- Sự đối thoại giữa
Phật giáo và phúc lợi xã hội
- Chuyên đề của đại hội
thanh niên Phật giáo thế giới tổ chức tại Tai wan 25 /6/1999
- Thích Giải Hiền
- Du học tăng tại Đài Loan
- I. Phật giáo và xã hội hiện
đại
- 1. Xã hội sung túc về vật chất
Theo đà phát triển của xã hội,
cuộc sống vật chất ngày một sung túc hơn. Người Phật tử đã từ giai
đoạn cầu nguyện cho sự may mắn và phúc báo của tự thân chuyển dần
sang giai đoạn biết đem tài sản và năng lực của mình ra để cống hiến
, phục vụ tha nhân và xã hội. Cũng trên đà phát triển ấy máy móc được
thay thế cho sức người. Do vậy, không cần phải dùng nhiều thời gian nhưng
năng suất lao động vẫn nâng cao, người lao động có nhiều thời gian để
nghỉ ngơi hơn.
Trong cuộc sống, người Phật tử
đã tận dụng thời gian nghỉ ngơi nhiều hơn ấy để tụ tập và tham gia
các hoạt động phúc lợi phục vụ cho nhân quần vã xã hội. Trong sự
phát triển không ngừng ấy, nhất là trong thời đại thông tin và giáo dục
được phổ cập như hiện nay, đã tạo ra rất nhiều cơ hội học tập và
tiến triển cho quần chúng Phật tử và kể cả đoàn thể tăng già cũng
không ngừng tiếp thu những cơ hội học tập và phát triển ấy đã từng
bước thúc đẩy trình độ tri thức và tố chất của đoàn thể tăng già
lẫn Phật tử có nhiều chuyển biến tôt, với trình độ tri thức cao, họ
hiểu rõ hơn về Phật Pháp và nhận chân ra rằng cống hiến và phục vụ
tha nhân chính là hạnh phúc của bản thân.
2. Những thay đổi
đã nảy sinh nhiều vấn đề mới làm uy hiếp cuộc sống
Với truyền thống và quan niệm của
xã hội phương Đông, người ta cho rằng muốn tiến thân và có được chỗ
đứng trong xã hội chỉ có một trong hai con đường để chọn lựa - đó
là: làm chính trị (nghĩa là làm quan) hoặc là làm kinh tế. Nhưng với quan
niệm của xã hội hiện đại ngày nay - điều đó không còn là yếu tố
quan trọng và quyết định nữa, mà trong xã hội hiện nay, người ta có thể
độc lập lấy việc phục vụ làm nghề nghiệp chuyên môn để cống hiến
và khẳng định thế đứng của chính mình trong xã hội.
Mặt khác, trong xã hội hiện nay -
kết cấu truyền thống của gia đình về mọi mặt đã chịu sự tác động
mạnh và thay đổi rất lớn. Tỷ như quan niệm - "con là lộc" hay
"trời sanh voi - trời sinh cỏ" đã thay đổi làm cho số lượng nhân
khẩu trong gia đình ngày một ít hơn. Kết cấu gia đình là một đơn vị
kinh tế "tự cung- tự cấp" trước đây đã không còn, làm cho giá
trị và chức năng của gia đình bị thấp đi. Do đó - đã xuất hiện nhiều
nhu cầu mới, mà những nhu cầu đó không thể hoàn toàn dựa vào nguồn
cung ứng từ gia đình được như giáo dục, học đường, bịnh viện, y tế...
Từ đó đã đưa con người đến với quan niệm và phương thức sống mới
là cần phải có sự tương tác hỗ trợ giữa những ngoài gia đình với
nhau.
Cùng lúc đó - tuổi thọ của con
người trong xã hội ngày nay được nâng cao. Khi con người sống lâu hơn
đã hình thành nên những quan niệm và nhu cầu mới mà ở những xã hội
trước đây chưa từng có như việc cung ứng nhu cầu học tập lâu dài của
con người theo mức độ thăng tiến ngày càng cao của cuộc sống, hay việc
làm thế nào để đáp ứng đầy đủ những ý nguyện muốn được tiếp
tục phục vụ của các cá nhân trong xã hội. Hơn nữa, việc "lão
hoá" trong xã hội đã đưa đến một nhu cầu rất lớn là phúc lợi
xã hội dành cho người cao tuổi cũng vô cùng cấp thiết. Ngay cả vấn đề
"dưỡng sanh tống tử" cũng là một nhu cầu không thể thiếu trong
xã hội hiện đại.
Những yếu tố nguy hiếm mới không
ngừng phát sinh trong xã hội ngày nay theo tốc độ thay đổi phi thường của
cuộc sống hiện đại. Con người đứng trước hoàn cảnh luôn biến đổi
ấy đã nảy sinh trạng thái lo âu và tình trạng bị dồn nén về tâm lý,
hoang mang trước tương lai của cuộc sống.. . Tất cả những yếu tố nguy
hiểm trong xã hội trước đây thường xuất phát từ bản thân của mỗi
người nhưng trong cuộc sống hiện tại - những nguy cơ không hiển nhiên
là từ nơi bản thân của chính mình mà những yếu tố khách quan và hoàn
cảnh cuộc sống đã đem lại cho con người hiện nay nhiều nguy cơ mới
trong cuộc sống, làm cho họ lúc nào cũng phải cần đến sự hỗ trợ của
những người xung quanh mình.
Một vấn đề quan trọng nữa trong
cuộc sống hiện nay là "tình người ngày thêm bạc bẽo hơn". Với
tốc độ "đô thị hoá" hiện nay và cuộc sống công nghiệp đã
đưa người ta đến tình trạng xa lạ với người xung quanh "đèn nhà
ai nấy tỏ, ngõ nhà ai nấy hay". Mọi người ngày một trở nên xa lạnên
càng không cảm thấy an toàn trước người khác, "tinh thân nhân văn"
bị đánh mất, con người không còn để ý đến vấn đề đạo đức
chung, nội tâm của con người ngày thêm trống vắng, lo lắng, lâu dần
không còn cảm nhận được ý nghĩa và niềm vui trong cuộc sống. Tiền bạc
nhiều hơn nhưng nguy hiểm cũng không ít.
Đó là những vấn đề mà con người
trong cuộc sống hiện nay đang đối mặt. Nói cách khác cũng chính là Phật
giáo chúng ta đang đối mặt. Trước thực trạng đó - chúng ta nhận thức
rằng:
- II. Phật giáo cần làm gi , dùng
cáI gì để phục vụ xã hội và nhân quần
- 1. Tài sản của Phật giáo
Phật giáo có nguồn tài sản
quý giá làm nền tảng để đối mặt, dấn thân vào phục vụ, cải hoá
cuộc sống xã hội và nhân quần. Nguồn tài sản quý giá đó chính là
giáo nghĩa Từ BI, KHOAN DUNG, LợI THA, Tế CHúNG, "phục vụ chúng sinh
là cúng dường Chư Phật".
Phật giáo có một đoàn thể tăng
đoàn nhiều về số lượng, lại sung mãn về tinh thần "vô tư bất vụ
lợi", hy sinh lợi ích cá nhân cho xã hội và nhân quyền "vô ngã vị
tha". Đội ngũ tín đồ Phật Giáo cũng vô cùng hùng hậu, lại thấm
đượm ý chí vì "hạnh phúc của tha nhân" - hiểu và tu tập thực
hành theo hạnh nguyện Bồ tát "hành lục độ, lợi quần sinh".
Về tổ chức các cơ cấu tổ chức
đoàn thể của Phật giáo là những tổ chức đã được hình thành trên
nguyên tắc vô tư và cống hiến nên là những đoàn thể được xây dựng
trên nền tảng "hiệp lực tổ chức" rất dễ hợp tác với tất
cả các đoàn thể khác cung một mục tiêu phục vụ xã hội và nhân sanh.
Trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại và phát triển tự thân Phật
giáo đã tích luỹ cho mình một nguồn tài sản quý giá về vô hình lẫn hữu
hình để đủ sức đón nhận và cải hoá cuộc sống mới.
2. Đối tượng phục
vụ của Phật giáo
Đối tượng phục vụ của Phật
giáo có thể là chính những tổ chức của bản thân Phật giáo ví như
Tăng đoàn hay tín đồ Phật giáo. Ngay chính trong nội bộ Phật giáo phải
chú trọng đến việc phục vụ cho đoàn thể tăng đoàn như việc hạn chế
xây dựng chùa chiền đem nguồn tài chánh ấy để xây dựng bịnh viện,
trạm xá, trường học .. . vừa để phúc lợi cho ngay nội bộ tổ chức
Phật giáo,vừa để phúc lợi cho những tổ chức khác trong xã hội ngoài
Phật giáo.
Đối tượng phục vụ của Phật
giáo là phạm vi nội địa quần chúng xung quanh - những cơ sở Phật Giáo
đang trú đóng, nâng dần lên phạm vi cả nước và mở rộng ra ngoài lãnh
thổ vượt qua sự hạn cuộc của biên giới hướng đến phúc lợi quốc
tế theo tinh thần "từ bi vô ngã" của Phật giáo.
Ngoài ra - đối tượng phục vụ của
Phật giáo là các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng biên, những người
di dân đang cần sự nâng đỡ. Những đối tượng là người hợp tác lao
động từ nước khác đến (đối tượng này ở Việt nam chưa có, vì là
nước xuất khẩu lao động) nhưng phải chú trọng đến việc giúp đỡ
cho người Việt nam đi lao động hợp tác ở các nước khác.
3. Tổ chức phục
vụ của Phật giáo
Tổ chức phục vụ của Phật Giáo
là những tổ chức sau:
Tăng đoàn:
Về tăng đoàn phải xây dựng
thành đoàn thể tăng đoàn vì xã hội phục vụ. Điều này cần phải có
sự cải đổi trong kêt cấu của tăng đoàn như xây dựng tăng đoàn thành
những cơ cấu:
Tu tập tu sĩ: Gồm những vị lớn tuổi,
hay những vị có trình độ chuyên môn xã hội thấp.. . chỉ tập trung vào
việc tu tập làm chính.
Hoằng pháp tu sĩ: Là những vị chuyên việc
thuyết giảng và xây dựng phát triển công tác xã hội thấp.. . chỉ tập
trung vào việc tu tập làm chính.
Phục vụ tu sĩ: Gồm những vị có chí
nguyện và khả năng chuyên môn, đem tri thức của bản thân phục vụ cho mọi
lĩnh vực của xã hội.
Tín đồ:
Phải tổ chức thành nhiều đoàn
thể khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu tụ tập và phục vụ của Phật
giáo.
Ngoài ra Phật giáo cần pháp nhân
hoá những tổ chức của mình như bịnh viện, trường học, nhà xuất bản..
. nhằm phục vụ đắc lực và hiệu quả cho công tác phúc lợi xã hội của
Phật giáo. Đồng thời, Phật giáo cũng phải xây dựng những bộ phận
có trình độ và năng lực để hợp tác với các đoàn thể khác trong
công tác phục vụ xã hội gọi là bộ phận hợp tác, hay bộ phận chi viện
để giúp đỡ các đoàn thể khác cùng phục vụ xã hội.
2. Vấn đề
quản lý các tổ chức phục vụ của Phật giáo:
Khi có các tổ chức trực thuộc Phật
giáo vấn đề mấu chốt là phải quản lý các tổ chức ấy như thế nào
cho tốt. Dù là tổ chức từ thiện phục vụ xã hội nhưng nếu quản lý
không tốt sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng của Phật giáo và kết quả phục
vụ sẽ không cao. Phải quản lý có phương pháp và tự quản lý tốt các
bộ phận thuộc tổ chức Phật giáo để đề phòng sự lợi dụng của
các cá nhân dùng danh nghĩa của Phật giáo để mưu lợi riêng.
Làm thế nào để sử dụng và
phát triển tài sản của Phật giáo trong công tác phục vụ xã hội nhằm
đạt hiệu quả cao nhất là vấn đề vô cùng cấp thiết, có nên đưa nguồn
tài sản ấyvào đầu tư kinh doanh có quản lý hay không đang và sẽ là vấn
đề cần đầu tư nhiều suy nghĩ để tìm ra phương pháp hữu hiệu nhất.
Việc quản lý tài sản còn đặt
ra ở phương diện xây dựng, trong vấn đề xây dựng chùa chiền phải có
sự giám sát, quản lý. Đồng thời, công trình xây dựng phải chú trọng
đến việc sau này có thể sử dụng vào lãnh vực giáo dục và phục vụ
để phát huy cao độ hiệu ích của nguồn tài sản này.
Các bộ phận trực thuộc Phật
giáo phải cần được pháp nhân hoá như các quỹ từ thiện, giáo dục, văn
hoá phải đưa vào hệ thống pháp luật, pháp nhân hoá thành CƠ KIM HộI
(quỹ) để giám sát và quản lý có hiệu quả. Tránh tình trạng bị cá
nhân đem sử dụng vì mục đích khác.
3. Sự hạn
chế trongviệc phục vụ xã hội của Phật giáo
Vì mục dích đặt ra là không tham
doanh lợi, không buôn bán nên làm thế nào để có được một nguồn ngân
quỹ to lớn, cố định không bị ảnh hưởng của việc kêu gọi cúng dưỡng,
quyên góp là vấn đề bị hạn chế rất lớn.
Mặt khác, sự cạnh tranh với các
đoàn thể khác Phật giáo bộc lộ nhiều nhược điểm như chuyên môn và
phương hướng phục vụ Phật giáo không bằng các đoàn thể tôn giáo
khác. Cộng thêm vào đó là hình thức phục vụ của Phật giáo thường là
truyền thống và không hiện đại.
Sự hạn chế trong lãnh vực nhân sự
cũng cần được khắc phục và để phát triển nguồn nhân lực Phật
giáo cần có kế hoạch bổ dưỡng xây dựng nguồn nhân lực không hạn cuộc
trong nội bộ tu sĩ và tín đồ của mình. Phải mở ra nhiều phương hướng
và kế hoạch mới nhằm thu hút và bổ sung nguồn nhân lực.
Trên phương diện giới luật và
giáo nghĩa đôi khi cũng đưa đến sự hạn chế trong việc phục vụ xã hội
của Phật giáo như làm thế nào để kinh doanh nguồn tài sản của Phật
giáo nhằm khắc phục sự ảnh hưởng trong vấn đề kêu gọi đóng góp thường
bị chi phối bởi hoàn cảnh kinh tế cá nhân và đôi khi bị ảnh hưởng tác
dộng của các cơ quan thông tin báo chí.. . mà vẫn phù hợp với giáo nghĩa
và giới luật của Phật giáo.
4. Nội
dung, phương thức và nguyên tắc phục vụ của Phật giáo
Nhằm tạo được sự tin tưởng của
xã hội đối với các tổ chức Phật giáo, vấn đề quan trọng là phải
có được tính lâu dài và bền bỉ trong các loại phục vụ. Ngoài ra cũng
cần có các loại phục vụ mang tính cấp thời nhằm khắc phục một cục
diện nào đó, đồng thời cũng cần có các loại hình thức phục vụ đặc
biệt nhằm vào một nhóm đối tượng đặc biệt nào đó.
Về phương thức có thể là chủ
động từ Phật giáo đứng ra tổ chức, cũng có thể là trước một tình
hình nào đó Phật giáo nhận lời yêu cầu của các đoàn thể xã hội mà
đứng ra đảm nhận. Ngoài hai phương thức trên, Phật giáo cũng có thể
chọn các phương thức sau để tham gia như tài trợ giúp đỡ trên một
vài phương diện nào đó để các đoàn thể khác đứng ra tổ chức nếu
tự thân Phật giáo không có khả năng tự tổ chức, hoặc uỷ thác cho
các đoàn thể khác đảm nhận hay cũng có thể là liên kết với các đoàn
thể khác để cùng đảm nhận.
Các tổ chức trực thuộc Phật
giáo có thể phục vụ xã hội trên tất cả mọi phương diện như thành lập
các cơ quan thông tin, báo chí, đài truyền thanh, truyền hình, trường học,
bịnh viện, cơ sở văn hoá xã hội hay phục vụ tại các cơ quan nói trên
nếu không thể tự thành lập được.
Ngoài ra - cũng có thể phục vụ nhằm
vào các lãnh vực đặc thù như nhà lao, quân đội, nạn nhân, người già,
trẻ em, người tàn tật, phụ nữ, dân tộc thiểu số, người ngoại quốc,
người có thu nhập thấp (xóa đói giảm nghèo.. .) các tổ chức dân gian
khác. . .
Nguyên tắc cần tôn trọng là lấy
nguyên tắc đề phòng làm ưu tiên vượt qua sự giới hạn của các thuộc
tính như màu da, giới tính, tuổi tác. . . Phải công khai minh bạch các quyết
sách và tài chánh. Người tham gia là thành viên trong các tổ chức phục vụ
xã hội của Phật giáo phải tuân thủ nguyên tắc căn bản là phải sống
đời sống thanh bạch và liêm khiết. Phải biết trân trọng và nâng cao hiệu
quả nguồn tài sản mà các nhà hảo tâm đã đóng góp. Phải chú ý và
nâng cao tinh thần văn hoá và tinh thần nhân văn trong mọi hoạt động phục
vụ.
III. Kết luận
Trước thời đại mới - Phật giáo
đối mặt, dấn thân xây dựng và cải hoá bằng nền tảng "trí tuệ
từ bi" để "tịnh hoá nhân tâm" xây đắp "nhân gian tịnh
độ". Công tác phục vụ xã hội của Phật giáo cũng nhằm vào mục
tiêu cao đẹp trên nền tảng vững chắc ấy.
Mặc dầu, trong thực tế hiện tại,
công tác phục vụ xã hội của Phật giáo trên một vài phương diện nào
đó chưa được kiện toàn, nhưng nếu tăng đoàn và tín đồ đồng tâm hiệp
ý xây dung thì trong tương lai - chuyển biến tốt nhất định sẽ đạt
được.