- Quan niệm về chữ hiếu của dân tộc Việt
Nam
- (Trích từ Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thời Lý
Nam Đế)
- Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Về tư tưởng hiếu đạo, tối thiểu cứ vào cuộc tranh
luận do Mâu Tử lý hoặc luận ghi lại xung quanh truyện Thái tử Tu Đại
Noa và căn cứ vào chính truyện Tu Đại Noa, trong Lục độ tập kinh 2, ĐTK
152 tờ 8b7, ta biết có sự khác biệt cơ bản giữ tư tưởng hiếu đạo của
người Việt Nam và hiếu đạo của người Trung Quốc. Hiếu đạo của
người Trung Quốc theo câu mở đầu của Hiếu kinh là: "Thân thể tóc
da, nhận từ cha mẹ, không dám tổn thương đó là khởi đầu cuả hiếu.
Lập thân hành đạo, dương danh với hậu thế, đó là kết cục của hiếu".
(Thân thể phát phu, thọ chi phu mẫu, bất cảm tổn thương, hiếu chi thủy.
Lập thân hành đạo, dương danh ư hậu thế, hiếu chi chung).
Người vấn nạn nơi điều 9 trong Mâu Tử lý hoặc luận cũng
dựa vào lý lẽ trên bài bác Mâu Tử, thì Mâu Tử chỉ ngay: "Thái Bá
cắt tóc, vẽ mình, tự theo tục của Ngô việt, trái với nghĩa thân thể
tóc da; vậy mà Khổng Tử ca tụng, cho có thể gọi là chí đức [...] Dự
Nhượng nuốt than, sơn mình. Nhiếp Chính lột mặt, tự vẫn. Bá Cơ dẫm lửa,
hạnh cao cắt mặt. Quân tử cho là dũng và chết vì nghĩa. không nghe ai
chê là tự hủy hết".
Lại nữa, một quan niệm đạo hiếu như trong Hiếu kinh
như thế không thể nào phù hợp với ngay chính tập tục sống rất phổ
biến cuả người Việt Nam vào thời Hùng Vương mà Tiền Hán thư 28 hạ tờ
31a5-12 đã ghi lại: "Đất Việt (...) nay là Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp
Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam, đều là phần của Việt...
xâm mình cắt tóc để tránh hại của giao long"
Nhan Sư Cổ (581-645) dẫn Ứng Thiệu (khoảng 130-190) giải
thích tục xâm mình cắt tóc của người Việt, nói: "Thường ở trong
nước, nên cắt tóc xâm mình, cho giống với con rồng, để không bị thương
hại".
Tục cắt tóc xâm mình của người Việt như vậy xuất hiện
rất sớm, từ thế kỷ trước Dương lịch người Trung Quốc đã biết đến
và ghi lại, để cho sau này Ban Cố (32-92 sdl) chép vào Tiền Hán thư. Một
khi tục cắt tóc xâm mình đã phổ biến như thế, thì ngay câu đầu của
thuyết hiếu đạo Trung Quốc nghe đã không lọt tai đối với người Việt.
Người Việt làm sao giữ hiếu đạo được theo Hiếu kinh nếu họ đã cắt
tóc xâm mình? Từ thực tế đó, bắt buộc người Việt phải có một đạo
hiếu khác với đạo hiếu của người Trung Quốc. Và đạo hiếu này được
công bố rõ ràng trong kinh Tu Đại Noa của Lục độ tập kinh 2. ĐTK 152 tờ
8b7; "Giúp nghèo cứu thiếu, thương nuôi quần sinh, là đứng đầu của
hạnh? (Chẩn cùng tế phạp, từ dục quần sinh, vi hạnh chi nguyên thủ).
Khi xác định đứng đầu mọi hạnh (hạnh chi nguyên thủ)
là việc "giúp nghèo cứu thiếu thương nuôi quần sanh", thì đây
là một định nghĩa hoàn toàn mới về chữ hiếu, bởi vì theo Đỗ Khâm
trong Tiền Han thư 60 tờ 9a12 thì "hiếu đứng đầu mọi hạnh của con
người" (hiếu, nhân hạnh chi sở tiên), và đây cũng là ý chính của
Hiếu kinh, mà Tiền Hán thư 71 tờ 9a9-10 đã dẫn: "Hiếu kinh
nói:"Tính của trời đất, con ngưòi là quí. Hạnh con người không gì
lớn hơn hiếu".
Nội dung đạo hiếu của người Việt Nam thời tiền Phật
giáo như hoàn toàn khác hẳn đạo hiếu của người Trung Quốc. Cần nhớ
là chữ hiếu trong tiếng Phạn không có một từ tương đương với chữ
hiếu cuả tiếng Hán. Từ một nội dung chữ hiếu như thế, ta mới thấy
Lục độ tập kinh 5 ĐTK 152 tờ 28a22-24, truyện 49, đã lên tiếng phê phán
đạo hiếu của người Trung Quốc: "Tôi ở đời lâu năm, tuy thấy Nho
sĩ tích đức làm lành, há có ai như đệ tử Phật quên mình cứu người,
âm thầm mà không nêu danh ư?" (Xử thế hữu niên, tuy độ Nho sĩ tích
đức vi thiện, khởi hữu nhược Phật đệ tử, thứ kỷ tế chúng ẩn xứ
nhi bất dương danh dã hồ?).
Hai thành tố chính của đạo hiếu Trung Quốc là "thân
thể tóc da không dám tổn thương" và "lập thân hành đạo, nêu
tên với hậu thế" từ đó đã bị khái niệm đạo hiếu của người
Việt Nam phản bác. Và không chỉ hai thành tố này cuả Hiếu kinh bị phê
phán, một quan niệm khác do Mạnh Tử nêu lên, đó là "bất hiếu có
ba, không người nối dõi là lớn nhất" (bất hiếu hữu tam vô hậu vi
đại) cũng bị Lục độ tập kinh ở truyện 86, tờ 48a7-10, mạnh mẽ phê
phán: "Người đạo cao thì đức rộng. Ta muốn cái đạo vô dục, đạo
đó mới quí. Đem đạo truyền cho thần, đem đức trao cho thánh, thần
thanh truyền nhau cái sự giáo hóa vĩ đại không hư nát, đó mới gọi là
sự nối dõi tốt lành. Nay người muốn lấp nguồn đạo, chặt gốc đức,
thì không đáng gọi là kẻ vô hậu ư?" (Đạo cao giả quyết đức thâm,
ngô dục vô dục chi đạo, quyết dục trân hỉ. Dĩ đạo truyền thần, dĩ
đức thọ thánh, thần thánh tương truyền ảnh hóa bất hủ, khả vị lương
tự giả hồ! Nhữ dục điền đạo chi nguyên phạt đức chi căn, khả vị
vô hậu giả hồ!).
Vấn đề vô hậu của đạo hiếu từ bình diện sinh lý đã
chuyển sang bình diện đạo đức và học thuật, không nhất thiết phải
có sự thừa tự về mặt sinh vật học mới gọi là hiếu, đạo hiếu
theo quan niệm của Mạnh Tử, mà còn có một lối thừa tự khác, sự nối
dõi khác, nối dõi về chân lý, nối dõi về học thuật, nối dõi về đạo
đức. Quan niệm nối dõi này cuả ngưòi Việt thời kỳ tiền Phật Giáo
hoàn toàn phù hợp với quan niệm thừa tự Pháp của Phật giáo.
Nhưng không chỉ có thế, quan niệm nối dõi này mang hai đặc
tính cần lưu ý trong cuộc đấu tranh để giữ gìn nòi giống của người
Việt. Thứ nhất, để bảo vệ sự tồn tại như một dân tộc, người Việt
phải xác định mình có một nền văn hóa, một nền đạo đức học thuật
cần phải nối dõi, cần phải bảo vệ mà nếu không nối dõi được thì
dân tộc không thể tồn tại với tư cách là một dân tộc được. Xuất
phát từ quan điểm nối dõi như thế, người Việt không đi đến một chủ
nghĩa nối dõi cực đoan, như sự nối dõi về mặt sinh vật học của chủ
nghĩa ưu sinh (eugenics) hiện đại, gây tác hại và tốn bao sinh mạng đối
với những dân tộc khác. Bảo vệ nền văn hóa của mình, bảo vệ lối sống
(hạnh) của mình, người Việt sẵn sàng mở rộng đôi tay đón nhận những
người từ dân tộc khác đến sống chung trở thành một bộ phận của
dân tộc mình.
Đây là đặc điểm thứ hai của quan niệm thừa tự của
người Việt tiền Phật giáo. Họ có quan niệm như thế cũng phải thôi, bởi
vì địa bàn sinh tồn của họ, cụ thể là vùng trung du và đồng bằng Bắc
bộ vào thời xa xưa đã tồn tại những dân tộc khác. Cho nên, những giao
lưu về huyết thống giữa các dân tộc khác nhau tất phải xảy ra. Do đó,
nếu chỉ dựa vào sự nối dõi theo quan điểm sinh vật học, thì người
Việt đã không phát triển và hình thành được một cộng đồng dân tộc
thuần nhất. Họ phải dựa vào một quan điểm khác để có sự thuần nhất
ấy, đó là, sự thuần nhất về mặt văn hóa và lối sống.
Trong bối cảnh của một nền chính trị, kinh tế và văn hóa
như thế, đã nổi bật lên một số tư tưởng, tín ngưỡng của người
Việt đời Hùng Vương mà ngày nay ta còn tìm thấy trong các thư tịch cổ
và được chứng thực một phần nào bởi các di liệu khảo cổ học.