào ngăn chận những hành vi mê lầm và phạm giới của ta, sau đó
sẽ trở thành một bức tường thành kiên cố đem đến sự an lạc cho ta. Nhưng
ta cũng phải biết cởi chiếc áo cà-sa ấy từ tâm thức để khoác lên
thân xác của những ai cần đến, biết dựng lên cho kẻ khác một bức rào ngăn
chận những hành vi phạm giới của họ và xây lên một bức tường thành che chở
đem đến an vui cho họ.
Nhưng tu tập có phải là dừng ở đấy hay không ? Giữ giới và
phát lộ lòng Từ bi, tuy cực kỳ quan trọng và cần thiết, nhưng chỉ là giai
đoạn đầu. Từ bi phải đưa đến Trí tuệ, Trí tuệ đến Giác ngộ, Giác ngộ đến
Giải thoát. Con đường còn dài và thật dài. Ta hãy thử lạm bàn xa hơn về
chiếc áo cà-sa xem sao.
Lạm bàn xa hơn về
ý nghĩa của chiếc áo cà-sa
Để mở đầu phân đoạn này tôi xin dịch bốn câu thơ của thiền
sư người Nhật Suzuki Shosan (1579-1655) như sau :
Cùng nhau đi trong
cơn mưa Như Lai,
Cà-sa ướt
sũng cả hai vai.
Ô kìa, trên
những tàu lá sen,
Chẳng có một
giọt nào đọng lại.
Tôi cũng xin trích thêm ra đây một vài câu thơ của Thiền sư Ryokan
(1758-1831). Thiền sư Ryokan nổi tiếng là một người có tâm hồn dịu dàng,
thanh thoát và một lối sống thật đơn sơ. Ông thường làm thơ và viết chữ
thảo. Ngày nay, các bảo tàng viện ở Nhật cũng như trên thế giới tìm mua
với bất cứ giá nào những tờ giấy viết chữ thảo của ông còn lưu lại. Năm
1790, thầy của ông là Kokunen rút lui, gán cho ông biệt danh là Ryokan
Taigu, có nghĩa là người có một tâm hồn giản dị và một tấm lòng bao dung,
rồi giao phó trọng trách thay ông hướng dẫn Tăng đoàn. Một năm sau, thầy
của ông qua đời, ông cũng rời bỏ Tăng đoàn, xa lìa thế tục để lên núi ẩn
cư. Ta hay đọc qua một bài thơ của ông mà tôi tạm dịch nghĩa như sau :
Trong cánh rừng xanh mướt,
Là chiếc am cỏ của tôi.
Chỉ có những người đi lạc đường
Mới tìm ra
được nó.
Chẳng có
một tiếng ồn ào của thế tục,
Hoạ chăng
thỉnh thoảng mới nghe thấy tiếng hát của một gã tiều phu.
Một nghìn
đỉnh núi cao, một vạn con suối chảy,
Chẳng có
một bóng người.
Tuy thế một hôm sau khi đi tản bộ về, ông thấy túp lều cỏ của
ông bị trộm, tên trộm vơ sạch những gì thật nghèo nàn của ông. Ông liền
lấy bút để viết một câu thơ như sau:
Tên trộm đã bỏ quên
Khuôn
trăng
Bên thềm
cửa xổ
Thôi, ta hãy trở lại với chiếc áo cà-sa, với bức rào
cản ngăn chận những hành vi phạm giới, với bức tường thành mang đến an vui
cho ta. Chiếc áo mầu nhiệm như thế, bức tường thành kiên cố như thế, lớp
rào cản hữu hiệu như thế, nhưng đó có phải là Đạo Pháp hay không ? Thưa
không, đó chỉ là những biểu tượng mà thôi, giống như ngón tay dùng để chỉ
mặt trăng, ngón tay không phải là Đạo Pháp. Phật dạy rằng Đạo Pháp giống
như một cái bè bằng tre dùng để qua sông. Qua được bờ bên kia ta hãy bỏ
lại, đừng đội nó lên đầu mà đi. Cũng thế, mặt trăng cũng chỉ là một biểu
tượng. Nếu ta bám níu vào chiếc áo cà-sa, vào bức rào cản hay bức
tường thành, vào mặt trăng, chúng ta sẽ không bao giờ có thể đat được Giải
thoát. Đó chỉ là một hình thức của bám níu mà thôi.
Ta lại quay trở lại với ý nghĩa trong bốn câu thơ của Suzuki
trên đây. Ngay cả những giọt mưa Như Lai, tức Diệu Pháp của Phật, cũng
không đọng lại trên chiếc lá sen, nhưng ô kìa, sao những chiếc áo cà-sa
lại ướt đẫm như thế ? Chúng ta sống trong một thế giới mà tất cả đều là
quy ước, đều là những biểu tượng. Chúng không phải là hiện thực cũng không
phải là Đạo Pháp, nhưng chúng ta cứ bám níu vào đó. Từ chiếc áo bạc màu,
khâu đùm bằng những mảnh vải vụn vứt đi cho đến chiếc áo rạng rở may bằng
lụa và vải quý của ngũ tổ Hoằng Nhẫn, tượng trưng cho Đạo Pháp, cũng chỉ
là những biểu tượng. Ta sống trong một thế giới của biểu tượng, của quy
uớc và công thức. Tất cả đều là những sáng tạo, những biến chế, những tạo
dựng của tâm thức con người. Ngôn ngữ cũng là quy ước, vì thế mà Phật đã
cầm cánh hoa đưa lên nhưng không thốt ra một lời nào cả.
Tâm thức Bát-nhã, siêu việt và nhất nguyên của Phật đã có sẵn
trong tâm thức Giác ngộ của Ma-ha Ca-diếp, tâm thức Giác ngộ của Ma-ha Ca-diếp
đã có sẵn trong tâm thức Bát-nhã, siêu việt và nhất nguyên của Phật. Cánh
hoa chỉ là một biểu tượng, cũng như ngôn từ chỉ là những quy ước. Trong
tâm thức Từ bi, độ lượng và bao dung của một người tu hành đã có sẵn tâm
linh tỉnh thức của một kẻ thế tục, trong tâm linh tỉnh thức của một kẻ thế
tục đã có sẵn tâm thức Từ bi, độ lượng và bao dung của một người tu hành.
Chiếc áo cà-sa chỉ là một biểu tượng trung gian giữa họ mà thôi.
Gỗ đã có sẵn trong cái bàn, trong cái bàn đã có sẵn gỗ. Người
thợ mộc lấy gỗ làm ra cái bàn là một sự sáng tạo của con người. Trong sự
sống đã có sẵn cái chết, trong cái chết đã có sẵn mầm móng của sự sinh.
Phân biệt sự sống và cái chết là hậu quả của sự hiểu biết nhị nguyên và
đối nghịch. Ý nghĩa thêm thắt và đa dạng của chiếc áo cà-sa là
những tạo dựng của tâm thức con người.
Chỉ vì một biểu tượng mà lục tổ Huệ Năng đã suýt chết mấy lần.
Mỗi khi có một biểu tượng được tạo dựng là có sự bám níu vào đó. Một chiếc
áo tượng trưng cho việc lảnh đạo một Tăng đoàn cũng đủ để sinh ra tham
vọng, ganh tị, tranh chấp, huống chi danh vọng, tiền bạc và uy quyền trong
thế gian này. Cũng may, ngũ tổ và lục tổ đã ý thức được việc ấy mà bỏ đi
tục lệ truyền thụ y bát. Nếu không, biết đâu ngày nay, Tăng đoàn vẫn còn
tiếp tục dòm ngó một chiếc áo, kẻ thế tục lại có thêm một dịp để tham dự
nghi lễ truyền thụ mà quên đi những gì thiết thực trong việc tu tập.
Kết
luận
Từ nguyên thủy, chiếc áo cà-sa là những miếng vải vụn,
vải rách bạc màu được khâu lại với nhau để làm áo. Phật và Tăng đoàn của
Phật dùng áo ấy để che thân, để đắp và để gấp lại làm tọa cụ. Chiếc áo ấy
đã biến dạng để tượng trưng những thửa ruộng vuôn vắn của phúc hạnh, để
tiêu biểu cho sự lãnh đạo một Tăng đoàn, để trở thành tấm rakusu
của người tu Thiền, tấm rakusu được kính cẩn đặt lên đầu và lên bàn
thờ.
Tất cả những biến dạng và thêm thắt ấy có phải là những điều
phù phiếm hay không ? Thưa không, những thêm thắt ấy thật cần thiết cho
việc tu tập, tuy không phải là Đạo Pháp nhưng là những cánh hoa của Đạo
Pháp. Ngón tay không phải là Đạo Pháp, nhưng không có ngón tay ta không
thấy được Đạo Pháp. Từ lòng Từ bi của Phật, từ những lời giảng huấn thiết
thực của Phật nở ra muôn hoa, vạn sắc, nở ra trăm triệu trang kinh sách.
Vì thế chiếc ao cà-sa, tuy là một biểu tượng, nhưng thật thiết yếu.
Chiếc áo ấy được mặc lên thân xác của người xuất gia để làm gương cho ta
soi, và được khoác lên tâm thức ta để che chở cho ta. Ta khoác chiếc áo ấy
lên tâm thức để ra đường, ta gấp nó lại để gối đầu trong giấc ngủ. Nó sẽ
che chở cho ta trước những ý tưởng điên rồ, những xúc cảm bấn loạn, những
cơn ác mộng giữa đêm đen.
Phật dạy đừng bám níu, Đạo Pháp cũng chỉ là một chiếc bè giúp
ta qua sông mà thôi. Nhưng nếu không có chiếc bè ta không thể qua sông
được, không có Đạo Pháp ta không thể vượt được dòng thác của Vô minh.
Truờng hợp của chiếc áo cà-sa cũng thế, khi ta còn đang lặn ngụp
trong dòng thác chảy xiết của Vô minh, ta hãy bám níu vào nó. Cuốn
trôi theo dòng nước cuồn cuộn, nếu ta vớt được một cành tre gai góc to
bằng ngón tay, ta đừng vội tưởng đã đến được bờ bên kia của Giác ngộ mà
vứt bỏ nó đi. Ta hãy bám lấy cành tre, tom góp thêm để kết lại làm bè, một
chiếc bè thật lớn, vì có thể những chúng sinh khác đang lặn ngụp bên cạnh
ta và chưa vớt được một cành tre nào. Vậy ta hãy thu nhặt những mảnh vải
vụn trong cõi vô thường này để tự may lấy cho ta một chiếc áo cà-sa.
Tôi xin mượn một lời nguyện cầu của thiền sư Ryokan để chấm
dứt bài viết này. Ông sống trong chốn hiêu quạnh nơi rừng núi hoang vu, có
thể ông cũng chẳng có gì ngoài chiếc am cỏ trống không, một mảnh áo
cà-sa trên vai và một khuôn trăng bền thềm cửa xổ, nhưng tôi nghĩ rằng
tâm thức ông lúc nào cũng muốn dang tay để ôm lấy tất cả chúng sinh. Ông
đã nguyên cầu như sau :
« Tôi nguyện cầu chiếc áo cà sa
của một người tu hành như tôi sẽ trở thành thật rộng lớn để có thể gom lại
và quàng lên thân xác của tất cả chúng sinh đang đau khổ trong cõi vô
thường này…»
Bures-Sur-Yvette (Pháp quốc), 18.04.07
Nguồn:
quangduc@quangduc.com
http://www.buddhismtoday.com/viet/vh/ynghia_casa.htm