...... ... |
.. |
. |
.. |
. |
. |
- RẰM
THÁNG BẢY
I. Ý NGHĨA:
Rằm tháng bảy theo tục lệ
nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có
nhiều ý nghĩa:
- Thứ nhất, ngày Phật hoan hỷ.
Ngày rằm tháng bảy gọi là ngày đức Phật hoan hỷ, bởi lẽ trong thất
chúng đệ tử của Phật, chúng Tỳ kheo là chúng đệ tử gần gủi nhất,
chúng thừa đương Phật pháp để truyền bá giáo hóa cho chúng sinh, chúng
mang hình dáng của Phật làm gương mẫu ở thế gian, chúng mà trong ba
tháng an cư kiết hạ đã viên mãn và kết thúc vào ngày rằm tháng bảy
âm lịch. Thông thường, khi chư Tăng thọ giới pháp xong là tu niệm, nhưng
vì Phật sự đa đoan nên sự tu niệm ấy không được chuyên cần bằng ba
tháng an cư. Ba tháng an cư theo luật Phật chế, chúng Tỳ kheo phải cấm
túc ở yên, hạn chế tối đa sự đi lại, một là vì phong thổ Ấn Độ
lúc bấy giời mùa hạ là mùa mưa, các loại côn trùng sinh sản ra nhiều,
mà chúng Tăng đi khất thực sẽ dẫm đạp lên nhiều loại côn trùng, làm
tổn thương đến lòng từ bi tế vật. Hai là, chúng Tăng đi khất thực thì
y, áo, bình bát sẽ bị thấm ướt, mất trang nghiêm, nên thế gian có phần
chê trách. Vì vậy, nên đức Phật dạy chúng Tỳ kheo trong ba tháng mùa mưa
phải cấm túc an cư, hạn chế việc đi ra ngoài để tập trung vào sự tu
niệm, củng cố sự sống trong thanh tịnh hòa hợp, cảnh tỉnh thân tâm để
tinh tấn trong con đường đạo hạnh. Cho nên một khi đệ tử của Phật
tu hành trong ba tháng viên mãn thanh tịnh, kết thúc ba tháng an cư, đức Phật
vui mừng lắm. Mừng cho đệ tử của mình đã hoàn thành ba tháng an cư
thanh tịnh, cho nên gọi là ngày Phật vui mừng.
- Thứ hai, ngày Tăng Tự tứ. Ngày
chúng Tăng sau ba tháng an cư tu tập nghĩ rằng: Tuy mình đã gắng tu như thế
nhưng không chắc đã tránh hết lỗi lầm, nên ngày rằm tháng bảy cùng
nhau tập trung lại, cầu mong những vị có giới đức thanh tịnh hơn mình
chỉ lỗi lầm cho. Nếu mình tự thấy mắc phải lỗi lầm đó, phải phát
lộ sám hối. Đó là một việc hết sức đặc biệt trong ngày Tự tứ.
Thông thường, mỗi khi có lỗi
là tìm cách né tránh, tìm cách che dấu kẻo sợ người khác biết thì xấu
hổ, hoặc sợ nếu biết lỗi của mình thì lần sau mình không làm lại
được nữa, cho nên thường thường là che dấu, không bộc lộ, trừ khi
có ai hỏi đến, kẹt lắm mới nói tới có phạm, có vấp lỗi nọ lỗi
kia. Hoặc giả, có phát lộ sám hối chăng thì cũng phát lộ âm thầm trước
ngôi Tam Bảo, chớ ít khi công khai nhờ người chỉ lỗi cho mình ra giữa
đại chúng. Nhưng theo đạo Phật, ba tháng hạ an cư xong rồi, đức Phật
dạy hàng Tỳ kheo phải cầu người khác chỉ lỗi cho mình, nghĩa là không
phải để đợi người khác chỉ mà tự mình phải cầu người khác tự
do chỉ cho, mình phải đối trước người đó mà thưa: "Thưa Đại đức,
ngày nay chúng Tăng Tự tứ, tôi cũng Tự tứ, tôi có điều gì sai phạm
mà Đại đức thấy, nghe hoặc nghi, xin Đại đức thương xót chỉ cho, nếu
tôi thấy có phạm thì xin như Pháp sám hối". Nói như vậy ngầm ý rằng:
Tôi không phàn nàn, không thắc mắc và tôi không có oán trách chi Đại đức
hết! Đó chính là ý nghĩa mà mình phát tâm cầu mong được thanh tịnh, không
có chút nào che dấu, thành tâm cầu người khác tự do nói không e dè chi hết,
nếu thấy có lỗi thì cứ chỉ cho. Đó là một thái độ rất cao thượng
cởi mở để làm cho mình hết sạch tội lỗi. Vì vậy trong ngày đó gọi
là ngày Tăng Tự tứ. Tự tứ nghĩa là cầu người khác không ngần ngại
chỉ lỗi mình ra, để cho mình biết mà sám hối, nên gọi là Tăng Tự tứ.
- Thứ ba, ngày Tăng Thọ tuế.
Thọ tuế là nhận tuổi. Theo thế gian, nếu cha mẹ sinh ra đủ năm 12 tháng
thì mới gọi là tròn một tuổi. Nhưng trong luật Phật chế, hàng xuất
gia thọ giới của đức Phật không tính tuổi theo năm tháng kiểu thế
gian trên, mà tính tuổi theo hạ lạp. Nghĩa là năm nào có an cư kiết hạ
được trọn vẹn thì được tính một tuổi. Thí dụ: Vị nào an cư kiết
hạ từ 15-4 âm lịch đến 15-7 âm lịch là mãn hạ, như vậy được tính
một năm hạ, tức một tuổi hạ. Ai đã thọ Cụ túc giới nhưng không an
cư thì không tính tuổi hạ, còn ai kiết hạ an cư liên tục thì được tính
nhiều tuổi hạ.
Cho nên chúng ta thường nghe ở
các chùa khi đọc tiểu sử của một vị Tăng nào viên tịch, thường nhắc
đến tuổi đời và hạ lạp. Thí dụ vị đó 80 tuổi đời và 60 hạ lạp,
nghĩa là vị đó có tuổi cha mẹ sinh là 80 năm, còn tuổi hạ là 60 hạ lạp.
Hạ lạp được tính và ngày rằm Tự tứ, sau khi đã tu hành tròn ba tháng
hạ. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, đúng theo luật Phật chế, 20 tuổi
thì được thọ giới Tỳ kheo, nhưng vì thiếu duyên, có vị 25 tuổi mới
thọ giới Tỳ kheo và sau khi thọ giới mỗi năm đều có kiết hạ. Nếu vị
ấy viên tịch vào tuổi 70, thì vị ấy được 45 tuổi hạ và 70 tuổi đời.
Nếu một vị Tỳ kheo thọ giới rồi mà không an cư lần nào cả thì coi
như vị ấy hoàn toàn không có tuổi hạ, khác với cha mẹ sinh ta ra, dù ta
có làm hay không làm gì đi nữa hoặc giả có ngủ cả năm đi nữa thì
tròn một năm cũng vẫn được tính tuổi từng năm một. Trái lại, vị Tỳ
kheo thì phải có kiết giới an cư thì mới nhận tuổi, còn không an cư, thì
không tính hạ lạp cũng gọi là giới lạp, pháp lạp. Đó là ý nghĩa của
ngày Phật hoan hỷ, Tăng Tự tứ và Tăng Thọ tuế.
- Thứ tư, ngày Vu Lan xá tội
vong nhân. Vu Lan là ngày cầu siêu độ cho tiền nhân quá cố của người
con Phật. Tích Vu Lan bắt nguồn từ việc báo hiếu của Tôn giả Mục Kiền
Liên. Tích này được chép trong kinh Vu lan bồn. Chữ Vu lan bồn phiên âm từ
chữ Sanskrit (Phạn) là Ulambana. Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giải đảo
huyền (Giải cái tội bị treo ngược). Câu chuyện trên ý nói rằng, những
người nào tạo tội ác thì phải thọ quả báo nơi địa ngục, ngạ quỉ,
súc sinh, chịu sự hành hạ thống khổ cùng cực giống như người bị
treo ngược. Nghĩ đến công ơn cha mẹ, khi ngày Vu Lan đến, Phật tử thường
đem tâm chí thành, chí hiếu sắm sửa vật dụng cúng đường Tam Bảo để
cầu nguyện cho thân nhân, tiền vong của mình thoát khỏi cảnh khổ đau cùng
cực y như giải tội bị treo ngược.
Như vậy, ngày Vu Lan là ngày của
Phật tử đền ơn đáp nghĩa bằng cách đến chùa cầu thỉnh chư Tăng sau
ba tháng ăn cư thanh tịnh, chú nguyện cho vong nhân của mình thoát khỏi cảnh
đọa đày tăm tối của địa ngục, ngạ quỉ và súc sinh, đồng thời cầu
nguyện cho tất cả người khác cũng thoát khỏi tội khổ đau cùng cực như
Tôn giả Mục Kiền Liên đã làm khi cứu mẹ.
II. TÍCH MỤC KIỀN LIÊN CỨU
MẸ.
Tôn giả Mục Kiền Liên là vị
đệ tử xuất chúng của đức Phật. Tôn giả đã chứng được Lục thông:Thiên
nhãn thông: Được con mắt như mắt trời, thấy khắp tất cả.
Thiên
nhĩ thông: Được lỗ tai như tai trời, nghe thấy khắp tất cả.
Tha tâm
thông: Với tâm của mình biết được tâm của người khác muốn gì, ưa gì.
Túc mạng
thông: Là biết đời trước của mình...
Thần
túc thông: Được thần thông đi dưới đất hay bay trên không đều tự tại
vô ngại. Cũng gọi là Thần cảnh thông.
Lậu tận
thông: Dứt trừ mọi lậu hoặc, vượt thoát ra khỏi vòng sanh tử.
Ngoài ra Tôn giả còn chứng được
tuệ nhãn (trong ngũ nhãn là nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và
Phật nhãn) tức là con mắt, thấy được sự vật và tự tính của nó.
Chúng sinh chỉ có con mắt thịt, chỉ thấy những cái trước mắt, vừa tầm,
còn những cái xa quá, nhỏ quá, lớn quá không thấy được. Khi Tôn giả
chứng được lục thông và tuệ nhãn liền nhớ đến cha mẹ mình, Tôn giả
dùng tuệ nhãn nhìn khắp bốn phương, xem vong mẫu của mình hiện đang ở
đâu? Khi thấy vong mẫu của mình đang ở trong loài ngạ quỷ hết sức
đau khổ và đói khát, Tôn giả buồn bã vô cùng. Tôn giả liền bưng bát
cơm đến dâng mẹ, nhưng mẹ Tôn giả vì tâm xan lẫn từ kiếp trước quá
nặng nề khởi lên, sợ người khác trông thấy mà đến dành giựt hoặc
xin bớt, cho nên bà một tay che bát cơm lại, một tay bốc ăn. Nhưng cơm
chưa tới miệng đã hóa thành than lửa không thể nào ăn được. Tôn giả
thấy vậy, vô cùng đau xót, không biết làm sao cứu vớt mẹ được, bèn
về bạch với đức Phật. Ngài dạy: "Tội lỗi của mẹ ngươi, dù
có thần thông phép lạ của hàng thiên thần địa kỳ cũng không cứu được
đâu! Duy chỉ có dùng thần lực của chúng Tăng sau ba tháng an cư, tinh tấn
tu hành thanh tịnh tập trung chú nguyện cho, may ra mới chuyển hóa được
nghiệp lực của mẹ ngươi, thì mẹ ngươi mới được thoát khổ cảnh
mà thôi".
Nghe vậy, Tôn giả Mục Kiền
Liên thưa với đức Phật: "Bạch Thế Tôn, con nay làm sao mời chư
Tăng mười phương cúng dường một lúc như vậy được?". Đức Phật
dạy rằng: "Trong ngày Vu Lan là ngày Tự tứ của chư Tăng, ông nên sắm
các thứ cúng dường chư Tăng trong ngày Tự tứ, ngày đó dầu các vị
trong thiền định, hay thọ hạ kinh hành, hay hóa độ nhơn gian, cũng tập
trung lại để Tự tứ và cầu nguyện cho mẹ ngươi, thì mẹ ngươi sẽ
được thoát khổ". Tôn giả thực hành theo lời dạy của đức Phật
và chính trong ngày đó, mẹ Tôn giả thoát được cảnh ngạ quỷ mà hưởng
phước báu chư Thiên.
Do vậy, Tôn giả hết sức vui mừng
và thưa với đức Thế Tôn, nếu sau này có chúng sanh nào muốn phát tâm
hiếu để mà cầu nguyện cho cha mẹ thoát khổ được vui thì có làm như
con được không? Đức Phật dạy là có thể làm được trong ngày Tự tứ.
Do đó, mà trong Phật giáo truyền lại một pháp cứu độ cho tiền nhân
trong ngày Tăng Tự tứ.
Tôn giả Mục Kiền Liên làm như
vậy đã nêu một tấm gương chí hiếu lớn lao cho tất cả Phật tử noi
theo muôn đời. Tôn giả không những có hiếu trong đời Phật hiện tại mà
tiền thân Ngài cũng đã là một người con chí hiếu. Trong một tiền kiếp,
Tôn giả sinh trong một gia đình nông dân. Cha mẹ chỉ có Tôn giả là con
trai độc nhất, nên vô cùng thương yêu chiều chuộng, và Tôn giả cũng
thương yêu cha mẹ không kém. Tôn giả biết cha mẹ chỉ sinh có một mình
Ngài là con duy nhất, Tôn giả nghĩ đến ngày cha mẹ tuổi già, không biết
trông cậy vào ai, nên Tôn giả nguyện ở độc thân suốt đời để phụng
thờ cha mẹ, chứ không muốn lập gia đình. Nhưng trong khi đó cha mẹ lại
vì thương con không muốn con ở như vậy, sợ con cô độc, sau này không
có ai giúp đỡ lúc trở về già, nên luôn luôn ép con lập gia đình. Trước
sự thúc ép ấy, Tôn giả đành chiều ý cha mẹ.
Không may khi lập gia đình, Tôn
giả gặp một người vợ không tâm đầu ý hiệp, nàng ta không phải là mẫu
người phụ nữ thuần lương. Lúc mới cưới nàng về, Tôn giả dạy vẽ
cho vợ thay mình hầu hạ cha mẹ hôm sớm, cơm nước dâng lên cha mẹ đầy
đủ như khi Tôn giả vẫn thường làm. Lúc đầu người vợ ngoan ngoãn
tuân theo, nhưng một thời gian sau nàng tỏ ra lạnh nhạt và thờ ơ với
cha mẹ chồng. Vì lẽ, thói thường con trong ruột sinh ra đôi khi còn chưa
thương cha mẹ ruột một cách hết lòng huống gì là con dâu, làm sao thương
ông bà gia như thương cha mẹ ruột! Ngài vì sinh kế phải đi làm ăn, nàng
ở nhà càng tỏ ra chểnh mảng trong việc hầu hạ cha mẹ chồng. Khi đã
chểnh mảng, muốn từ bỏ thì phải tìm kế, lập mưu. Một hôm, Tôn giả
đi làm về thấy nước đổ lênh láng giữa nhà và hỏi nước đâu vậy?
Người vợ bèn chỉ vào ông già mà nói rằng: Ông chướng quá, tôi bưng
nước lên dâng ông, ông vung văng, chê nước nóng nước lạnh không chịu
uống rồi vung tay đổ cả ra giữa nhà như vậy đó, tôi chịu hết nổi!
Rồi một bữa khác, Tôn giả
đi làm về thấy cơm vãi ra giữa nhà và hỏi: "Cơm đâu vung vãi ra đầy
nhà như vậy?". Người vợ liền chỉ vào bà già trả lời, bà đó,
bà chướng quá, tôi nấu cơm để cho nguội, xới dâng lên cho bà, nhưng bà
chê cơm trưa cơm sớm rồi vung vãi ra cùng nhà như vậy đó, tôi chịu hết
nổi! Cứ một điệp khúc ấy bà vợ tỉ tê mãi, riết rồi chồng cũng phải
xiêu lòng nghe theo. Tôn giả nghĩ rằng như thế thì cha mẹ mình quá chướng
nên nói với vợ: "Thôi được, ta sẽ có cách!".
Hôm sau, Tôn giả thuê một chiếc
xe ngựa, nói dối với cha mẹ rằng, mấy lâu nay cha mẹ không về thăm Từ
đường bên ngoại, nay mời cha mẹ về thăm một chuyến, để sau này già
yếu có nhắm mắt cũng khỏi ân hận. Cha mẹ nghe có lý nên đồng ý đi.
Tôn giả cầm dây cương cho xe ngựa lên đường, khi đi đến một đoạn vắng,
đường gồ ghề, Tôn giả nhảy xuống ngựa và nói dối với cha mẹ hãy
cầm cương hờ để con đi sau bảo vệ kẻo chỗ này cướp bóc nhiều lắm.
Nhưng thật ra, Tôn giả chẳng bảo vệ gì, mà cốt ý lấy roi quất vào
cha mẹ mà nói: "Đã chừa chưa? hết chướng chưa? hết chướng
chưa?". Dẫu bị đánh như vậy, nhưng cha mẹ không nghĩ là mình bị đánh
mà lại chỉ nghĩ đến con, mà la lên: "Con ơi, lo chạy đi kẻo nó đánh
chết, lo chạy đi con ơi!". Chính trong khi bị đánh mà cha mẹ không nghĩ
đến mình đau lại cứ nghĩ con bị đánh chết mà la lên, nên hai chữ
"con ơi", khi ấy đã đánh thức Tôn giả. Khiến Tôn giả nghe hai
tiếng đó thiêng liêng, mặn nồng, tha thiết trìu mến và thắm thiết một
cách lạ kỳ. Tôn giả sực tỉnh ra là mình bất hiếu quá sức! Cha mẹ thương
mình như vậy mà mình lại bất nhân, thiếu đức, nên Tôn giả liền hồi
tâm và vội vã cho xe quay về và sám hối cha mẹ. Khi về tới nhà Tôn giả
quyết định cho vợ về quê của nàng và nguyện sống ở độc thân như vậy
suốt đời với cha mẹ. Đó là một tiền kiếp của Tôn giả.
Còn kiếp hiện tại, Tôn giả
có tên là Mục Kiền Liên, một người con chí hiếu, muốn thực hiện sự
báo hiếu cho cha mẹ mà lúc ở nhà chưa thực hiện được. Nên trong đời
sống xuất gia, Tôn giả quyết tâm thực hiện để đưa cha mẹ mình đến
cảnh an vui.
Câu chuyện của Tôn giả Mục
Kiền Liên trong quá khứ và hiện tại như vậy là một bài học cho chúng
ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha. Phần nhiều ai cũng có
lòng hiếu với cha mẹ, nhưng vì không được un đúc, nhắc nhở, không gặp
thầy hay bạn tốt nên có khi tâm bị lung lay trở thành bất hiếu. Có trường
hợp bất hiếu vì nghe theo bạn ác, có khi nghe theo danh lợi, quyền thế,
nghe theo cờ bạc, rượu chè, hoặc có khi làm nên ông này bà nọ rồi lên
mặt với cha mẹ, anh em, coi thường bà con cô bác, láng giềng mà trở
thành bất hiếu. Chẳng hạn có một anh nọ gặp may trở thành một quan chức
lớn. Lúc đó chưa có xe đưa rước, về nhà cha mẹ nói đâu dạ đó. Nhưng
khi làm một chức quan to rồi thì không thèm dạ như xưa nữa sợ mất thể
diện ông quan. Như vậy là vì nghe theo quyền thế mà trở nên bất hiếu.
Lại có người mù quáng học đòi
theo thói văn minh vật chất tự do ích kỷ, mà không biết đến văn minh đạo
đức hiếu để cho nên trở thành bất hiếu.
Như vậy, sự tích của Tôn giả
Mục Kiền Liên là một gương quí nhắc nhở chúng ta vun bồi lòng hiếu thảo
của mình, đừng để lòng hiếu thảo bị các thứ khác làm vẩn đục, làm
cho mù quáng, mà đánh mất đi. Trong kiếp quá khứ, Tôn giả Mục Kiền
Liên thiếu cảnh tỉnh nên trở thành bất hiếu chỉ vì nghe theo lời vợ.
Trong xã hội xưa cũng như nay, có những người con rất có hiếu với cha mẹ,
nhưng khi chung đụng với xã hội, gặp hoàn cảnh không tốt, ít thân cận
bạn hiền, bị tác động bởi sự xấu xa nên khi trở về nhà, cha mẹ
nói không nghe, anh chị khuyên bảo không chịu, lại còn cãi lại, cha không
hiểu chi, mẹ không biết chi, còn mình đây mới hiểu, mới sáng suốt, mới
có học. Đó là một thái độ thiếu cảnh tỉnh nên bất hiếu.
Do đó, cho nên ai có gần gũi bạn
lành, lo tinh tấn tu niệm thì mới trở thành nhũng người con có hiếu.
Trong Kinh Trường A Hàm, đức Phật có chỉ cho chúng ta cách báo hiếu tốt
nhất là: Nếu gia đình nào có những người con mà biết Bố thí, biết
Ái ngữ, biết Lợi hành và biết Đồng sự thì cha mẹ mới nhận được
sự hiếu kính của con. Nếu người con nào không biết Bố thí, không biết
Ái ngữ, không biết Lợi hành và không biết Đồng sự thì cha mẹ không hưởng
được sự hiếu kính của con.
- Thứ nhất là bố thí. Kinh A
Hàm dạy người hiếu kính cha mẹ là người biết tu hạnh Bố thí. Người
biết bố thí thì luôn luôn đem tâm hoan hỷ bố thí cho mọi người, dù chỉ
là một nụ cười, một cử chỉ cung kính. Nụ cười ấy, cử chỉ cung kính
ấy, sự dịu dàng ấy, cách ăn nói ôn hòa ấy là của mình, nhưng nếu mình
không làm, không thể hiện là không có bố thí. Khi mình làm và thể hiện
thì sẽ đem an vui đến cho mọi người, chứ không nhất thiết phải hạn
cuộc ở bố thí tiền bạc. Đôi lúc một nụ cười khiến cho người ta
tiêu tan đau khổ, trong khi mình đem một túi tiền cho họ chưa chắc họ đã
hết đau khổ. Như vậy, người con biết bố thí thì cha mẹ mới hưởng
được sự hiếu kính của con, còn nếu con chỉ biết quí tiền của, xan
tham, chỉ muốn bòn rút của cha mẹ, thì chắc chắn cha mẹ không hưởng
được sự hiếu kính của con.
Đã có trường hợp như sau. Một
bà mẹ thiếu thốn, già yếu, người con không thèm hỏi tới. Khi mẹ đau
ốm mặc kệ, ăn ngủ không được cũng chả hề quan tâm. Người mẹ buồn
chán đi ở với bà con hàng xóm. Hàng ngày, bà đi bán nước chè và đi mót
lúa dành dụm mua được tấm vé số, khi dò may sao bà trúng. Khi nghe mẹ
trúng số thì người con lật đật tới nói với mẹ: "Thôi mẹ về
ở với con cho vui, con ở xa nhớ mẹ, đêm hôm đau ốm không ai lo cho mẹ!".
Như vậy người con khi thấy mẹ thiếu thốn không có thì hất hủi, khi thấy
mẹ có rồi thì hỷ hả, vì sao? Vì người con thiếu tu, xem của cải, miếng
ăn nặng hơn ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Cho nên trong một gia đình,
nếu vì tâm bỏn xẻn, anh em dành nhau, nghi nhau, không có tâm bố thí thì
cha mẹ sẽ không hưởng được sự ích lợi từ con cái. Và ngược lại,
con cái có tâm bố thí thì sẽ đem lại an lạc cho cha mẹ. Đó là lợi
ích của bố thí.
- Thứ hai là ái ngữ. Ái ngữ
là một điều hết sức cần thiết, nó cũng rất dễ làm mà cũng rất khó
làm. Ái ngữ là nói dịu dàng, thân ái. Có người cho rằng: Lời nói dịu
dàng có chi đâu mà khó làm. Thế nhưng khó vô cùng, nếu không tu không thể
nói ái ngữ được, như câu chuyện sau đây:
Ngày xưa, một người chỉ nuôi
sống gia đình với một con ngựa đi chở thuê, nhờ nó mà hàng ngày gia đình
có ăn có mặc. Ngày kia, người ta đem đồ đến thuê chở trễ quá, anh ta
nóng lòng chờ đợi đến chiều mới có đồ người ta thuê chở về. Sẵn
bực tức trong lòng, nên vừa bỏ đồ lên xe ngựa, anh liền đánh con ngựa
một cái và nói: "Đồ nhãi ranh, đi, đi, đồ ăn hại, đồ chết bằm".
Nghe vậy, con ngựa ì ra đó, không đi, đánh mấy cũng cứ ì ra đó. Anh đành
chịu và xuống xe. Một hồi sau, cơn nóng giận trôi qua, anh dịu dàng đến
vuốt ve con ngựa, âu yếm nói với nó: "Thôi gắng đi đi con, còn ít
giờ nữa là về nhà, giúp ta chở về nhà đi con". Con vật nghe vậy, nó
nhẹ nhàng dùng sức kéo chiếc xe đi ngay. Con vật mà cũng biết được giá
trị của ái ngữ huống chi là người ta. Do đó, đối với cha mẹ, ta phải
dùng ái ngữ, nếu không sẽ trở thành bất hiếu.
- Thứ ba là lợi hành. Lợi
hành là làm việc lợi ích. Khoan nói lợi ích cho xóm làng, cho xã hội mà
nói lợi ích cho mình, cho gia đình mình. Có những người con coi việc gia
đình mình như việc ai đâu, không liên quan đến mình, không thèm sờ tay tới,
thậm chí như bưng chén nước chén cơm cho cha già mẹ yếu cũng không hề
làm tới. Đó là những việc lợi hành mà không làm, không làm như vậy thì
cha mẹ làm sao hưởng được sự hiếu kính của con!
- Thứ tư là đồng sự. Cùng
làm chung với nhau, cùng làm lụng đồng sự với nhau, gây cảm tình thương
yêu vui vẻ lẫn nhau, còn không thì không làm sao gây tình cảm hiếu kính với
cha mẹ được. Cho nên Phật dạy một cách thấm thía rằng: Người nào biết
Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng sự thì cha mẹ mới hưởng được sự
hiếu kính của người con.
Như vậy, báo hiếu cha mẹ bằng
cách biết công ơn cha mẹ sâu dày như non cao bể cả, mà tiền nhơn của
chúng ta đã nhắc tới:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông,
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi”.
Tiền nhân chúng ta nói thiết
tha lắm; cù lao chín chữ ghi lòng con ơi, cốt ghi chín chữ cù lao là chúng
ta có hiếu rồi. Nhưng báo hiếu cha mẹ bằng hình thức chưa đủ mà còn
phải báo hiếu bằng tinh thần.
Trong kinh đức Phật dạy rằng:
"Cha mẹ chưa an trú trong chánh pháp, làm sao giúp đỡ, dắt dẫn cha mẹ
an trú trong chánh pháp, cha mẹ chưa an trú trong điều lành thì làm sao cho
cha mẹ an trú trong điều lành, cha mẹ chưa quy y Tam Bảo thì nên đưa cha mẹ
an trú trong quy y Tam Bảo". Như vậy, cha mẹ không những hưởng được
phúc lạc vật chất bên ngoài mà còn hưởng được phúc lạc trong tâm hồn,
giải thoát bớt phiền trược, xa lánh được thế gian chấp trước, vọng
tưởng luân hồi sanh tử, mà đức Phật đã nhắc nhở. Khi cha mẹ giải
thoát, an vui thì sự báo hiếu của người con mới thành tựu. Nên cổ đức
có câu: "Phụ mẫu đắc ly trần, hiếu đạo phương thành tựu".
(Cha mẹ được giải thoát, lìa khỏi trần ai thì người con mới tròn hiếu
đạo).
Là người Phật tử, hãy ghi nhớ
lời Phật dạy như vậy để hàng ngày tu niệm, hàng ngày hồi hướng công
đức về cho tiền nhân của mình, nhất là trong ngày lễ Vu Lan, thành tâm
chí kính, niệm Phật, tụng Kinh, lạy Phật, cúng đường Tam Bảo, cúng dường
chư Tăng Tự tứ, để cầu mong sự chú nguyện của Chư Tăng cho tiền vong
của mình thoát khỏi u đồ mà siêu sanh Lạc quốc. Đó mới tạm gọi là
con hiếu, là người Phật tử thuần hành trong mùa báo hiếu vậy.
Mùa Báo Hiếu :
Biên soạn, giảng giải : |
RẰM THÁNG BẢY
HT. Thích Thiện Siêu |
* * *
Bài đọc thêm:
SÁM VU LAN THẮNG HỘI
Vu Lan pháp nhiệm rải hồng ân,
Tự Tứ oai linh chuyển lực thần.
Phật Tổ từ bi truyền chánh giáo,
Mục Liên thành khẩn cứu từ thân.
U minh thoát khỏi đường oan nghiệt,
Trần thế truyền roi dấu pháp luân.
Thong thả muôn thu niềm hiếu nghĩa,
Trung ngươn hoài niệm luống bâng khuâng.
* * *
Chứng đắc thần thông đạo quả thành,
Chạnh lòng nhớ lại tấm ơn sanh.
Mở to mắt huệ nhìn soi khắp,
Se thắt lòng son bóng vắng tanh.
Chua xót căn nguyên đường ngạ quỷ,
Ngẩn ngơ hình phạt chốn U minh.
Bát cơm dâng mẹ nhìn tha thiết,
Hóa lửa than ôi thảm sự tình.
* * *
Sự tình bạch Phật rõ căn nguyên.
Lệ đổ, lòng đau xót khẩn nguyền.
Thắng hội Vu lan tuyên pháp nhiệm.
Thần oai Tự tứ vận cơ huyền.
Thánh Tăng ngày ấy ban ơn phước,
Vong mẫu từ nay thoát nghiệp duyên.
Liên tưởng sau xưa niềm hiếu nghĩa,
Hai phen cứu tế vĩnh lưu truyền.
* * *
Lưu truyền sự tích mấy ngàn năm,
Mỗi độ thu sang, mỗi độ rằm.
Sắm lễ Vu Lan cam mỹ phẩm,
Dâng Tăng Tự tứ chí thành tâm.
Mẹ cha kiếp trước duyên siêu thoát,
Cha mẹ đời này phước thậm thâm.
Mãn nguyện nhơn sanh mùa Báo hiếu,
Nhớ ơn Tôn giả lụy khôn cầm.
NAM MÔ ÐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ TÁT
Sưu tầm và đánh máy: Thanh-Sơn
VA-2002
http://www.buddhismtoday.com/viet/vulan/ramthang7.htm
|
|