...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Phật giáo trong đời sống
hiện đại
- Hòa Thượng
Weragoda Sarada
Thích Nguyên Tạng
dịch
Trước hết xin tìm hiểu ý nghĩa của
đời sống hiện đại. Thật khó cho chúng ta đi tìm một định nghĩa về
bản chất của đời sống hiện đại. Có thể nói rằng đặc điểm của
đời sống hiện đại là sự kiện thế giới đang thu nhỏ dần, con người
trên hành tinh dễ tiếp xúc với nhau hơn, những chướng ngại về truyền
thông mau chóng được loại bỏ, con người có thể biết những gì xảy ra
khắp nơi trên thế giới trong một thời gian ngắn; và vì thế họ có thể
tham gia vào một bình diện lớn hơn của cuộc sống thế giới mà họ từng
nghĩ trước đây. Đó là một mặt của đời sống hiện đại. Xét theo lĩnh
vực khoa học kỹ thuật, trong nỗ lực chinh phục thiên nhiên, bệnh tật,
những trở ngại tự nhiên, con người đã thành tựu những kỳ công khoa học
kỹ thuật phức tạp đến mức đáng ngạc nhiên; và đó là một mặt
khác của cuộc sống hiện đại. Một phần khác của cuộc sống hiện đại
, có lẽ đáng quan ngại hơn là với thế giới trở nên nhỏ hơn, các
hàng rào truyền thông được loại bỏ, khoa học kỹ thuật phát triển
quá nhanh, chúng ta đang đối đầu với một số vấn đề nghiêm trọng như
tranh chấp chính trị, kinh tế, ô nhiễm môi trường, nạn nhân mãn, thiếu
năng lượng và sử dụng bừa bãi các tài nguyên thiên nhiên. Ngoài ra còn
những vấn đề khác có thể được gọi một cách đơn giản là "sống
còn".
Nền văn minh hiện đại có thể sống còn hay không?
Với câu hỏi này, người ta có thể thêm vào mặt đạo đức
và luân lý và hỏi: Trong quá trình hiện đại hóa và chinh phục thiên
nhiên, chúng ta đã xa rời khả năng chinh phục bản thân đến mức nào? Đấu
tranh để sinh tồn còn có nghĩa là con người hiện đại đã trở nên nô
lệ cho sự ích kỷ, cho dục vọng của bản thân hay còn có ý nghĩa nào
khác? Chúng ta đã đánh mất tất cả những giá trị của con người như mối
quan hệ giữa các cá nhân, sự quan tâm đến lợi ích của những người
xung quanh, tinh thần phục vụ mọi người một cách vị tha; chúng ta có đánh
mất những điều đó hay không?
Vì thế khi nghĩ đến đời sống hiện đại, người ta có
thể cảm thấy lạc quan nhưng đồng thời cũng có nhiều bi quan. Người ta
có thể rất bằng lòng với cuộc sống hiện nay, ở vào lúc mà có lẽ
không có gì con người không thể chinh phục được. Có thể còn có một số
bệnh tật đang thách thức con người, còn có một số nơi trong vũ trụ mà
con người muốn khám phá, nhưng còn thiếu kỹ thuật để đạt được mục
đích; nhưng những điều này đều có thể ở trong tầm với của con người.
Với sự lạc quan về khả năng của con người và mặt bi quan về việc
chúng ta có thể đã bị mất một cái gì đó trong quá trình đi tới. Chúng
ta nên ghi nhớ hai điều này.
Phật giáo:
Phật giáo là gì? Chúng ta hiểu Phật giáo như thế nào? Phật
giáo có thể có nhiều nghĩa đối với nhiều người. Đối với một số
người, Phật giáo tức là cuộc đời thu nhỏ của Đức Phật và các đại
đệ tử của Ngài, tấm gương, kỳ công và vinh quang của một người đã
đứng trước nhiều người như một con người và tuyên thuyết một con
đường giải thoát. Đây là một loại hình Phật giáo. Có người thì cho
rằng Phật giáo là một khối giáo lý đồ sộ chứa đựng lời dạy của
Đức Phật. Giáo lý này hiển bày một triết lý sống rất cao cả, sâu sắc,
phức hợp và thông thái. Rồi dựa trên những gì Đức Phật đã dạy, đã
áp dụng trong thời của Ngài, một nền văn hóa phong phú đã phát triển,
lan rộng khắp Á châu và cả thế giới qua 2.500 năm qua, và người Phật tử
thuộc mọi tầng lớp trong xã hội với các bối cảnh khác nhau của tất
cả các quốc gia trên thế giới đã đóng góp sự lâu bền cho nền văn hóa
này. Một số lớn những tông phái và những hệ thống triết học đã
hình thành và tất cả đều được biết một cách đúng đắn dưới cái
tên gọi là Phật giáo. Rồi lại có một định nghĩa khác về Phật giáo,
đó là một loại hình nghi lễ đã phát triển xung quanh giáo lý của Đức
Phật và sau cùng đã nâng lên thành một tôn giáo . Dù Đức Phật có ý định
hay không, giáo đoàn của Ngài cũng đã trở thành một tôn giáo mà người
ta sẵn sàng trung thành, một tôn giáo có nghi lễ, tổ chức, đường lối,
tiêu chuẩn riêng để quyết định điều gì đúng điều gì không đúng,
đó là một loại Phật giáo khác. Nếu người ta phải tách rời các phương
tiện này ra để cố gắng nghiên cứu sự tác động của cái gọi là Phật
giáo lên đời sống hiện đại, thì chắc chắn sẽ là công việc rất lớn
lao.
Đối với người viết, Phật giáo là tất cả những điều
nói trên. Đó là Đức Phật và cuộc đời của Ngài, là giáo lý, là nền
văn hóa và lễ nghi được hình thành và liên kết quanh giáo pháp này. Một
khi chúng ta coi Phật giáo như một khối lớn những kinh nghiệm con người,
được sàng lọc trong một quá trình tốt nhất và được trình bày cho
cbúng ta trong một phương pháp thiện xảo để mỗi người có thể lựa chọn
phần nào khế hợp với mình, chung ta sẽ thấy sự độc đáo đáng chú ý
của Phật giáo. Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài thường nhấn mạnh ở
điểm này. Bạn không cần phải làm một học giả và nghiên cứu tất cả
khi bạn nghiên cứu Phật giáo.
Nghiên cứu Phật giáo không giống như nghiên cứu một môn
học khác, ví dụ như toán học, ta phải học hết tất cả các định lý
và các cách giải thích khác nhau của các loại đề toán. Ở Phật giáo, nếu
ta biết những điều căn bản thì ta có thể áp dụng mà không cần phải
học một cách chuyên môn như một học giả. Vì vậy, đối với Phật giáo,
mỗi người chúng ta sẽ tìm thấy điều gì phù hợp với cuộc sống của
mình, phù hợp với tình cảnh của mình.
Một giáo lý không thời gian:
Nhiều người thường tự hỏi rằng tại sao Phật giáo lại
được gọi là "Akàlika", nghĩa là "không thời gian"
(timeless), một giáo lý đã hiện hữu trong nhiều thế kỷ qua. Càng thấy
những thay đổi xảy ra trong Phật giáo, chúng ta càng thấy rõ Phật giáo
đã luôn khế hợp theo mọi nhu cầu của các thời đại, các dân tộc và
các cá nhân khác nhau; chúng ta càng thấy rõ rằng Đức Phật đã có thể
thiết lập một thông diệp luôn luôn tươi mới. Vì thế nếu Phật giáo
được ứng dụng ngày nay và nếu Phật giáo có một vị trí trong đời sống
như ngày nay là vì khả năng áp dụng tính vượt thời gian đó, phát sinh từ
một hệ thống những giá trị vĩnh cửu. Nói đến đặc tính hiện hữu vĩnh
cửu là cách trình bày hay mô tả về nó một cách nghịch lý về một tôn
giáo lấy giáo lý chính yếu về sự vô thường (impermanence) làm nền tảng.
Đặc tính không thời gian này xuất phát từ sự kiện mọi vật được hiểu
là có tính liên tục, nhưng liên tục trong biến đổi, trong một tiến trình
thay đổi và biến hóa liên tục. Vì vậy, Phật giáo đã có khả năng thích
ứng với mọi thời đại và các nền văn minh khác nhau. Do đó, chúng ta
có thể tiếp cận v?i bất cứ lĩnh vực nào của Phật giáo như một điều
phù hợp và có thể áp dụng cho tất cả chúng ta trong đời sống hiện đại
này.
Cá nhân
Những nhân tố nào làm cho Phật giáo có giá trị mãi mãi
với thời gian? Trước hết đó là sự nhận biết trách nhiệm của cá
nhân. Đức Phật là một bậc Thầy tôn giáo nổi tiếng trong lịch sử
nhân loại, Ngài đã giải thoát con người ra khỏi tất cả mọi ràng buộc,
những ràng buộc siêu nhiên, một Thượng đế, sự sáng tạo vũ trụ, tội
lỗi nguyên thủy hay một đặc tính nào khác mà ta đã được di truyền từ
một người nào đó (khác với bất cứ điều gì mà chính ta đã làm). Vì
vậy, Khi Đức Phật nói rằng mỗi người là chủ nhân ông của chính
mình, Ngài tuyên bố một nguyên tắc mà khả năng áp dụng trở nên mạnh
hơn khi con người mỗi lúc mỗi tự tin hơn trong việc kiểm soát bản thân
và môi trường xung quanh. Vì thế, nếu ngày nay, với khoa học và kỹ thuật
phát triển, con người cảm thấy mình đã đến một điểm mà trí tuệ của
mình khiến cho mình siêu đẳng hơn vạn vật, hay cho mình có thể giải quyết
bất cứ vấn đề nào mà mình đã gặp dù vật chất hay đạo lý hay
chính trị hay một tính chất nào khác, thì nguyên tắc con người là chủ
của chính mình và chịu trách nhiệm cho chính mình về bất cứ những gì
mình đã làm. Nhận ra được điều đó rất quan trọng để tự nhìn lại
bản thân mình.Vì vậy, phương cách tiếp cận cơ bản này sẽ giúp cho con
người thoát khỏi mọi ràng buộc hoặc tinh thần hoặc có tính chất khác
là một trong những giáo lý quan trọng của Phật giáo mà nó đã góp phần
cho tính không thời gian của tôn giáo này. Khi chúng ta tiến tới với những
tiến bộ lớn hơn của con người, sẽ có nhu cầu lớn hơn cho con người
khẳng định sự tự chủ của chính mình.
Tự do tư tưởng:
Rồi đến một giáo lý khác cũng không kém phần quan trọng
bằng giáo lý về tâm trí rộng mở, sự tự do tư tưởng. Phật giáo
không chỉ giải thoát chúng ta khỏi một Trời Thần hay những ràng buộc
siêu nhiên mà còn giải thoát con người khỏi mọi giáo điều (dogma). Chúng
ta hãy hình dung thời kỳ Đức Phật còn tại thế, đó là một thời đại
mà các giáo lý tôn giáo khác nhau đang ở trong bối cảnh sôi nổi, và Ấn
Độ của thế kỷ thứ VI trước Tây lịch là một trong những xứ sở hấp
dẫn nhất mà mọi người muốn có mặt ở đó. Các vị giáo chủ tôn
giáo tuyên bố các loại giáo lý khác nhau hầu lôi kéo được nhiều tín
đồ. Ngoài những giáo lý mới này là những giáo phái tôn giáo khác đã cắm
rễ sâu ở xứ huyền bí này. Tất cả các giáo phái này đều tuyên bố:
"Chúng tôi đã tìm thấy đạo "; "Đây là con đường
chân chánh"; "Hãy đến đây các ngươi sẽ đươc cứu rỗi".
Trong bối cảnh này, Đức Phật đã đến và nói: "Đừng tin tưởng
vào những gì kinh sách đạo mình nói. Đừng tin tưởng điều gì vì dựa
vào một tập quán lưu truyền. Đừng tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ
vin vào uy tín và thẩm quyền của một người nào đó. Đừng tin tưởng
điều gì vì có được nhiều người nói đi nhắc lại. Hãy tin tưởng vào
những gì mà mình đã từng trải, kinh nghiệm, thấy là đúng, thấy có lợi
cho mình và người khác". Đây là một thái độ rất mới mẻ mà
người ta có thể tiếp nhận được, mà trong đó mọi người đều thấy
rõ quyền tự do mà mình đang tranh đấu để đạt được, quyền tự do
suy nghĩ cho chính mình. Và, một lần nữa, đây là một giáo lý hay một
nguyên tắc, đã mang đến cho Phật giáo tính chất vượt thời gian; và
chính đặc tính này đem lại sự thích hợp của Phật giáo với mọi thời
đại khi con người tiến tới phía trước. Trong chế độ phong kiến, lúc
trước khi có những tiến bộ hiện tại, chúng ta đã không thể khẳng định
quyền tự do tư tưởng của chính mình, thì chính Phật giáo đã trao cho
con người cái quyền ấy. Chúng ta chỉ tin là mình chỉ được thuyết phục
sau khi tự mình đã xem xét những nguyên tắc, những sự kiện, những giới
điều cho phép và không cho phép. Đây là quyền mà chúng ta coi như bất khả
xâm phạm. Đây là giáo lý thứ hai mà khả năng áp dụng cho thời đại này
cũng như tương lai mai sau sẽ còn mãi.
Vai trò của Phật giáo:
Rồi đến một câu hỏi quan trọng nhất, ngoài sự hỗ trơ
cho cái quyền tự do tư tưởng như trên, Phật giáo có nắm giữ vai trò chấn
chỉnh đạo đức không? Cùng với câu hỏi này, xuất hiện một vấn đề
quan trọng mà tất cả đều quan tâm tới ngày nay. Đó là khi con người
đang thực hiện tất cả những tiến bộ này, họ cũng cảm nhận rằng
áp lực của đời sống hiện đại, như cạnh tranh để sống còn, ganh
đua làm tốt, làm nhiều hơn người khác, thích cuộc sống có thi đua kinh
tế, chính trị, văn hóa hay một hình thức nào đó, đã tạo ra sự căng
thẳng. Để hóa giải những căng thẳng đó người ta đã đặt ra nhiều
phương tiện giải trí và nghỉ ngơi. Kết quả căng thẳng có giảm đôi
chút, nhưng người ta mỗi lúc mỗi lạc vào vòng tội lỗi nhiều hơn. Vì
có những căng thẳng, người ta đã lao vào những hoạt động tìm quên,
và vì những hoạt động này chiếm quá nhiều thời gian, người ta phải bắt
kịp với tiến trình sống còn và rồi lại rơi vào một giai đoạn căng
thẳng khác tệ hại hơn. Tiến bộ kinh tế càng nhanh, hiểu biết chính trị
càng nhiều, người ta càng dùng nhiều loại thuốc an thần để giữ mình
làm việc bình thường. Ta phải uống một viên để thức, một viên để
ngủ, một viên để xoa dịu tâm trí v.v...Loại hình hiện đại hóa này đã
xảy ra, trong khi những căng thẳng của con người đã lên đến mức báo
động mà chính họ thấy rằng tất cả những gì họ đạt được đều
trở nên vô dụng. Thêm vào những căng thẳng này là một góc độ khác
mà con người đối phó, là sự nhàm chán; vì ngày nay ta có nhiều thời giờ
rảnh rỗi, kết quả của sự thoát khỏi việc làm đơn điệu. Vì vậy, với
sự căng thẳng ở một bên, bên kia là nhàm chán, những điều phức tạp
khác xuất hiện làm cho con người thật sự bất an. Ngày nay, người ta có
thể hỏi: Chúng ta đang ở đâu trong tình trạng mà mọi người cuối cùng
đều nhận ra rằng đã đánh mất một cái gì đó trong đời s?ng, dù có tất
cả mọi thứ mà họ có thể đạt được? Lỗi này là của ai? Chúng ta
có nên buộc tội khoa học kỹ thuật không? hay các chế độ chính trị?
Hay buộc tội các chính sách kinh tế mà mình đã và đang thừa hưởng? Hay
chúng ta tự buộc tội ngay chính mình?
*Ta phải chịu trách nhiệm:
Trở lại cách nhìn vấn đề của chính đạo Phật, ta sẽ
nói ta phải buộc tội ngay chính mình. Vì bất cứ điều gì đã sai lầm,
ta phải chịu trách nhiệm, ta là chủ nhân của chính ta. Ta đã để cho vấn
đề cho nó tuột khỏi tay mình. Buộc tội người khác là điều dễ dàng,
khi nói: "Anh đã bỏ lỡ một cơ hội. Nó đã vuột khỏi tay anh".
Nhưng như thế có giúp gì được chăng? Sự vĩ đại của Phật giaó là
ở chỗ nó không ngừng lại sau khi đặt trách nhiệm lên bạn, Phật giáo
không nói: "Thế đó, chúng tọi đã tìm ra thủ phạm"; Phật giáo
chỉ nói: "Đây là một số điều có thể làm được". Nếu người
ta đi một vòng quan sát các tôn giáo, tâm lý học, thần học, với các biện
pháp khác nhau được hình thành để cứu giúp con người hay chữa cho con
người khỏi căng thẳng và nhàm chán, người ta sẽ thấty có nhiều phương
pháp, nhưng không có phương pháp nào không tốn tiền và thực dụng bằng
một số phương pháp đơn giản mà Đức Phật đã đưa ra. Người ta sẽ hỏi:
Như thế có phải một khi ta trở thành tín đồ Phật giáo, ta sẽ thoát khỏi
căng thẳng và nhàm chán của đời sống hiện tại? Sẽ rất khó trả lời
câu hỏi này, vì không phải ai cũng trở thành Phật tử.
* Trở về với Phật giáo:
Không có ai được gọi là phật tử, vì Phật giáo không
phải là một trong những triết học hay lối sống hay tôn giáo đó, chúng
ta dùng danh từ "tôn giáo" vì không có sự phân loại nào khác để
Phật giáo có thể được đặt gọn vào, do đó không cần phải có một
nhãn hiệu. Trong thời của Đức Phật, người ta đến với Ngài và nếu họ
hài lòng với Ngài, họ sẽ nói: "Con muốn trở về với Ngài, trở về
với lời dạy của Ngài và trở về với Tăng đoàn của Ngài, với cộng
đồng và với những đệ tử đi theo lối sống này". Ngay cả hiện tại
cũng thế, đó là tất cả những gì cần thiết cho bất cứ ai gọi mình
là Phật tử. Như vậy sau khi đã biết rằng những gì Đức Phật dạy là
thích hợp với những vấn đề dời sống của mình và cảm thấy rằng
trong đó có một lối sống mà mình có thể ứng dụng và đem lại lợi
ích cho mình, người nào quy y với Phật, Pháp và Tăng với niềm tin như vậy
thì họ sẽ trở thành người Phật tử mà không cần mộ lễ nghi nào,
không một loại hình thức nào, không đăng ký, không thể lệ nào để phải
làm theo. Vì vậy mà, F.L Woodword, một trong những dịch giả nổi tiếng về
những lời dạy của Đức Phật, đã từng nói Phật giáo là "tôn
giáo tự mình làm lấy" (a do it yourself religion). Trong tôn giáo tự
làm này không cần tên gọi mình là người Phật tử, có nguyên tắc hay
các giới luật mà ta phải làm theo để trở thành người Phật tử hay không?
Ta có phải sống theo lối sống mà Đức Phật đã dạy không?
Điều tối quan trọng ngày nay là có thể có hàng ngàn người
chưa bao giờ bước đến một ngôi chùa Phật giáo nào, chưa bao giờ tham
gia vào một lễ nghi nào của Phật giáo, nhưng đã nhận biết trong tâm họ
cái giá trị bức thông điệp của Đức Phật và đã sống theo những lời
dạy ấy. Trên thực tế, chúng ta thấy đại đa số các dân tộc trên thế
giới đã quy nghưỡng Đức Phật vì lý do này hay lý do khác. Đây là một
trong những điều đáng chú ý nhất mà người ta có thể xem gần như là một
phép lạ.
Một lối sống:
Lối sống mà Đức Phật đã dạy rất đơn giản, đối với
người tại gia, chỉ áp dụng năm nguyên tắc sống: không sát sinh, không
trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu, đây là một
bảng nguyên tắc thật sự rất đơn giản. Nhưng lối sống của Phật giáo,
con đường mà Đức Phật đã mô tả không ngừng lại ở luật tắc này.
Lời dạy đó được đơn giản hóa theo một cách mà ai cũng có thể hiểu
được và làm được là bố thí (dàna), trì giới (sila) và thiền định
(bhàvana).
Bố thí (dàna) là cho người
khác một cách rộng rãi. Rất quan trọng cho một Phật tử thực hành bố
thí này như một hạnh đầu tiên phải làm để đi vào con đường chân
chánh, vì cho người khác là một hành động hy sinh. Có khả năng cho ra một
cái gì là sửa soạn tâm trí trọn vẹn để từ bỏ vật sở hữu của mình,
cái mình yêu quý, cái mình đã buộc dính vào. Do đó, ta đối mặt với một
trong những nguyên nhân lớn nhất là dục vọng và tham lam. Thật là hấp dẫn
khi ta thấy lối dống này được hướng dẫn theo cách thức mà khi áp dụng
từng bước một, ta sẽ loại bỏ được một số nhược điểm và cá
tính con người vốn đã tạo ra sự căng thẳng và nhàm chán quấy nhiễu
chúng ta hàng ngày. Thái độ rộng lượng, bao dung với người khác là liều
thuốc chống dục vọng, tham lam, keo kiệt, và ích kỷ.
Trì giới (Sila) là giữ một
số luật tắc đạo đức và luân lý. Đức Phật biết rõ là người ta không
thể đặt những điều lệ hay kỷ luật cho mọi người theo cùng một phương
cách. Vì vậy chỉ có mọt số luật tắc cho người tại gia. Có thêm một
ít điều khác cho những người muốn sống ở tự viện trở thành người
xuất gia, những người tự nguyện đi theo con đường nghiêm khắc của luật
tắc và thanh tịnh hóa. Vì thế trì giới là một sự thực hành dần dần
để mỗi người chọn theo khả năng hiện tại của bản thân.
Cuối cùng là Thiền
định (Bhàvana), hay luyện tập tâm trí.
Bhàvana có nghĩa nguyên thủy là phát triển, sự phát triển thêm trí tuệ.
Đức Phật cho rằng mọi sự đều phát nguồn từ tâm trí của con người,
và Ngài là một trong những người đầu tiên phát biểu về điều này. Hiến
chương của Liên Hiệp Quốc mở đầu với câu "Vì chiến tranh bắt
đầu từ trong tâm trí của con người, cũnh từ trong tâm trí con người mà
sự bảo vệ hòa bình được thiết lập". Câu này phản ánh đúng
theo tinh thần lời dạy đầu tiên của Phật trong kinh Pháp Cú: "Tâm
dẫn đầu cá pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác". Một tâm trí có thể
được kiểm soát bởi ý chí, một tâm trì không chạy theo ngoại cảnh để
đưa đến sự căng thẳng và nhàm chán; ngược lại luôn được tỉnh thức,
luôn tự phát triển, luôn tự khám phá, một tâm trí như thế là kho báu lớn
nhất của con người.
Chúng ta không có gì ngạc nhiên khi thấy trong các quốc gia
phát triển khoa học kỹ thuật cao nhất có một nhu cầu gần như cuồng
nhiệt là luyện tập đủ các loại thiền định. Ai thuyết giảng điều gì,
triết lý gì, kỹ thuật nào được chấp nhận không phải là vấn đề
quan trọng. Sự thật là người ta bắt đầu nhận ra rằng mỗi lúc chiêm
nghiệm trong yên tĩnh, mỗi lúc tư duy sâu lắng, mỗi lúc tâm trí vận động
có sự kiểm soát đúng, có hướng dẫn đúng, là một điều thiết yếu
cho cách sống tốt của con người.
Hai ngàn năm trăm năm trước đây, Đức Phật cũng dạy
như thế và nếu không có gì khác mà con người ngày nay cần , cái mà con
người cần chính là sự yên tĩnh ở tâm hồn. Con người muốn thoát ra mọi
sự căng thẳng của mình và nỗ lực chống lại sự nhàm chán và chúng ta
thấy sự giải đáp trong Phật giáo đặc biệt là ba con đường đạo đã
nói: bố thí, trì giới và thiền định.
Hãy xét nguyên tắc hay sự bắt đầu của Đức Phật. Chúng
ta đã nghe nhiều người đi từ cảnh nghèo đến giàu sang, nhưng đây là
trường hợp của một người đi từ chỗ giàu sang đến chỗ nghèo, ta có
thể nói là để tìm sự yên tĩnh cho tâm trí, điều an lạc lớn nhất của
con người. Kết quả người đó đã tìm lại được chính mình, rồi dạy
những khác rằng nhược điểm lớn nhất là sự ràng buộc với những sự
vật vô thường và đó là đầu mối của mọi rắc rối và khổ đau.
Lời kết:
Dù chúng ta quyết định thế nào về việc đạt được mục đích có một
điều mà chúng ta không thể thoát khỏi, chúng ta không thể chối bỏ sự
kiện tất cả những phát triển hiện đại không mang lại điều gì ngoài
sự bất an và sự đấu tranh không ngừng nghỉ của con người, Phật giáo
đã cống hiến một số phương pháp rất đơn giản và rất hữu hiệu để
hóa giải những điều đó. Vì vậy, người viết thấy rằng Phật giáo
có một vai trò quan trọng trong đời sống của chúng ta, một vai trò mà
trong đó chúng ta, những người Phật tử, tham dự một phần quan trọng vào
đời sống xã hội. Bổn phận của chúng ta là chia sẻ những kinh nghiệm,
những hiểu biết của mình với càng nhiều người càng tốt để cuối cùng
tất cả chúng ta thấy được bức thông điệp của Đức Phật dành cho
chúng sinh tiếp tục đến với loài người trên khắp năm châu bốn bể.
Trích dịch từ
"Buddhism in Modern Life" trong quyển "Parents and Children, Key to
Happiness", trang 158-164. Xuất bản tại Singapore, tháng 11/1994.
http://www.buddhismtoday.com/viet/xhh/006-hiendai.htm
|
|