- Vu Lan: Về lòng
Hiếu Thảo
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới
luật cho hàng tu sĩ là:
- Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa
hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài, mà phải
trú tại một tự viện để tích cực tu học. Nếu có chuyện cần thiết,
chỉ được phép xuất viện trong thời hạn không quá 7 ngày, rồi phải trở
về chùa.
Đó là nguồn gốc của việc
"An cư Kiết hạ". Theo lịch của Ấn Độ, thời gian đó bắt đầu
từ ngày 16 tháng 6 âm lịch, cho đến ngày rằm tháng 9 âm lịch. Thời gian
An cư Kiết hạ nầy vẫn được chư tăng Nam Tông (Thái, Miên, Miến, Lào,
Tích Lan) tôn trọng cho đến ngày nay.
Nhưng khi Phật giáo truyền sang
Trung Hoa, theo luật Tứ phần và lịch Tàu, mùa An cư lại được ấn định
là từ ngày 16 tháng 4 âm lịch (tức là sau ngày Phật Đản) cho đến ngày
15 tháng 7 âm lịch. Đó là truyền thống của Bắc Tông (Tàu, Việt, Nhật,
Cao Ly).
Đến ngày cuối cùng của mùa An cư,
chư Tăng họp lại, kiểm điểm thành quả, và tụng sám hối nếu có phạm
lỗi gì đó trong 3 tháng Hạ -- thể thức lễ Tự Tứ, rồi chia tay, xuất
viện để đi hoằng pháp khắp nơi . Đây là luật chung của chư Tăng; Nam
Tông (rằm tháng 9) và Bắc Tông (rằm tháng 7) đều có Lễ Tự Tứ này.
Lễ Vu Lan là dựa theo sự tích
trong kinh Vu Lan Bồn (phiên âm của chữ Ullambana) trong Hán tạng của
Phật giáo Bắc truyền. Ngài Mục Kiền Liên, đại đệ tử của Đức Phật,
có nhiều thần thông, bay đi tìm mẹ và thấy bà đang ở Địa ngục khổ
sở, do kết quả của các ác nghiệp của bà . Đức Phật dạy rằng nếu
muốn cứu giúp bà, phải cầu xin oai lực của tất cả chư Tăng trong ngày
Tự Tứ cùng nhau tụng kinh, hồi hướng phước báu đến cho bà.
Dựa theo sự tích này, người cư
sĩ Bắc Tông thường đến chùa vào ngày Tự Tứ - tức là ngày rằm tháng
7 âm lịch, cúng dường, và xin chư Tăng giúp trì tụng, hồi hướng phước
báu đến ông bà cha mẹ, cửu huyền thất tổ của mình, những người thân
đã qua đời. Đó là nguồn gốc của Lễ Vu Lan.
Ngày nay, đối với người Việt chúng
ta, đa số chịu ảnh hưởng của kinh điển Phật giáo Trung Hoa, lễ Vu Lan
vào ngày rằm tháng bảy âm lịch mỗi năm đã trở lễ truyền thống báo
hiếu của những người con hiếu thảo, chân thành tưởng nhớ đến công
ơn nuôi dưỡng của Cha Mẹ - còn sống cũng như đã qua đời - và cố gắng
tận lực để đền đáp công ơn đó, qua việc phụng dưỡng cha mẹ và thực
hành các thiện sự.
*
Trong kinh tạng Nguyên thủy của hệ
Pali, cũng có nhiều bài giảng của Ðức Phật đến các đệ tử, để giúp
họ giữ gìn mối hòa thuận trong gia đình, để cùng nhau tăng trưởng
trong chánh pháp. Ở đây, chúng tôi xin mạn phép được trình bày một vài
đoạn ngắn trong kinh điển Pali, nói về chữ Hiếu mà Ðức Phật đã giảng
cho hàng đệ tử.
Trong Tương Ưng Bộ, Ðức Phật giảng
rằng sữa mẹ nuôi con trải qua nhiều đời nhiều kiếp, nên rộng bao la
và nhiều hơn biển cả:
"Nầy các Tỳ-khưu, sữa mẹ
mà các ngươi đã uống, trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một
thời gian dài, thì nhiều hơn nước trong bốn biển. Vì sao thế? Vì luân hồi
là vô thỉ, không sao đếm được. Lưu chuyển luân hồi của chúng sanh
trùng điệp nên không thể nêu rõ khởi điểm. Vì vô minh che đậy, vì
tham ái trói buộc tất cả các nghiệp hành của chúng sanh."
Trong Tăng Chi Bộ, Ðức Phật cũng
ví cha mẹ như những ngọn lửa đáng cung kính, vì cha mẹ là người đã
đem lại sự sống và tăng trưởng cho con cái, cũng như ngọn lửa đem lại
nguồn sống, nguồn năng lượng cho loài người:
"Nầy các Bà-la-môn, cha mẹ
của các người là các ngọn lửa đáng cung kính. Vì sao thế? Vì từ đó
mà tạo ra sự sống, sự hiện hữu. Do đó, cha mẹ như là các ngọn lửa
thiêng đáng cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, và
sẽ đem lại chánh lạc"
Vì công ơn cha mẹ to tát như thế,
Ðức Phật còn nói rằng có hai hạng người mà chúng ta không bao giờ trả
hết ơn được, đó là mẹ và cha, như đã ghi trong Tăng Chi Bộ:
"Có hai hạng người, nầy các
Tỳ-khưu, Ta nói không thể trả hết ơn được. Ðó là Cha và Mẹ. Nếu một
bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm cho đến
trăm tuổi cũng chưa trả ơn đủ cho cha mẹ. Nếu có phụng dưỡng cha mẹ
với mọi báu vật trên trái đất nầy cũng chưa trả ơn đủ. Vì sao thế?
Vì rằng cha mẹ đã bỏ nhiều công sức cho con cái, nuôi dưỡng chúng cho
đến lúc lớn khôn, và dẫn dắt chúng vào trong đời nầy."
Phụng dưỡng cha mẹ là một trong
ba hạnh kiểm được người hiền trí, bậc thiện nhân tán thán. Ba đức
hạnh đó là: Bố thí, Xuất gia, và Phụng dưỡng cha mẹ. "Xuất
gia" (pabbajjà) ở đây có ý nghĩa là sự thiểu dục, sự thoát
ly điều bận rộn phiền não, thọ trì pháp không não hại, sống chế ngự,
điều phục và hòa hợp. Trong Tăng Chi Bộ, Chương Ba Pháp, Đức Phật dạy:
"Này các Tỳ-khưu, có ba pháp
được người Hiền trí tuyên bố, được bậc Chân nhân tuyên bố. Đó
là: Bố thí, Xuất gia, và Hầu hạ cha mẹ."
*
Trong kinh Giáo Thọ Thi-ca-la-việt,
Trường Bộ, một buổi sáng khi Ðức Phật đi trì bình khất thực trong
thành Vương Xá, Ngài thấy chàng trai Thi-ca-la-việt dậy sớm, ra khỏi nhà
và chấp tay đảnh lễ sáu phương: Ðông, Tây, Nam, Bắc, Thượng, Hạ như
lời cha mẹ dạy theo truyền thống mà không hiểu ý nghĩa của của việc
làm đó. Ðức Phật giảng rằng chấp tay đảnh lễ như thế cũng chưa đủ,
mà cần phải thành tâm quán tưởng các phép cư xử với người chung
quanh: hướng Ðông là sự liên hệ giữa cha mẹ và con cái, hướng Tây là
sự liên hệ vợ chồng, hướng Nam là liên hệ thầy trò, hướng Bắc là
liên hệ bạn bè, hướng Thượng là liên hệ giữa tu sĩ và cư sĩ, hướng
Hạ là liên hệ giữa chủ nhân và người giúp việc.
Về liên hệ giữa cha mẹ và con
cái, Ðức Phật giảng:
"Có năm nhiệm vụ người
con phải làm: nuôi dưỡng cha mẹ, làm tròn mọi bổn phận người con, giữ
gìn gia đình với truyền thống, bảo vệ tài sản thừa tự, và làm tang lễ
khi cha mẹ qua đời."
Thêm vào đó, Ðức Phật cũng giảng:
"Có năm trách nhiệm cha mẹ
cần phải chu toàn: ngăn chận con làm điều ác, khuyến khích con làm điều
thiện, dạy cho con có được nghề nghiệp tốt, tìm người phối ngẫu tốt
cho con, và trao gia sản cho con đúng lúc."
Rõ ràng đây là một thông điệp
trách nhiệm, một trách nhiệm hỗ tương giữa cha mẹ và con cái. Con có năm
bổn phận với cha mẹ, và cha mẹ cũng có năm trách nhiệm với con cái.
Khi cha mẹ và con cái chu toàn các điều đó, thì gia đình được hạnh phúc,
và phương Ðông, theo nghĩa bóng nầy, mới được an lành. Lúc đó, việc
đảnh lễ về huớng Ðông mới thật sự có ý nghĩa.
Trả hiếu bằng cách cúng dường tài
sản vật chất thì chưa đủ, mà phải nhắm đến mục đích tối hậu là
cùng nhau tăng trưởng trong chánh pháp, tiến đến sự giải thoát khỏi mọi
hoạn khổ sinh tử luân hồi. Muốn cho cha mẹ đạt được s? an bình, hạnh
phúc tối hậu, thì người con phải giúp cha mẹ từ bỏ các ác hạnh và
thực hiện các hạnh lành, từ bỏ gian tham và thực hành bố thí rộng lượng,
từ bỏ vô minh và chứng đạt trí tuệ. Trong Tăng Chi Bộ, Đức Phật thuyết:
"Những ai đền ơn bằng cách
nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với của cải, vật chất, tiền bạc thì
không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nầy các Tỳ khưu, những ai đối
với cha mẹ không có lòng tin thì khuyến khích, hướng dẫn, để cha mẹ
an trú vào thiện pháp; đối với cha mẹ gian tham thì khuyến khích, hướng
dẫn, để cha mẹ an trú vào hạnh bố thí; đối với cha mẹ theo ác trí
thì khuyến khích, hướng dẫn, để cha mẹ an trú vào chánh trí; như vậy
thì những người đó làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha."
Chính khi phụng dưỡng, nuôi nấng
cha mẹ, người con sẽ được hưởng những công đức, quả lành do lòng
hiếu thảo đem lại. Ðức Phật giảng trong Tăng Chi Bộ như sau:
"Vị thiện nam tín nữ nào với
những tài sản do nỗ lực tinh tấn thu hoạch được, do công sức nhọc nhằn
tự mình tạo ra, một lòng cung kính cúng dường, phụng dưỡng cha mẹ. Cha
mẹ người ấy, được sự cung kính, phụng dưỡng như thế, sẽ khởi lên
lòng thương mến và cầu nguyện: 'Xin cho con tôi được sống lâu! Xin cho
con tôi được che chở, thọ mạng an bình!'. Nầy các cư sĩ, một người
con hiếu thảo được cha mẹ thương mến như vậy, chắc chắn sẽ tăng
trưởng lớn mạnh trong chánh pháp."
Trong Tăng Chi Bộ, Ðức Phật giảng
rằng gia đình nào có con cái biết hiếu dưỡng cha mẹ, thì gia đình ấy
có phước báu, đáng được tôn trọng và cung kính, đáng được xem như
ngang hàng với Phạm Thiên. Phạm Thiên là những chư Thiên cao nhất ở Dục
giới và Sắc giới. Ngài giảng:
"Nầy các Tỳ khưu, những
gia đình nào có con cái kính lễ cha mẹ trong nhà, thì những gia đình ấy
được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên, được chấp nhận như ngang
bằng với gia đình các bậc Ðạo sư, đáng được kính trọng và cúng dường.
Phạm Thiên là đồng nghĩa với
cha mẹ. Các bậc Ðạo sư là đồng nghĩa với cha mẹ. Các bậc đáng cúng
dường là đồng nghĩa với cha mẹ. Vì sao thế? Vì cha mẹ giúp đỡ con cái
rất nhiều, vì cha mẹ nuôi dưỡng con cái đến ngày chúng lớn khôn, đào
tạo chúng để đưa chúng vào cuộc đời."
Trong Tương Ưng Bộ, Ðức Phật dạy
cư sĩ Mataposaka rằng người nào thực hành theo chánh pháp, có lòng hiếu
thảo với cha mẹ, người ấy sẽ được các bận hiền thánh tán thán;
và khi chết, sẽ được tái sanh vào các cõi trời an lạc. Đức Phật
cũng cho biết rằng chính ngài Ðế Thích, vị vua cõi trời Tam Thập Tam, do
nhờ công đức phụng dưỡng cha mẹ mà kiếp sau sinh được làm vua tại
thiên giới đó.
*
Trên đây chỉ là sơ lược trích lời Phật dạy, ghi
chép trong kinh điển nguyên thủy, về chữ Hiếu. Ðức Phật đã nói rất
nhiều về công ơn trời biển của cha mẹ, nói đến trách nhiệm của con
cái để đền đáp công ơn to lớn đó. Hình thức lễ nghi không phải là
chính yếu, mà chính các hành động thực tiễn phụng dưỡng, cúng dường
cha mẹ mới là quan trọng. Phụng dưỡng cha mẹ sẽ tạo ra nhiều phước
báu cho bản thân ta - hiện tiền và kiếp sau, và cho hạnh phúc gia đình của
ta.
Ðức Phật còn dạy rằng, cách trả
ơn tốt đẹp và đầy đủ nhất là cùng cha mẹ vững niềm tin nơi chánh
pháp, cùng nhau bước vào con đường hiền thiện, bỏ ác giới, bỏ gian
tham, theo đời sống đạo đức, thực hành hạnh bố thí, bỏ con đường
vô minh tối tăm và hướng đến ánh sáng của trí tuệ quang minh, để thoát
vòng sinh tử đau khổ.
Bình Anson,
Perth, Tây Úc, tháng 8-2004
http://www.buddhismtoday.com/viet/vulan/hieuthao.htm