- MÙA BÁO ÂN - BÁO HIẾU
- Đức Phương
Giới Phật giáo chúng ta đang
bước vào những ngày lễ Vu-lan, hân hoan chào đón tiết Rằm tháng Bảy
(ÂL), coi đây là một Phật sự quan trọng trong mùa Báo Hiếu Báo Ân, trau
dồi thêm các đức tính của một Tình thương rộng lớn và cao đẹp.
Truyền thống Vu-lan gắn liền với
tập quán lâu đời của dân tộc, mang dấu ấn sâu sắc của tư tưởng đạo
Phật. Trong những ngày này, trong dân gian thường nhắc đến mẩu chuyện
"Mục-Liên Thanh Đề" hay xem đây là những ngày lễ "xá tội
vong nhân" v.v... Đây là truyền thống dân gian, có nhiều mặt tốt đẹp
của nó, người dân thường rất thắm thía với tình thương sâu đậm của
Mục-Liên đối với mẹ và con người cũng cảm thấy giây phút thư thái
trong lòng khi để tâm làm điều thiện, "bố thí" cho người chết,
giải tội và cầu phúc cho người sống.
Với mẩu chuyện "Mục-Liên,
Thanh Đề" không ít người trong giới PG chúng ta còn dùng ở ý nghĩa
"Mục-Liên cứu Mẫu" nhờ có nhiều phép thần thông hay cũng chỉ
tâm niệm theo cách diễn giải của một số Kinh, thuật lại lời Ngài Mục-Liên
bạch Phật là : "Mẫu thân con nhờ công đức Phật và uy thần của mười
phương Tăng nên thoát khỏi khổ địa ngục...". Trong thực tế, sức mạnh
của tình thương và ước vọng bên ngoài cũng góp phần tăng thêm nghị lực
cho bà Thanh Đề trên con đường hối cải. Nhưng bà Thanh Đề được giải
thoát chính nhờ bà đã đổi tâm tham lam thành tâm thanh tịnh. Theo luật
nhân quả nhà Phật, thì dù Mục-Liên có bao nhiêu thần thông phép lạ cũng
không cứu rỗi được mẹ nếu bà không biết cải tà qui chánh.
Với lẽ "xá tội vong
nhân" cũng không ít người trong giới PG chỉ nhìn thấy ở đó công đức
"bố thí" để cầu may cho hiện tại và cầu phúc ở mai sau. Khách
quan mà xét, phong tục này cũng có mang những yếu tố tích cực của một
tình thương với ước vọng "xả ác tòng thiện". Nhưng kinh Phật
không dừng ở tinh thần từ thiện (bố thí vật chất và tinh thần) mà từ
tình cảm thuộc bản năng đó của con người, dẫn dắt đến một bước
thức tỉnh sâu rộng hơn về ý nghĩa của lòng Từ bi trong nhiều mối quan
hệ giữa cuộc sống cộng đồng xã hội qua phương pháp tu dưỡng "Tứ
nhiếp pháp" (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự).
- *
- * *
Mùa Vu-lan năm nay (PL. 2535) đến với
giới Phật giáo chúng ta khi đất nước đang trong quá trình "đổi mới".
Giới Phật giáo cũng cần góp sức mình vào sự nghiệp chung bằng những
việc làm thật sự rất thiết thực, làm tròn nghĩa vụ Phật sự theo một
tinh thần "khế lý" hơn, để được "khế cơ" hơn; xây dựng
một nếp sống tu hành kết hợp nhịp nhàng giữa Đạo và Đời.
Giáo lý nhà Phật đã giáo dục cho
chúng ta bồi dưỡng một lòng Từ bi thực sự xuất phát từ cuộc sống
thực tế của con người giữa thiên nhiên và xã hội với đạo lý Tứ
Ân, được diễn giải theo một trình tự phù hợp với bước phát triển
của tâm lý và tình cảm của mọi con người. Lòng Từ bi (Tình thương)
ở mọi người bắt đầu từ thân đến xa, từ tình thương cha mẹ họ hàng
lan dần đến tình thương trong các mối quan hệ xã hội với thầy bạn,
đồng bào quê hương đất nước và mở rộng đến tình thương cao cả của
con người đối với cuộc sống của nhân loại trên quả đất này. Đạo
Phật xem mùa Vu-lan là mùa Báo Hiếu Tứ Ân.
1. Đạo Hiếu của nhà Phật lấy
tình thương mẹ cha làm khởi điểm, coi hiếu với mẹ cha là đạo hạnh
quan trọng nhất của con người, xác định rõ "Tâm Hiếu là tâm Phật
- hạnh Hiếu là hạnh Phật" và Đức Phật còn chu đáo dạy rằng : phải
thờ "phụ mẫu tại đường như chư Phật tại thế".
Các Kinh diễn giải rất nhiều về
đạo Hiếu. Trong Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, Đức Phật nói : "Ân đức cha
mẹ vô biên, kể không bao giờ cùng". Và trong Kinh Nhẫn Nhục, có lời
Đức Phật dạy rằng : "Cùng tột điều thiện, không gì bằng Hiếu.
Cùng tột điều ác không gì bằng Bất Hiếu" v.v... và các kinh đều nêu
rõ bổn phận làm con phải biết Hiếu kính, Hiếu tâm, Hiếu hạnh, Hiếu dưỡng,
Hiếu đạo với mẹ cha. Đạo Hiếu cũng không phải chỉ là bổn phận
thiêng liêng của con người bình thường mà cũng là điều thọ trì trước
nhất của giới tu hành. Giới Kinh nói rõ : "Hiếu cũng gọi là Giới".
2. Điều đặc biệt đáng chú ý
là cách diễn giải trong các Kinh đều thể hiện nếp nghĩ của Đức Phật,
xuất phát từ những tình cảm thông thường gần gũi nhất của con người
từ tình thương đối với mẹ cha họ hàng thân thuộc trong những mối
quan hệ máu thịt gia đình, mở rộng tình thương đến những phạm vi rộng
lớn hơn. Các Kinh Phật đều xác định rõ rằng : người nào hiếu nghĩa
với mẹ cha, anh em bà con huyết thống thì người đó chắc chắn sẽ có
tình thương trong nhiều mối quan hệ xã hội, sẽ hiếu nghĩa trong tình thầy
trò, trong quan hệ với đồng bào và quê hương đất nước.
Cái ân nghĩa thứ hai là tình thương
và lòng kính trọng trong mối quan hệ thầy trò - những con người đã bỏ
bao nhiêu tâm lực đem lại cho người nguồn sức mạnh về tinh thần và
trí tuệ, trang bị cho tuổi trẻ nhiều bản lĩnh để đi vào cuộc sống
và nhiều năng lực để góp sức mình vào lợi ích xã hội. Và đối với
giới tu hành, chúng ta có một bậc thầy vĩ đại là Đức Phật mà cách
báo ân thiết thực nhất là thực hành đúng Chánh Pháp và làm cho tư tưởng
nhà Phật ngày thêm trong sáng và tăng thêm nguồn sức mạnh.
3. Cái ân nghĩa thứ ba là đối với
đồng bào và quê hương đất nước. Trong mối quan hệ giữa con người và
con người, thực sự có mối ràng buộc có tính chất ân nghĩa : ăn cơm nhờ
người nông phu, mặc áo nhờ người thợ dệt, qua sông nhờ người chèo
đò, đau ốm nhờ người thầy thuốc v.v... Cuộc sống của chúng ta được
an ổn là nhờ sự giúp đỡ qua lại lẫn nhau, cho nên chúng ta có bổn phận
thành tâm xây dựng mối quan hệ trên tinh thần tình thương đoàn kết và
tương trợ lẫn nhau, không được xâm phạm đến lợi ích người khác.
Và trong cuộc sống hôm nay, chúng ta không quên công ơn của "cửu huyền
thất tổ", đã có công khai phá và gầy dựng quê hương, cũng không
quên những anh hùng và chiến sĩ vô danh đã hy sinh xương máu bảo vệ nền
độc lập tự do cho đất nước, để chúng ta có quyền sống một cuộc sống
xứng đáng của con người. Đúng là trong mùa Vu-lan, đốt một nén hương
dâng lên bàn thờ Tổ Tiên cũng là một cử chỉ đạo đức đẹp đẽ
như đặt một bó hoa trên mồ các liệt sĩ, để tưởng nhớ đến công
ơn của những người ân nhân đã khuất.
4. Cái ân nghĩa thứ tư rộng lớn
hơn, đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm cao cả của con người đối với
cuộc sống nhân loại. Đạo Phật là đạo "hiếu sinh", biết ơn và
ra sức bảo vệ cuộc sống của sinh vật, của con người lẫn cả cỏ cây
đều đã đem lại nhiều lợi ích cho ta trong cuộc sống. Hình ảnh Đức
Phật lễ đống xương khô là biểu hiện sự Hiếu kinh, lòng biết ơn và
tấm lòng trân trọng đối với phẩm giá của mọi con người, tỏa ra một
tình cảm tôn kính và thương yêu cao đẹp đối với mọi sức sống trong
hiện tại, quá khứ cũng như tương lai. Và đối với thiên nhiên, Đức Phật
dạy rằng : "Người nghỉ렮hờ dưới bóng
cây cho đến thời gian ngắn, cẩn thận chớ bẻ hoa" (Kinh Ưu-bà-tắc),
vì phải biết ơn cỏ cây đã có công che mát cho ta. Thời Đức Phật,
chưa có những "lò sát sinh" bằng điện, nạn "diệt chủng"
hay bom hạt nhân, nhưng Đức Phật đã có thái độ rõ ràng là cần tôn trọng
mọi sự sống. Thời Đức Phật cũng chưa có hiểm họa phá rừng hay tùy
tiện làm ô nhiễm các môi trường sống của sinh vật và con người tràn
lan trong khí quyển hay trong lòng biển v.v... Nhưng Đức Phật có thái độ
rõ ràng phải bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi sinh. Đúng đây là cách
nhìn sáng suốt và xa rộng, thể hiện đúng lý tưởng của nhà Phật thực
sự vì cuộc sống an vui và hạnh phúc của con người trong các mối quan hệ
hiện thực với thiên nhiên xã hội.
- *
- * *
Hiếu Ân, trong ý nghĩa mở rộng có
cùng một đối tượng thực hiện là hướng về người thân, cha mẹ, đất
nước, nhân dân, chúng sinh, vũ trụ, đấy là môi trường sống của chúng
sanh gồm cả mặt tâm linh nữa. Hiếu Ân còn có chung cái động cơ thúc đẩy
là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Bốn cái tâm vô lượng này khiến chúng ta sống hài
hòa với xã hội, với thiên nhiên, khiến chúng ta thực hiện có hiệu quả
việc tu tập Thiền định, vô ngã, tiến đến hạnh phúc chân thực, miên
trường. Từ kinh và Tập kinh đều nêu hai câu kệ :
"Mong sao tất cả chúng sinh đều
thấy an lạc !"
"Mong sao tất cả chúng sinh đều
đạt niềm vui tự nội !"
Trong ý nghĩa ấy, trong mùa Vu-lan,
chúng ta nghĩ đến cha mẹ trong đời này, trong các đời trước, nghĩ đến
tất cả chúng sanh, mong sẽ không còn cảnh khổ "bị treo ngược"
như trong ý nghĩa của từ Vu-lan hay Ulambana vậy.
Computer Typesetting : Hải Hạnh
http://www.buddhismtoday.com/viet/vulan/006-ducphuong-muabaoan.htm