- Phật Giáo và Cuộc Đời
- Hòa thượng Walpola Rahula
(L.T.L. dịch)
Nghĩ rằng muốn sống theo những
điều Phật dạy, người ta phải xa lìa thế tục là sai lầm. Nhiều chứng
cứ trong các kinh điển Phật giáo cho thấy các cư sĩ nam, nữ tại gia vẫn
sống đời sống gia đình bình thường, mà vẫn có thể tu theo những điều
Phật dạy và đã đạt được giải thoát. Vacchogatta, kẻ cùng tử lang
thang đã có lần hỏi ngay đức Phật rằng có nam cư sĩ (Ưu bà tắc), nữ
cư sĩ (Ưu bà di) nào vẫn sống cuộc đời thế tục mà có thể tu theo lời
dạy của đức Phật và đã đạt được những quả vị tâm linh. Phật đã
nói rằng không chỉ có một hay hai, không chỉ có một trăm hay hai trăm hay
năm trăm, mà rất nhiều cư sĩ tại gia vẫn có thể tu theo lời dạy của
đức Phật và vẫn chứng quả được.
Có người nghĩ rằng Phật giáo chỉ
thuyết về những lý tưởng xa vời, những đạo hạnh tuyệt đối và các
tư tưởng triết học cao siêu, mà bỏ qua những vấn đề xã hội, kinh tế
của con người, là sai lầm. Đức Phật rất quan tâm đến hạnh phúc của
con người. Đối với đức Phật, hạnh phúc không thể có được nếu không
dựa vào một cuộc sống trong sạch, có đạo đức và giới luật. Nhưng
đức Phật cũng hiểu rằng sống một cuộc đời như thế rất khó trong
những điều kiện vật chất và xã hội không ổn định.
Phật giáo không cho rằng của cải
vật chất là cứu cánh của cuộc đời, nhưng Phật giáo công nhận rằng
con người cần phải có các điều kiện vật chất tối thiểu để có thể
thành công trong đời sống tâm linh. Đức Phật không tách rời cuộc sống
ra khỏi những khía cạnh về xã hội, kinh tế, chính trị. Các pháp của
đức Phật về các vấn đề đạo đức, tâm linh và triết học được
nhiều người biết đến. Nhưng ít người biết đến, nhất là ở phương
Tây, các pháp của đức Phật về những vấn đề xã hội, kinh tế, chính
trị. Tuy nhiên, có rất nhiều bài giảng về các đề tài này rải rác
trong các kinh điển của Phật. Hãy lấy vài thí dụ. Trong kinh Chuyển Luân
Thánh Vương (Cakkavattishihanada, Trường Bộ, 26) có nói rõ rằng cái nghèo
(daliddiya) là nguồn gốc của thói vô đạo đức và tội lỗi như trộm cắp,
dối trá, bạo động, hằn thù, độc ác, vân vân. Vua chúa thời xa xưa,
cũng như chính quyền ngày nay, cố gắng dẹp trừ các tội ác bằng hình
phạt. Kinh Kutadanta (Trường Bộ, 5) nói rằng phương pháp này sẽ không bao
giờ thành công. Thay vào đó, đức Phật dạy rằng, muốn xóa bỏ các tệ
nạn xã hội, thì các điều kiện kinh tế của người dân cần phải được
cải thiện.
Một người tên là Dighajanu có lần
đến thưa với Phật: "Bạch Thế Tôn, chúng con là những người cư
sĩ bình thường, sống đời sống gia đình với vợ con. Xin Thế Tôn dạy
cho chúng con sống như thế nào để được hạnh phúc trong hiện tại và cả
sau này". Đức Phật dạy rằng có bốn điều có thể giúp hành giả
được sống hạnh phúc trên thế gian này:
1. Đức tin (Saddha): Hành giả cần
phải có đức tin, tin vào các giá trị đạo đức, tâm linh và trí tuệ.
2. Giới (Sila): Hành giả phải tránh giết hại các sinh vật, không trộm cắp,
dối gạt, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.
3. Bố thí (Caga): Hành giả cần thực hành bố thí rộng rãi, không bám
víu và tham muốn của cải.
4. Trí tuệ (Panna): Hành giả cần phát triển trí tuệ đưa đến giải thoát
khỏi khổ đau, để đạt được Niết bàn.
Đôi khi đức Phật còn đi vào chi
tiết về vấn đề tiết kiệm và chi tiêu tiền bạc, thí dụ, đức Phật
dạy chàng thanh niên Sigala rằng anh ta nên tiêu khoảng 1/4 số tiền kiếm
được vào các chi phí hằng ngày, kinh doanh 1/2 và để dành 1/4 còn lại
phòng khi cần thiết.
Một lần đức Phật nói trưởng
giả Cấp Cô Độc (Anathapindika) -- người rất ngưỡng mộ đức Phật, và
đã lập ra tu viện nổi tiếng Kỳ Viên (Jetavana) cho đức Phật -- rằng một
cư sĩ sống đời gia đình có bốn loại hạnh phúc:
- hạnh phúc thứ nhất là được có kinh tế vững
vàng hay đủ của cải, kiếm được do những phương tiện lương thiện,
ngay thẳng (atthi-sukha);
- hạnh phúc thứ hai là được sử dụng của cải đó cho chính bản thân
người ấy, gia đình, bạn bè, thân quyến và các nhu cầu cần thiết khác
(bhoga-sukha);
- hạnh phúc thứ ba là không có nợ nần (anana-sukha);
- hạnh phúc thứ tư là được sống một cuộc đời trong sạch, không có
các ác nhiệp về thân, khẩu, ý (anavajja-sukha).
Điều đáng lưu ý là mặc dầu là
ba loại hạnh phúc đầu tiêu đều liên quan đến điều kiện kinh tế, đức
Phật nhắc nhở trưởng giả rằng hạnh phúc về của cải, kinh tế chỉ
bằng một phần mười sáu của hạnh phúc tinh thần, do sống một cuộc đời
trong sạch, không tội lỗi.
Từ một số thí dụ này, ta có thể
thấy rằng đức Phật coi việc ổn định tài chánh là một điều kiện
để tạo ra hạnh phúc cho con người, nhưng đức Phật không coi việc làm
ra của cải là cần và đúng nếu chỉ nói về vật chất mà thiếu một nền
móng đạo đức và tâm linh. Tóm lại, dầu khuyến khích sự phát triển về
vật chất, Phật giáo luôn nhấn mạnh về sự phát triển đạo đức và
tâm linh để tạo nên một xã hội hạnh phúc, hòa bình và tự tại. Đức
Phật dạy: "Sân hận không thể được dập tắt bằng sân hận, mà phải
bằng lòng từ bi. Đó là một sự thật tuyệt đối"; "Con người
cần chiến thắng sân hận bằng lòng từ bi, sự ác độc bằng lòng tốt,
ích kỷ bằng bố thí, và giả dối bằng sự chân thật".
Phật giáo nhằm tạo nên một xã hội
nơi đó mọi sự tranh chấp quyền lợi nguy hiểm bị lên án; nơi sự yên
lành, hòa bình chế ngự sự hơn, thua; nơi sự vu cáo, kết án người vô tội
bị phản đối kịch liệt; nơi người tự chiến thắng chính mình được
tôn vinh nhiều hơn kẻ đã thắng triệu người khác bằng chiến tranh vũ
khí hay kinh tế; nơi tình thương chế ngự hằn thù, sự tử tế chế ngự
ác độc; nơi hận thù, ghen ghét, ác ý và lòng tham không ô uế lòng người;
nơi mọi hành động xuất phát từ lòng từ bi; nơi mọi chúng sinh, kể cả
những loại nhỏ mọn nhất, đều được đối xử công bằng, tế nhị
và thương yêu; nơi cuộc sống an bình, hòa thuận, trong một thế giới đầy
đủ vật chất, được hướng đến mục đích cao thượng nhất: sự giác
ngộ Niết bàn, chân lý.
(Lược dịch theo "Buddhism in the
Real World", NXB Parallax Press)
http://www.buddhismtoday.com/viet/xhh/004-cuocdoi.htm