Cũng vào mùa Đông giá buốc
như năm nay, khi đêm về mọi người quay quần bên bếp than hồng để sởi
ấm, hoặc thả hồng vào những chiếc nệm ấm chân êm; thì giữa cánh rừng
già heo hút bóng người và trong những đêm trường cô liêu tịch tịnh
kia, lại có một người đang dành hết thời gian của mình để tìm phương
giải thoát, mà lắm lúc đã quên đi cả bản thân. Nghị lực phi thường,
đã mang lại cho Ngài một kết quả như sự mong đợi, ‘giải thoát nỗi
trầm thống của kiếp nhân sinh’ mà Ngài đã luôn trăn trở. Từ đó,
ngài mở ra cho nhân loại một hướng đi mới, với lới tuyên bố vô tiền
khoáng hậu: "Không nên tin vào những gì do kinh sách, không nên tin vào
những tập quán lưu truyền đã tạo nên thành kiến, không nên tin vào những
điều được lập đi, lập lại và những bút tích của thánh nhân…"
Lời nói ấy đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận cho mọi tầng
lớp đương thời đang đi vào ngỏ cụt của tâm hồn. Trải qua hơn 25 thế
kỷ, chân lý ấy vẫn ngời sáng và tỏ ra rất thiết thực cho cuộc sống
hiện đại.
Trước đây, người ta quan niệm rằng, triết lý Phật
giáo nói riêng và các học thuyết Đông phương nói chung, chỉ có thể ứng
dụng cho chính mình. Như Rudyard Kipling đã viết trong cuốn Huyền học Đông
Tây:
"Đông là Đông Tây là Tây,
gặp gỡ đừng mong sẽ có ngày…"
Nhưng đầu thế kỷ thứ mười 19, hai nền triết học
Á-Âu đã có sự giao thoa, và thật sự trở thành người bạn đồng hành
ở nửa thế kỷ thứ 20, khi nền khoa học đi vào đỉnh cao của sự khám
phá, thì họ mới cảm nhận rằng "Khoa học càng ngày càng phù hợp
vói ‘cái nhìn’ của các bậc đại giác phương Đông." Tiến sĩ
Fritjof Capra, tác giả quyển sách The Tao of Physics, là một trong những
số đó. Điều ấy cho chúng ta thấy rằng, lời tuyên bố của đức Phật
như sự khai phóng cho lối tư duy không còn bị lệ thuộc bất cứ một học
thuyết, một đường lối, hay một đấng thiêng liêng nào có thể ràng buộc
hay ngự trị, mà tất cả đều do tâm thức làm chủ và dẫn đến sự chi
phối toàn bộ đời sống của từng cá nhân. Ngài đã nắm rõ nguyên tắc
vận hành của vạn hữu vũ trụ, như một người đang đứng trên đỉnh núi
cao nhìn dòng sông đang lưu chuyển. Nên Ngài tuyên bố dõng dạc: "Ta
là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành" mà trước đó chưa
ai dám khẳng định. Vấn đề trên, Giáo sư T.R.V. Murti đã nhận định:
"Không nơi nào Đức Phật công nhận sự hàm ơn của Ngài đối với
tư tưởng Áo Nghĩa Thư (Upanisad) hay đối với bất kỳ vị thầy
nào khác về quan điểm triết học riêng biệt, đặc thù của Ngài. Mặc
dù Brahma, vị Trời Phạm Thiên được đề cập đến nhiều lần trong kinh
điển, nhưng Brahma (Thực thể tuyệt đối) thì không bao giờ được Đức
Phật đề cập đến. Đức Phật luôn tự xem mình như người khai sinh một
truyền thống mới, như người mở ra một con đường mới mà trước đây
chưa từng có. Người ta đã duyệt lại các suy đoán triết học tiền và
đồng thời với thời đại đức Phật được ghi lại trong các kinh Phạm
Võng (Brahmajala Sutta) và Kinh Sa-môn Quả (Samannapphala Sutta)
v.v... Tất cả những hệ thống tín điều và triết lý mang tính cách thần
quyền đều bị bác bỏ vì tính chất giáo điều, phi khoa học, không đồng
nhất và trở nên trở ngại cho đời sống tâm linh của chúng. Vì vậy,
Giáo sư Eliot cũng đã nhận định:
"Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Đức Phật
đã tuyên bố và mở ra một con đường giải thoát mà mỗi người có thể
đạt được cho mình ngay trong đời này, tại thế gian này bằng nổ lực
của bản thân mà không cần một sự giúp đỡ tối thiểu nào từ các vị
thần hay một vị Thượng đế. Ngài đã kiên quyết chủ trương và áp dụng
mạnh mẽ chủ thuyết về sự tự lực, tự tin, sự thanh tịnh, sự giác
ngộ, bình ổn nội tâm, và lòng đại từ đại bi. Ngài khẩn thiết nhấn
mạnh chú trọng đến sự phát triển trí tuệ, vì không có trí tuệ thì
không làm sao chứng nghiệm tâm linh, và an lạc giải thoát ngay trong đời sống
thường nhật mà ngôn ngữ thế gian không làm sao đáp ứng được" (Buddhism
and Hinduism).
Chính vì thế, người ta đã gọi giáo lý giải thoát của
Ngài là triết học Phật giáo, vì đã trải qua chừng ấy thời gian mà lời
dạy vẫn còn sống động và thiết thực cho những ai đang khao khát nguồn
hạnh phúc an lạc ngay trong đời sống hiện tại.
Những nhận định thẩm quyền trên là niềm khích lệ lớn
lao cho Tăng đoàn đang làm nhiệm vụ hoàng truyền chánh pháp, và những người
Phật tử sẽ tăng thêm niềm vinh hạnh, vì mình là thành viên của một
tôn giáo không chấp nhận lòng tin mù quán, không có sự cưởng bức, trải
qua hơn 2500 năm không đổ một giọt máu nào vì nhân danh đức Phật. Nên
Aldoux Husley nhận định: "Trong tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới,
chỉ riêng đạo Phật đi con đường của mình mà không cần đàn áp, kiểm
duyệt hay thẩm tra ai cả."
Mặc dù là thế, nhưng những nhà truyền giáo Phật giáo của
thế kỷ thứ 21 không thể sống trong vầng hào quang đó mãi, mà phải tự
thăng hoa chính mình vào mọi lúc mọi nơi, như chính những lời dạy của
đức Phật, để mang lại thiết thực nhiều hơn nữa cho nhân sinh nói
chung và dân tộc Việt Nam nói riêng trong nhiều lĩnh vực mới như, Văn hóa,
Kinh tế và môi trường v.v. . . Bởi lẽ, trong tương lai gần, đất nước
Việt Nam sẽ đi vào công nghiệp hóa thì chắc chắn cách ứng dụng giáo
lý cũng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế như, thay đổi giờ công
phu, tụng niệm và những buổi lễ chính, để Phật Tử dễ dàng tham dự,
đồng thời không gây trở ngại về giờ giấc cho những khu dân cư chung
quanh. Những buổi thuyết giảng không chỉ ở giảng đường mà còn được
phát trên đài phát thanh hay đài truyền hình, để đáp ứng cho những người
không có đều kiện đi nghe giảng. Chuyển tải toàn bộ kinh điển từ âm
Hán-Việt sang thuần Việt, để trong những buổi lễ mặc dù là ‘Tán, Tụng’
theo nghi thức của tôn giáo, nhưng tất cả mọi người đều có thể hiểu
trọn vẹn lời Phật dạy . . .
Đó là một việc làm ắt có và đủ, mang tính thích nghi
trong nền tảng triết lý Phật giáo, bằng nhiều hình thái, màu sắc và
ngôn từ của thời đại, nhưng nội dung trước sau vẫn là một, để hòa
nhập trào lưu toàn cầu hóa của xu hướng ngày nay, mà Phật giáo Việt
Nam không thể đứng ngoài sự chuyển động đó. Song song với các vấn đề
trên, chúng ta còn phải vận dụng mọi sự thành tựu của nền khoa học,
mà đặc biệt là trên mạng điện toán, để nối vòng tay lớn cho trái đất
hẹp lại. Người hoằng pháp hiện đại nên chuẩn bị và hướng đến một
tương lai, trong đó không còn sự hận thù, tranh chấp, phân biệt màu da,
chủng tộc, giới tính và tôn giáo. Đó không chỉ là niềm ước mơ lớn
của nhân loại trong thiên niên kỷ mới mà còn là mục tiêu của các nhà
truyền bá Phật giáo.
Theo sự nhận định của Thượng Tọa Huyền Diệu và thống
kê của Thượng Tọa Thiện Bảo, tòa soạn báo Giác Ngộ, hiện nay chỉ mới
có vài chục trang báo Phật giáo bằng tiếng Việt trên mạng điện toán.
Có thể nói đây là một con số quá khiêm tốn so với nhu cầu tìm hiểu
và thực hành chánh pháp của người Phật tử và các tầng lớp trí thức
xã hội khác muốn tìm hiểu Phật giáo một cách nghiêm túc. Trong khi đó,
Phật giáo Thái Lan có trên 200 trang nhà điện toán, và hiện nay họ đang
tăng cường thêm nhiều mạng nữa. Với đà phát triển chung của nhân loại,
đến cuối năm 2001 thì số lượng sử dụng máy điện toán sẽ lên đến
1 tỷ 200 triệu, theo báo The Times of India, 19/11/00. Như vậy, có thể
nói rằng, đây là một thách thức lớn đối với ngành Hoằng pháp của
nhiều nước Phật giáo trên Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, khi
lĩnh vực mới có nhu cầu đáp ứng món ăn tinh thần, để quân bình giữa
đời sống vật chất và tâm linh. Vì lĩnh vực trí tuệ này rất gần gũi
với nền tảng triết lý Phật giáo, có thể nói rằng nó sẽ hỗ tương
cho nhau khi Phật giáo muốn minh họa hay dẫn chứng mà ngôn ngữ đời thường
không thể diễn đạt cho con người hiểu thấu một vấn đề, như câu ‘nhất
thiết duy tâm tạo’ thì những phần mềm của chiếc máy Vi tính có thể
đáp ứng được phần nào. Ngược lại, phải chăng nghành điện toán đã
ứng dụng những học thuyết của Phật giáo về nhân duyên-cái này sinh
cái kia sinh, cái này diệt cái kia diệt; về vạn pháp giai không-bản chất
của mọi sự vật hiện tượng là không; hay tất cả là một, một là tất
cả, để từ đó họ ứng dụng vào nhiều lĩnh vực cho chiếc máy Vi tính
có khả năng làm nhiều công việc trong cùng một lúc, và mang tất cả sơn
hà đại địa vào chứa trong một ổ đĩa cứng, như các Thiền sư thường
nói Tam thiên đại thiên nằm trong một hạt cải. Như vậy, Phật giáo và
khoa học sẽ là người bạn đồng hành của nhân loại để đi vào kỷ
nguyên mới, nhằm mang lại hạnh phúc an lạc và giải thoát cho nhân sinh,
như bao nhiêu thế kỷ đã trôi qua.
Nhân ngày đại lễ Phật Thành đạo năm 2000, và cũng là
trong những ngày đầu của một năm mới, đầy sự hứa hẹn của sự thành
tựu của nền khoa học trên nhiều phương diện, để phục vụ cho con người
về phương diện vật chất, người viết mạo muội nói lên một vài cảm
nhận qua bài kinh của đức Phật thuyết cho dân Kalama, để được dịp
trao đổi cùng các bậc thức giả, nhằm mang lại món ăn tinh thần cho nhân
loại trên nền tảng triết lý Bình đẳng, Vô ngã và Vị tha của Phật
giáo, đang hướng con người tiến về "chân thiện mỹ" qua nhiều
hình thức mới, để tinh thần Phật giáo mãi mãi sống động và càng
ngày càng lớn mạnh trong lòng mọi người. Phật giáo trong thiên niên kỷ
mới phải là Phật giáo như sự mong đợi của khoa học gia, Albert Enstain,
người đã nhận định một cách hùng hồn và chính xác:
"Tôn giáo của tương sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt
trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát
cả phương diện tự nhiên lẫn thiên nhiên, đặt trên căn bản của ý thức
đạo lý phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trong
cái nhất thể đầy ý nghĩa. Chỉ có đạo Phật đáp ứng đủ các điều
kiện ấy."