- PHẬT GIÁO VÀ
XÃ HỘI
Khi
đề cập đến Phập giáo, người ta sẽ nghĩ ngay đến cái thiện, cái
tích cực. Nhưng cũng có người không am tường Phật Giáo luôn luôn cho rằng Phật giáo là một tôn giáo yếm
thế, bi quan, muốn đào thoát khỏi cuộc sống thực tại để ẩn náu
trong một ngôi Chùa, một hang động hay trong rừng nhằm tìm cho riêng mình
một lối sống nhàn hạ mà không cần đến xã hội bên ngoài. Nhưng họ lại
quên rằng chính Đức Phật là người làm việc tích cực nhất, Ngài chỉ
nghỉ mỗi đêm hai tiếng đồng hồ.
Thời giờ còn lại, Ngài làm việc suốt không ngừng nghỉ. Khắp đất nước
Ấn Độ, Đức Phật đã đi bộ với công việc là hóa độ chúng sanh. Tất
cả những ai có nhân duyên gặp Ngài đều được Ngài độ. Như vậy, chúng
ta thấy rằng, ngoài việc tu tập, Đức Phật và hàng Thánh chúng trong thời
Ngài luôn luôn hoạt động không ngừng. Ngài không bao giờ kỳ vọng hay bắt
ép bất cứ một người nào phải tuân thủ giáo Pháp cao thượng mà Ngài đã đạt được. Tùy ở trình độ hiểu
biết của từng người, họ có thể nắm bắt theo những mức độ khác
nhau. Tuy nhiên, theo Ngài, Phật Giáo không thể tách rời cuộc sống đạo đức, xã hội, vì chính
tôn giáo này luôn giúp cho con người trong việc tự hoá bản thân theo những
mức độ tuần tự mà người ấy lãnh hội.
Cuộc
sống thật là đa dạng và cũng có đủ
hạng người với những trình độ hiểu biết khác nhau, chính vì thế mà
Đức Phật đã tuỳ ở trình độ cao thấp của chúng sanh mà giáo hóa.
Trong nhiều bộ Kinh, Đức Phật cũng đã từng dạy các Thầy Tỳ Kheo về vấn đề này. Vì bất cứ một xã hội nào, con người
không thể tách xa cuộc sống đạo lý căn bản, và Phật Giáo luôn đóng một
vai trò rất quan trọng trong việc hướng con người đến một lối sống lành
mạnh, đạo đức.
Chúng ta nên nhìn lại
những hoạt động xã hội hiện nay thì sẽ
thấy tôn giáo của Đức Phật có một hệ thống đạo đức toàn diện.
Nó đã giúp con người giải quyết những uẩn khúc nội tại và làm giảm
bớt sự căng thẳng luôn luôn đè nặng tâm lý của mỗi cá nhân. Trong bất
kỳ một xã hội nào cũng đều gồm đủ nhiều tầng lớp, Phật giáo đều
thích ứng được cả. Đối với những trình độ thấp trong xã hội, nó đã cung cấp cho
con người một quy tắc đạo lý, như cách đối xử cha mẹ, con cái, anh
em, … một cách hoà thuận. Ngoài ra, nó còn cung cấp cho con người biết lễ
nghĩa, trí tín và luôn luôn tôn trọng những người đã khuất bằng sự
thờ phượng, nhang khói để cầu siêu hay cầu an cho Cha Mẹ còn sống hay
đã mất. Đồng thời, Phật giáo luôn tạo cho con người có một niềm tin
tuyệt đối với Tam Bảo. Nó không bao giờ dạy cho con người phải hoàn
toàn dựa vào tha lực một cách tuyệt đối mà phải có niềm tin chính nơi
sự nỗ lực của mình. Chẳng hạn như đối với những người mù chữ,
đặc biệt là những ông già bà lão, Phật giáo không bao giờ bắt họ phải
tuân thủ những điều luật khó khăn như thuộc những bài Kinh mà họ chỉ
cần những pháp môn thích ứng với trình độ căn cơ của họ mà thôi, như
niệm Phật hay bất kỳ một phương pháp dễ dàng nào khác. Phật Giáo còn
thích ứng với những trình độ cao hơn. Với những lời dạy của Đức
Phật được dịch ra thành kinh sách,
những nhà trí thức bác học có thể tự mình nghiên cứu và ứng dụng
trong cuộc sống tu tập xuyên qua những triết lý cao thượng để đạt tới
giác ngộ, giải thoát khỏi khổ đau.
Đối với cuộc sống
hiện nay, Phật giáo lại cung cấp một hình thức thực hành phổ thông
trong những ngày lễ hội, như lễ Vu
- Lan (Tứ Trọng Ân), Ngày Phật Đản, rằm tháng giêng, rằm tháng mười, … . Tất cả đã trở thành ngày truyền
thống, tập tục của người dân khắp nơi trên thế giới. Xuyên qua những ngày lễ này, con người có
thể hoàn thiện tâm hồn bằng những hành động hay lời nói thiện, như
giữ ngũ giới hay thập giới ….. Ngoài ra Phật giáo còn tạo ra một động
cơ nhằm thúc đẩy về mặt giáo dục để giúp cho con em hiểu biết thêm
về giáo lý của Đức Phật. Về mặt này, các tu sĩ Phật Giáo đóng vai
trò rất quan trọng trong việc giảng dạy giáo lý cho người dân, để họ
có thể nắm vững giáo lý căn bản nhằm tự thanh tịnh hóa bản thân. Những
tu sĩ Phật Giáo, bất cứ trong thời nào, cũng luôn luôn là hàng ngũ tiên
phong đứng ra giúp nước, giúp dân, đem lại cảnh thái bình thịnh vượng
cho nước nhà. Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử
của những triều đại, như Lý, Trần. Các Ngài như Vạn Hạnh
Thiền Sư, Vua Trần Nhân Tông, … vừa là những Bậc chân tu mà cũng vừa
là những chiến sĩ đại tài, sẵn
sàng tham gia vào con đường chính trị để giúp dân, giúp nước. Đối với
những tu sĩ trong thời đại hiện nay, các Ngài luôn hoạt động một cách
tích cực không ngừng nghỉ trong các hoạt động xã hội, văn hóa, …..Cụ
thể như những hoạt động trong gia đình, trong làng xã như ngày giỗ, cưới
gả và những hoạt động mang tính từ thiện là những lúc Giáo lý Phật
giáo được phổ cập và ứng dụng một cách có hiệu quả. Không chỉ thế,
Phật giáo còn giúp cho con người tự mình giải phóng ra khỏi những buộc
ràng về những định kiến hay tập tục mang tính chất đàn áp hay gò bó
con người trong những lễ nghi không cần thiết. Dựa vào giáo lý Phật
giáo, con người có thể phát triển về mặt tâm linh và tự mình chọn ra
một pháp môn thích hợp với căn cơ và trình độ của mình.
Ngoài
những trình độ cá nhân, để giải phóng mình ra khỏi khổ đau của luyến
ái buộc ràng, Phật giáo còn công nhận gia đình là một đơn vị của xã
hội. Tất cả những thành viên trong gia đình như cha mẹ, anh em, vợ chồng
… đều là những tác nhân có thể góp
phần làm cho xã hội ngày thêm vững mạnh. Điều quan trọng là tất cả
những thành viên đó phải ý thức được trách nhiệm của mình về những
công việc mang tính đạo đức hơn là sự ràng buộc lẫn nhau. Từ một người
nội trợ tầm thường, nhưng có thể đạt được mục đích tối thượng,
nếu người ấy ý thức được công việc và làm trong sự tỉnh giác hơn
là phiền não sân hận. Ngay nơi ấy, họ có thể chứng được thiện pháp
bằng niềm tin tuyệt đối là có thể sanh đến một cảnh giới thiện sau
này. Và chính nguồn hào quang từ bi và trí tuệ của họ có thể giúp cho
những người quanh họ giác ngộ xuyên qua những lời nói và hành động
thiện của họ. Từ đó, cha mẹ, con cái luôn sống trong một mái gia đình
đầm ấm và hạnh phúc với thiện pháp. Về vấn đề này, Đức Phật đã
hướng dẫn 6 mối quan hệ trong cuộc sống như trong Kinh Thi-Ca-La-Việt thuộc Trường
Boä, dạy cho tất cả mọi người
phải luôn luôn tôn trọng lẫn nhau giữa con cái đối với cha mẹ, vợ đối
với chồng. Tất cả đều phải xây dựng trên nguyên tắc đạo đức mà
đối xử lẫn nhau một cách tốt đẹp và hoà thuận. Ngay cả những người
đã khuất, người còn sống phải cần
lo chu toàn trong việc thờ phượng cúng kính, để tỏ lòng hiếu kính của con cái đối với cha mẹ
và ông bà.
Chúng ta tiến tới một
bước xa hơn nữa là sự thực hành, luôn luôn lấy giới luật làm kim chỉ
nam để ngăn chặn những hành vi xấu, mang tính
tội lỗi, nhằm giúp cho con người sống một cuộc đời thanh
tịnh, thánh thiện và từ bỏ mọi xiềng xích của các dục lạc trần tục.
Đối với những Tăng Ni cần phải hoạt động tích cực hơn nữa trong việc
nỗ lực hành trì những giới luật mà Đức Phật đưa ra, đồng thời họ
còn phải khuyên dạy hay khuyến khích những con em tránh xa những điều xấu
ác mà rèn luyện phẩm hạnh ngày một tốt hơn.
Qua những hoạt động
mang tính tiêu biểu của Phật giáo đối với
xã hội, chúng ta thấy rằng Phật giáo là một
trong những tôn giáo tích
cực nhất. Phật giáo luôn luôn mang đến sự hòa bình cho nhân loại, vì
nó không chủ trương chiến tranh dù dưới
bất kỳ hình thức nào. Điều này
nói lên tinh thần từ bi, bất bạo động của Phật giáo. Chúng ta cũng thấy
rõ từ khi Đức Phật thành Đạo cho đến ngày nay, Phật giáo không có một
dấu vết nào thuộc về chiến tranh hay bạo động. Đức Phật, Ngài không
bao giờ chấp nhận sự tranh đấu lẫn nhau về mọi phương diện mà Ngài
chỉ chủ trương tinh thần dung hoà, bình đẳng, và khuyên mọi người cần
phải có tinh thần đoàn kết, biết yêu thương, đùm bọc, che chở lẫn
nhau. Cũng chính vì thế, Đức Phật đã bác bỏ việc sử dụng thần
thông trong việc thách đố với đối phương. Ngài cho rằng “Các phép lạ thần thông không được
coi là chứng minh được chân lý mà chỉ trình bày thành thạo được một
số ít thần thông phát triển nơi một số người” (Đạo Phật và Đời
Sống Hiện Đại của Ngài K. Sri Dhammananda). Như vậy, Đức Phật không bao giờ
dạy đệ tử của Ngài đề cao cảnh giác việc thi triển bất cứ các loại
thần thông phép lạ nào mà họ đạt được mà cũng không nên quan tâm
quá mức về việc phát triển thần thông. Ngài chỉ chủ trương cho những
ai dùng thần thông để cứu người hoặc giúp người ấy từ người ngu
si trở thành người giác ngộ. Swami
Vivekananda nói về vấn đề này như sau: “Ý tưởng về siêu nhiên lên tới
một mức độ nào đó, đem thần thông sức mạnh cho con người, nhưng nó
cũng đem lại ỷ lại, đem lại sợ hãi và dị đoan. Nó suy thoái thành một
niềm tin khủng khiếp trong cái yếu đuối tự nhiên của con người” (Trích
trong tập “Đạo Phật và Đời Sống Hiện
Đại” của Ngài K.Sri Dhammananda)
Lai nữa, với
tình thương của Đức Phật đối với nhân loại, Ngài sẵn sàng tiếp nhận
bất cứ một thành phần giai cấp nào trong xã hội, dù người ấy thuộc
giai cấp hạ tiện. Có thể nói, tình thương của Ngài đã vượt khỏi biên giới của nhân loại và
không một từ ngữ nào diễn tả hết được. Cũng chính vì thế mà Albert
Schweitzer nói như sau: “Trên quả địa cầu này, Đức Phật đem ý nhĩa chân
lý giá trị trường cửu và tiến bộ cuả đạo đức không chỉ riêng cho
Ấn Độ mà cho tất cả nhân loại. Đức Phật là một Bậc đạo đức kỳ
tài vĩ đại nhất chưa từng có trên hoàn vũ.” (Trích trong tập “Đạo
Phật và Đời Sống Hiện Đại” của Ngài K.Sri Dhammananda)
Vì sự an lạc cho số đông,
cho xã hội, Đức Phật đã khuyên dạy các Thầy Tỳ-kheo nên quan tâm đến
mọi sinh hoạt của người dân bằng tấm lòng từ bi và sẵn sàng giúp đỡ
họ ở mọi phương diện như sức khoẻ, bệnh tật. Đặc biệt là tuyệt
đối đừng bao giờ gây phương hại hay làm thương tổn, khổ đau cho người
dân. Ngày nay, vì áp dụng theo lời của Đức Phật, Tăng, Ni hay Phật tử
đều có một tinh thần trách nhiệm rất cao trong những hoạt động từ
thiện nhằm giúp đỡ những thành phần không may trong xã hội, như những
người bị thiên tai lũ lụt hay những
trẻ em mồ côi, tàn tật và người già yếu không nơi nương tựa. Tại Việt
Nam hiện nay, rất nhiều Chùa mở những phòng mạch miễn phí để chữa bệnh
cho người nghèo hay mở những trung tâm khuyết tật cho những người không
may.
Tóm lại:
Phật giáo chính là một tôn giáo tích cực nhất, có một không hai trong thế
giới loại người. Có thể nói, khó có một tôn giáo nào có thể bì kịp
với Phật giáo về tinh thần tự lợi và lợi tha. Hơn nữa, tinh thần của
Phật giáo luôn chủ trương “lấy lợi ích tập thể lên trên lợi ích
cá nhân”. Dựa trên những nguyên tắc cao thượng của Đức Phật, chúng
ta càng thấy rõ hơn một tấm gương cao thượng vĩ đại của Đức Phật
đã vượt trên hẳn loài người ở mọi phương diện. Chính vì thế mà
Swami Vivekananda đã đề cập trong một thời thuyết giảng về tấm gương
của Đức Phật như sau: “Toàn thể giống người của nhân loại đã tạo
ra một con người như thế, một triết lý như thế, một cảm tình sâu đậm
như thế. Nhà triết học vĩ đại thuyết giảng triết lý cao thâm nhất,
thương cảm sâu xa đến loài vật thấp hèn nhất, và không bao giờ đòi hỏi
một chút gì cho mình cả. Ngài là lý tưởng của Du-dà Karma, hành động
hoàn toàn không động cơ nào thúc đẩy, và lịch sử nhân loại chứng
minh Ngài là người chưa từng có, không thể so sánh, một sự kết hợp vĩ
đại của con tim và khối óc chưa bao giờ thấy.” (Trích trong tập “Đạo
Phật và Đời Sống Hiện Đại” của Ngài K. Sri Dhammananda) Vậy thì tại
sao chúng ta lại cho rằng “ Phật giáo là một tôn giáo bi quan, yếm thế”
? Đây cũng là vấn đề đặt ra cho những ai còn hiểu sai lạc về Phật
Giáo, cần phải tư duy nhiều hơn nữa.
Dharamsala,
25-10-2001
http://www.buddhismtoday.com/viet/xhh/PG-va-xahoi.htm