...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Chữ hiếu và tình người
- TT. Chơn Thiện *
Phật tử Việt Nam có ngày truyền thống báo hiếu vào rằm
tháng bảy hằng năm. Đó là một ngày kết thúc một mùa hạ tu tập trí
tuệ và từ bi vô ngã của chư Tăng và Phật tử. Chúng tôi gọi ngày hiếu
truyền thống ấy là ngày đẹp nhất của nghĩa sống, tình người. Bởi vì
trong ngày hôm ấy con tim nói lên tiếng nói đích thực của nó, tiếng nói
mà trần gian mong tìm. Thật là ý nghĩa, mùa giải thoát của chư Tăng lại
kết thúc với sự mở đầu của tiếng nói ấy. Bước đầu tiên đi ra khỏi
phiền não lại là bước đầu tiên đi vào tình người và nghĩa sống thiêng
liêng của con người.
Như con tim nắm giữ sinh mệnh một cơ thể, thì người ta
nắm giữ sinh mệnh của nghĩa sống, là linh hồn của văn hóa nhân loại.
Có thể nào có một nền văn hóa con người mà không ca ngợi tình người
mở đầu là tình mẹ con, cha con ?
Ở nước ta, hai dòng văn học la dân gian và trí thức đều
nhiệt tình ca ngợi hiếu đức. Người mẹ đã nuôi dưỡng, ấp ủ con từ
đầu nguồn cuộc sống bằng cả tinh thần và thể chất của mình, với sự
chia xẻ trách nhiệm ân cần dạy dỗ của người cha. Người mẹ đã truyền
cho con những dòng sữa ngọt ngào với trọn tình yêu thương : đã mớm
cháo cơm với tâm tư trìu mến, cho con từng cử chỉ âu yếm, từng ánh mắt
khích lệ, cho con những lời ru tình người ướp vào tâm hồn trong trắng
từ thuở còn nằm nôi, đã dìu dắt từng bước đi, từng ngày học cho đến
khi khôn lớn. Hầu như toàn bộ hành trang vào đời của người con là thuộc
về bố mẹ. Tình sâu nghĩa nặng đó đã được nhân dân ta cảm nhận
sâu sắc và đã hát thành những lời ca dao của truyền thống "uống nước
nhớ nguồn" của dân tộc. Như là :
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người ta phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.
v.v...
Đó là gia tài tình người mà bố mẹ đã trao cho người
con từ đầu nguồn cuộc sống
Các ý thức về các mối liên hệ tình người khác đều nảy mầm từ tình
phụ tử và mẫu tử.. Các ý thức về trách nhiệm, bổn phận, lương tâm,
vị tha và công bằng hẳn là đượđánh thức dậy từ thái độ biết
ơn, đáp đền các ân nghĩa của cuộc sống mà khởi đầu là đáp đền
ân nghĩa mẹ cha. Lớn lên, khi nhận thức và kinh nghiệm sống trưởng thành,
người con nhận rõ ra tình thương cha mẹ không phải chỉ là ân nghĩa lớn
mà còn là lẽ sống của mình. Ca dao lại hát :
Con có cha như nhà có nóc,
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Còn cha còn mẹ thì hơn,
Không cha không mẹ như đàn đứt dây.
Vì ân nghĩa mẹ cha là lẽ sống, là cao quý, thiêng liêng,
nên nhân dân Việt Nam xem việc hiếu thảo có giá trị ngang bằng với giải
thoát tự thân :
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha, kính mẹ cũng là đi tu.
Hàng trí thức dân tộc cũng đề cao hiếu thảo như thi hào
Nguyễn Du và nhà trí sĩ Nguyễn Trãi. Thi hào Nguyễn Du đã đặt nàng Kiều
trước một sự chọn lựa nghĩa sống giữa lòng hiếu kính đối với mẹ
cha và cuộc đời tình cảm lứa đôi nhiều hứa hẹn hạnh phúc của
nàng, thành hôn với Kim Trọng. Nàng đã quyết định vì chữ hiếu mà bán
mình chuộc cha, một chọn lựa nói lên nét truyền thống đặt nặng hiếu
đức của dân tộc. Nguyễn Trãi thì giáo dục tình người mở đầu là đạo
hiếu rằng :
Cù lao đội đức cao dày,
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc,
Xem cháo. cơm, thang thuốc mọi bề.
Ra vào thăm hỏi thường khi,
Người đà vô sự ta thì an tâm.
(Gia Huấn Ca, Tân Việt, 1953, tr. 14)
Truyền thống tình người, đạo đức của dân tộc Việt
Nam là thế. Phương chi khi Phật giáo, với giáo lý đầy từ bi, nhân ái,
xem trọng chữ hiếu đặt chân lên xứ sở nầy, liền được nhân dân ta
chấp nhận, và đã chung sống gắn bó với dân tộc trên suốt cuộc hành
trình gần hai mươi thế kỷ.
Phật giáo đã dạy những gì về hiếu đạo ?
- Kinh Phân Biệt (Bắc tạng) ghi :
"Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn nay mới thành Phật, toàn là công ơn
của cha mẹ ta. Vậy nên, người muốn học đạo không thể không tinh tấn
hiếu với mẹ cha.
- Kinh Nhẫn Nhục ghi :
"Điều thiện tối cao là chí hiếu, điều ác tối cao là bất hiếu".
- Kinh Tăng Chi I, trang 75, ghi :
"Có hai hạng người, này các Tỳ Kheo, Ta nói không thể trả ơn được
: Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, làm vậy suốt
đời, vứa đấm bóp vừa hầu hạ... cũng chưa làm đủ để đáp đền
ơn mẹ cha".
- Kinh Đảnh Lễ Sáu Phương, Trường Bộ I, gọi mối liên
hệ giữa mẹ cha và con cái là mối liên hệ thiêng liêng đáng được tôn
kính, đảnh lễ. Người con có bổn phận đáp đền bằng những việc làm
thiết thực như :
- Vâng lời cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ khi cần.
- Chăm chỉ học hành, siêng năng làm việc.
- Giữ gìn gia phong, danh dự gia đình.
- Giữ gìn tài sản của cha mẹ.
- Phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già.
- Lo tang lễ cha mẹ đúng phong tục, khi cha mẹ mất.
- Khích lệ và giới thiệu đạo giải thoát, chánh kiến đến cha mẹ.
Kinh Hạnh Phúc (Nam tạng) ghi :
"Phụng dưỡng mẹ và cha là vận may tối thượng"
Truyền thống giáo lý Nam truyền và Bắc truyền đều xếp tội ác giết
cha, giết mẹ vào năm tội lớn nhất đời gọi là năm "cực trọng tội"
hay "ngũ nghịch tội".
Như thế, tâm hiếu là tâm tu căꮠbản, từ đó các tâm thiện và tâm giải
thoát phát triển, nhất là đối với hàng Phật tử tại gia.
Thật hiển nhiên rằng một người không hiếu kính đối với
mẹ cha thì khó có thể là một người cư xử đầy tình người đối với
những người khác, đối với nhân quần ,xã hội. Hiếu hạnh rõ là đức
hạnh đứng hàng đầu của những đức hạnh của con người.
Từ tâm hiếu thảo, tình người được giáo dục và nuôi dưỡng. Trong thể
nghiệm đời sống hiện thực, tình người ấy thể hiện qua người bạn
đời chí thiết gọi là tình, qua anh chị em ruột gọi là lễ, qua bà con,
mọi người gọi là nghĩa và nhân, qua xứ sở gọi là trung. Cũng từ tình
người đẹp đẽ ấy mà có tình cảm quốc tế và tình yêu cuộc sống.
Khi tình cảm ấy biểu lộ ra hành vi để xây dựng tốt các mối tương
giao xã hội, xây dựng an lạc, hạnh phúc cho gia đình, tập thể thì gọi
là hành vi đạo đ 馣7913;c. Nội dung của đạo
đức đúng là tình người chân thật đó. Con suối tình người ấy chảy
vào văn hóa, giáo dục tạo nên các nền văn hóa, giáo dục nhân bản.
Trong nền văn hóa nhân bản nầy không có mâu thuẫn từ thực chất của
hiếu, tình, trung, nghĩa, bởi vì thực chất của hiếu, tình, trung, nghĩa
chỉ là cùng một tình người cao đẹp ấy. Ngườ詠có mặt tâm hiếu, là có nhân, có tình, trung, nghĩa.
Như tâm hiếu của Kiều chính là tấm lòng trinh bạch của nàng mà bụi bặm
của mười lăm năm đoạn trườ讧 cũng không
thể làm hoen ố. Vì thế mà thi hào Nguyễn Du viết :
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay.
Và, vì thế mà cụ Nguyễn Phi Khanh đã dạy tiên sinh Nguyễn
Trãi khi theo chân Cụ khóc lóc trên đường Cụ bị áp tải ra Bắc Hà rằng
:
"Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả
thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Mựa là cứ phải đi theo cha khóc
lóc như đàn bà mới là hiếu sao". (Nguyễn Trãi Toàn Tập, Hà Nội,
1976, tr. 14)
Ngày nay xã hội ta nói là "hiếu với dân, trung với nước".
Quan niệm như thế là có giá trị nhân bản hơn các giá trị có tính cách
ước lệ khác về hiếu, trung, tình, nghĩa - cái giá trị ước lệ đẩy
đưa con người trong nhiều trường hợp đến các mâu thuẫn bế tắc, để
rồi kết thúc bằng các hình thức tự vận đầy bi thương.
Nay chúng ta thử tìm hiểu chữ hiếu trong Phật giáo đã
có những cống hiến nào khác cho dân tộc ta, và mở ra những phương trời
mới nào ?
Về mặt ơn nghĩa mẹ cha, ngoài các công ơn mà xã hội ghi
nhận, Phật giáo còn ghi nhận thêm một ơn nghĩa lớn khác : Cha mẹ đã
đưa con vào đời, nhờ đó mà người con có nhân duyên học đạo, hiểu
đạo và hành đạo giải thoát khổ.
Về mặt đáp đền, ngoài những trách nhiệm, bổn phận
làm con mà người đời ghi nhận, Phật giáo còn ghi nhận thêm một trách
nhiệm, bổn phận quan trọng khác : Giới thiệu Chánh pháp đến với mẹ
cha, giúp mẹ cha đi ra khỏi hết mọi thứ khổ đau.
Đức Phật dạy :
"Những ai đền ơn cha mẹbằng cách nuôi dưỡng dâng cúng với của cải
vật chất tiền bạc thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ.
Nhưng này các Tỳ Kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam Bảo thì
khuyến khích cho có lòng tin Tam Bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì
khuyến khích vào chánh giới, đối với cha mẹ sinh khởi tham, thì khuyến
khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì khuyến khích vào chánh kiến,
cho đến như vậy, này các Tỳ Kheo, là làm đủ và đáp ơn đủ cho mẹ và
cha".
(Tăng Chi I, tr. 75)
Như thế, ở đây hiếu hạnh có cùng hướng đi với giải
thoát của chánh pháp.
Tại sao việc đem chánh kiến, chánh tín đến cho me,ha lại có thể đáp
đền ơn nghĩa nặng ấy ?
Tại đây, Phật giáo mở ra một hướng nhận thức mới
cho đời. Không ai có thể phủ nhận rằng mọi người đều có khát vọng
hạnh phúc, và sống là đi tìm hạnh phúc tại trần gian.
Nhưng hầu như hạnh phúc luôn luôn ở ngoài tầm tay của
con người. Trước cuộc biến dịch, vô thường, nỗi khổ của bệnh, già,
chết vẫn còn đó. Người con không thể bằng các phương tiện vật chất
mà có thể đem lại cho cha mẹ an vui và hạnh phúc, ngoại trừ Chánh pháp.
Chỉ có Chánh pháp, trí tuệ mới giúp cha mẹ xa lìa tham, sân, si, tác nhân
của mọi phiền não khổ đau. Chỉ có Chánh pháp chỉ rõ gốc của khổ
đau là chính các niệm tưởng hữu ngã trong tâm mình để loại bỏ. Chỉ
có Chánh pháp mới cống hiến cho cha mẹ một nếp sống đạo đức an trú
vững chắc với giới đức, và tuệ đức, từng bước đi ra khỏi khổ
đau và từng bước đi vào hạnh phúc của tâm hồn trong hiện tại và tại
đây. Đem lại cho cha mẹ con đường vào hạnh phúc lâu dài như thế mới
thật là chí hiếu. Hạnh phúc ấy là kết quả của nỗ lực loại trừ
tâm chấp ngã, vị kỷ, đó là con đường sống vị tha, vô ngã, con đường
sống hạnh phúc của tha nhân, gia đình và xã hội. Bằng con đường nầy,
qua kinh nghiệm, con người sẽ khám phá ra rằng :
- Hạnh phúc là mục tiêu cao thượng ở đời.
- Con đường sống đạo đức là con đường dẫn tới hạnh phúc cho mình
và người trong từng bước đi, hay chính đạo đức ấy là hạnh phúc.
- Hạnh phúc đồng nghĩa với vị tha vô ngã, do đó bổn phận trách nhiệm
đối với hạnh phúc tự thân trở thành bổn phận, trách nhiệm đối với
hạnh phúc của tha nhân, tập thể, nhân quần và xã hội. Phạm vi hoạt động
vị tha càng lớn, càng đem lại nhiều hạnh phúc và hạnh phúc lâu dài.
Khi lòng vị tha mở rộng đến mọi người thì bấy giờ hạnh phúc của
ta chính là hạnh phúc của mọi người, và ngược lại hạnh phúc của mọi
người chính là hạnh phúc của chính ta. Tại đây, không có mâu thuẫn giữa
cá nhân và tập thể hay giữa tập thể với cá nhân.
Quan niệm về chữ Hiếu và tình Người như thế sẽ dẫn
đến một thái độ sống của người Phật tử xem bổn phận đối với
gia đình xã hội, quốc gia là bổn phận đối với tự thân và hạnh phúc
của tự thân. Đây chính là điều mà các nhà đạo đức đang tìm đến.
Cái nhìn từ bi vô ngã và trí tuệ vô ngã của Phật giáo như thế đã tiếp
thêm sức sống cho con tim dân tộc và khơi nguồn thêm cho dòng thác nhân bản
của dân tộc Việt Nam chảy mạnh vào nghĩa sống vô cùng.
Chúng ta có thể tạm ngưng ngang đây để kết luận rằng
Phật giáo Việt Nam và dân tộc Việt Nam có chung một hướng nhìn của con
tim mở đầu là lòng hiếu thảo. Hai thực thể lịch sử ấy sẽ có điều
kiện để tiếp tục gắn bó suốt dòng lịch sử lâu dài.
Ngày nay, có nhiều ý kiến cho rằng con người đang đi vào thế kỷ của văn
minh đạo đức và tình người, sau khi đã thể nghiệm các hậu quả đầy
tác hại của hận thù, áp bức và hệ quả chiến tranh của chúng. Vào thế
kỷ thứ ba trước Tây lịch, Aristote - một triết gia Hy Lạp đã nói :
"Hạnh phúc là sự pháp triển hoàn toàn đầy đủ các
đ 馣7913;c tính của con người" (A story of
Philosophy, by Will Durant, bản dịch Tủ Thư Vạn Hạnh, 1971, tr. 18).
Đến thế kỷ mười bảy, Tây lịch, Spinoza - triết gia Do
Thái - viết :
"Hạnh phúc là mục đích của mọi hành động ..." (Ilid, tr. 228)
Banzeladze, một nhà đạo đức người Nga, 1973, viết :
"Vấn đề về lý tưởng tối cao và ý nghĩa của cuộc sống thực chất
là vấn đề hạnh phúc"
(Bản dịch, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1985 - tr. 232)
Các quan niệm trên đều nhuốm màu nhân bản. Nhưng đấy
cũng mới chỉ là những tư tưởng chưa phải là con đường thể nghiệm hạnh
phúc trong hiện tại. Phật giáo, với toàn thể giáo lý nhằm đoạn tận
khổ đau, là con đường sống từng bước dẫn đến hạnh phúc, đi từng
bước đi hạnh phúc của tình người hướng đến vô hạn. Phật giáo hé
mở cho thời đại thấy con đường đạo đức mà thời đại mong chờ.
Điểm mong chờ thứ nhất là gốc người (nhân bản) :
- Đức Phật khuyên con người "trở về nương tựa mình, nương tựa
Pháp, không nương tựa một nơi nào khác" (Dhp, XII, tr. 4)
Điểm mong chờ thứ hai là tình thương :
- Đức Phật dạy, "Ta ra đời vì an lạc, lợi ích cho Chư Thiên và
loài Người, vì lòng
thương tưởng đời" (trong nhiều kinh)
Điểm mong chờ thứ ba là chỉ hướng sống đi vào hạnh
phúc ngay trong hiện tại, tại đây :
Đức Phật đã chỉ rõ gốc của mọi phiền não, khổ đau
là tham, sân và si. Mà tham, sân và si khởi dậy từ lòng chấp thủ các
ngã tướng, nên con đường đi vào hạnh phúc là con đường dập tắt các
ngã tướng. Kết quả đó con người có đủ điều kiện để thực hiện
ngay trong hiện tại và tại đây. Con người hoàn toàn chịu trách nhiệm
cho chính tự thân trong việc thực hiện con đường, mà không do một đấng
thiêng liêng nào can thiệp vào.
Điểm mong chờ thứ tư là tôn trọng sự sống của mọi
loài chúng sinh và xây dựng hòa bình, an lạc cho thế giới :
Pháp tu tập bố thí và trì giới của Phật giáo được xây
dựng trên căn bản lòng từ bi, bảo vệ sự sống cho các loài hữu tình.
Bàng bạc khắp kinh tạng Phật giáo, không có lời dạy nào của Đức Phật
đi lệt ra ngoài mục tiêu ấy. Bài kệ tóm tắt về giáo lý Phật giáo
nêu rõ mục đích ấy rằng :
Từ bỏ các điều ác,
Làm tất cả điều lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Là lời chư Phật dạy.
(Dhp. 183)
Từ bỏ các điều ác là ý nghĩa rời xa tham ái và sân hận,
bởi động cơ của các hành động ác hại là tham ái, sân hận và si mê.
Đây cũng là nội dung của đạo đức Phật giáo.
Làm tất cả điều lành là ý nghĩa xây dựng an lạc, hạnh
phúc cho mình và mọi người, là nuôi dưỡng lòng không tham ái. lòng từ
bi. Ở đây, đạo đức được biểu hiện ở cấp độ cao hơn, tích cực
hơn.
Giữ tâm ý thanh tịnh là ý nghĩa thiết lập vững chắc an
lạc, hạnh phúc, giải thoát cho tự thân và cho tha nhân. Đây là nội dung
của định học và tuệ học của Phật giáo.
Nếu hiểu tình người, lòng nhân ái, vị tha, từ bi, hạnh phúc chân thật
và trí tuệ là nội dung của đạo đức, thì toàn bộ giáo lý Phật giáo
là một hệ thống đạo đức rất là nhân bản và rất là hiện thực.
Như thế Phật giáo là một con đường sống nhân bản đích
thực. phát triển giá trị nhân bản đến vô hạn và toàn vẹn. Phật
giáo không đi vào một hư tưởng nào. Giá trị nhân bản ấy cũng được
nhân dân ta ca ngợi :
Dầu xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người.
(Truyện Kiều, Quan Âm Thị Kính va Ca dao Việt Nam)
Thương người như thể thương thân.
(Gia Huấn Ca, Nguyễn Trãi)
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
(Ca dao Việt Nam)
Chừng nào con người còn khát vọng hạnh phúc, chừng đó
tình người và đạo đức nhân bản còn là giá trị chuẩn, và các giá trị
khác phải xoay xung quanh nó; chừng đó giáo lý từ bi, vô ngã, vị tha của
Phật giáo còn rực sáng ở đời, dựng xây niềm tin cho đời, và ngày Vu
Lan - ngày hiếu - truyền thống phải là ngày rất đẹp, rất đáng trân trọng
: điều thiện sẽ ngự trái tim, và trái tim có trí tuệ sẽ ngự trị văꮠhóa
trên trái đất.
- * Bài viết nguyên thủy
đăng trên tập văn GHGPVN với bút hiệu là Tâm Ngộ.
- Chúng tôi đề lại pháp danh của thượng
tọa để bạn đọc dễ biết. ĐPNN, 15-7-2000
|
|