- ĐỨNG
TRÊN TẤT CẢ
Trong
cuốn Tăng Già Việt Nam của Hòa Thượng
Thích Trí Quang, có một câu rất hay, rất cảm động mà mỗi khi lẩm nhẩm
đọc đến thì người đọc cảm thấy lòng hưng phấn, chí nguyện được
cất cao lên, không còn khiếp sợ hay nhàm chán phải đối diện với đời
sống vô thường hệ lụy:
“Đứng
trên tất cả để sống vì tất cả.”
Câu
ấy được viết ra để nhắc nhở, khích lệ những người xuất gia theo
Phật—những người đã từ bỏ mọi thứ cặn bã vinh hoa, danh vọng, quyền
lợi, sắc dục, tiền tài... nói chung là tất cả mọi thứ trói buộc tầm
thường của cuộc đời.
Nhắc
nhở gì? — Nhắc nhở rằng trách nhiệm cao cả và duy nhất của người
xuất gia là tự giác ngộ lấy mình để có thể đem lại trí tuệ giác ngộ
cho kẻ khác, tự giải thoát lấy mình để có thể cứu thoát kẻ khác.
Khích
lệ gì? — Khích lệ rằng lý tưởng xuất trần là con đường cao đẹp và
đúng đắn mà chỉ có những kẻ có tình thương yêu rộng lớn, tuệ căn
sâu thẳm và ý chí quyết liệt dũng mãnh mới chọn lựa và dấn mình
vào.
Nhưng
khi người xuất gia chọn lựa “đứng trên tất cả,” điều đó chẳng
có nghĩa là chọn một thứ vị trí không gian hay một thứ giai tầng xã hội
nào ở chóp đỉnh của những nấc thang giá trị cuộc đời, mà chính là
đứng ra ngoài, hay đúng hơn, vượt ra khỏi, vượt lên trên, tất cả những
thế đứng, chỗ ngồi, quyền hạn, lợi dưỡng, sắc dục, danh vị, phẩm
trật, chức tước, cấp bằng... nói chung là tất cả những gì mà người
thế tục bình phàm cho là quí giá và lăng xăng chạy đuổi theo bằng cả
cuộc đời của họ.
CON
ĐƯỜNG NGƯỢC DÒNG
Đó
là nhìn một cách lạc quan theo danh nghĩa lý tưởng. Còn trên thực tế
sinh hoạt, nhất là sinh hoạt của thời đại ngày nay—cái thời đại mà
kinh Phật đã thấy trước và đã đặt tên trước là thời kỳ mạt pháp—thì
cả lòng người lẫn hoàn cảnh xã hội hầu như đều toa rập, đồng lõa
với nhau để đẩy xô những người xuất gia vào một nếp sống mới với
những lề lối suy tư, quan niệm, lời nói và hành xử, đi ngược lại với
chí nguyện xuất trần ban đầu, để rồi chúng ta đau lòng mục kích bao
nhiêu là điều “nghịch thường” trong chốn thiền môn, cả trong nước
lẫn hải ngoại.
Cái lẽ
nghịch thường ấy, nhìn theo con mắt thế tục, thì chẳng có gì gọi là
sai trái, lạ lùng cả và tất nhiên là người thế tục sẽ cho đó là điều
bình thường; nhưng áp dụng nó vào nẻo đạo thì cái nghịch thường này
thực khó mà chấp nhận. Hòn sỏi ném xuống nước thì chìm đến tận đáy,
đó chuyện bình thường; nhưng bong bóng bay mà cũng lặn xuống đáy nước
thì không phải là bình thường nữa. Cả người bán lẫn người mua bong bóng
bay đều mong đợi sự bay lên của những chiếc bong bóng. Giá trị của
chiếc bong bóng bay là ở chỗ bay lên ấy. Khi bong bóng xìu không bay nổi,
chúng mất giá trị, chúng không bình thường, không còn lý do nào để tồn
tại.
Con
đường xuất gia là con đường ngược dòng. Giới nhà thiền gọi là nghịch
lưu. Trong khi tất cả những người thế tục và cả những người cư sĩ
tại gia có hiểu và tu tập theo giáo lý Phật, đều chạy xuôi theo dòng tục
lụy, thì chỉ có họ, những người xuất gia, là bơi ngược dòng để tìm
về nguồn cội vô tận thênh thang.
Chọn
lựa sự ngược dòng là chọn lựa đứng trên tất cả, vượt lên tất cả
những cặn bã phù phiếm của dòng đời. Thế thì, tại sao một người xuất
gia phải cúi đầu bằng lòng, hãnh diện, vui vẻ, ngưỡng mộ, khiếp phục,
tận lực gia công, bỏ hết thì giờ, cặm cụi cắm cúi, hăm hở chạy
theo... những cái gọi là sự thành công của đời sống thế tục? Tại
sao bong bóng càng lúc càng xìu đi một cách thảm hại để rồi cứ la đà
trên mặt đất? Tại sao con thuyền ngược dòng lại quay mũi mà xuôi theo
sóng nước? hay là nó vẫn hướng mũi về phía đầu nguồn nhưng lại đi
tới về phía cuối nguồn bằng cái đuôi thuyền?
Khi người
xuất gia chằm hăm bỏ hết thì giờ của mình để được thành công với
đời—bằng bất cứ phương cách nào—thì người ấy đã thất bại thấy
rõ trên đường đạo. Thất bại là vì đã chọn đứng giữa và đứng
trong tất cả, thay vì đứng trên tất cả.
PHƯƠNG
TIỆN THIỆN XẢO
Người
ta có nhiều lý do để biện minh cho thái độ chọn lựa này. Chẳng hạn,
vì hoàn cảnh xã hội, vì thời cuộc, vì nhân tâm thời nay đòi hỏi người
xuất gia phải như vậy. Hoặc nói theo ngôn ngữ nhà thiền thì, “phải biết
dùng phương tiện thiện xảo để độ sanh.” Vâng, phương tiện thiện xảo. Bốn chữ ấy đối với những bậc thực
sự giải thoát giác ngộ (hoặc thực sự qui hướng bản tâm vào lý tưởng
xuất trần độ sanh) thì là cái gì linh diệu, đẹp đẽ, như những cánh
tay đầy diệu dụng (mười tám tay của Bồ Tát Chuẩn Đề, ngàn tay của
Bồ Tát Quán Thế Âm...) như những chìa khóa vàng mở vào kho vô tận... nhưng
đối với kẻ tuy mang hình thức xuất gia mà tâm hãy còn bươn chải lặn
hụp theo dòng thế tục thì đó chỉ là thứ rào chắn bảo vệ và che đậy,
biện minh và khỏa lấp tất cả sự hèn kém tầm thường của chiếc bong
bóng xì hơi mà thôi.
Chúng
ta có nên đổ lỗi cho thời kỳ mạt pháp đã khiến một số người xuất
gia không còn ôm giữ chí nguyện xuất trần? Chúng ta có nên biện minh rằng
tất cả những gì người xuất gia làm hôm nay đều là mở rộng cánh cửa
phương tiện thiện xảo?
Thực
ra, khi một người phát khởi tâm bồ đề (giác ngộ), luôn hướng vọng
đến đạo quả giải thoát và chí nguyện độ sanh, thì không có vấn đề
chánh pháp, tượng pháp hay mạt pháp nữa. Bỏ đi, hoặc lơ là với chí
nguyện xuất trần, là tự mình lăn vào thời kỳ mạt pháp; không những sống
trong thời kỳ mạt pháp mà còn sống trong tất cả những hoàn cảnh mạt
pháp.
Còn
nói rằng vì phương tiện độ sanh mà làm các việc thế tục thì điều này
chẳng lạ gì với tư tưởng dấn thân hành đạo của truyền thống Đại
thừa. Nhưng nếu tâm bồ đề không phát khởi, không giữ gìn, không phát
triển, không đẩy đến mức toàn vẹn, thì tất cả những phương tiện dù
có mang lại một kết quả tốt đẹp nào đó đối với đời thì cũng đều
là sự manh động của tự ngã, không dính nhập gì đến đạo quả giải
thoát giác ngộ và hạnh nguyện lợi sanh cả. Và những thứ phương tiện
được thực hiện theo cách đó không thể nào gọi là phương tiện thiện
xảo. Chúng chỉ là phương tiện theo ý nghĩa thông tục nhất của thế
gian mà thôi. Mà phương tiện theo cách ấy thì ai lại chẳng làm được! Tất
cả những con người gian ác, bạo tàn, quỉ quyệt, hám lợi hám danh, tham
quyền cố vị, vị kỷ, hèn mọn, đê tiện, thấp kém, ngu dốt và cả những
người trí thức... đều học tập, thực hành và phát triển phương tiện
riêng của họ. Nhưng không có thứ phương tiện nào trong số đó được gọi
là phương tiện thiện xảo, bởi vì chúng được thiết lập không phải
để nhắm vào mục đích giải thoát giác ngộ.
Tóm lại
là không có lý do nào để có thể đổ lỗi cho thời kỳ mạt pháp hay biện
bạch cho sự phóng tâm chạy xuôi theo dòng đời. Hễ mục đích sai lầm
thì tất cả phương tiện đều sai lầm. Suy ra, khi người ta làm những phương
tiện sai lầm thì ắt phải biết là mục đích của họ đã sai lầm.
Nhưng
phương tiện nào là phương tiện sai lầm? Nói vậy e có phải là vội
vàng, bao đồng lắm không? Chứ không phải người ta thường nói rằng:
Nghề nào cũng tốt! Miễn là “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” và miễn
sao nghề xấu mà lòng tốt thì được rồi. Vâng, quan niệm ấy có thể
áp dụng được ở thế tục hoặc một khía cạnh nào đó trong đạo.
Nhưng cũng tương đối thôi. Vì nó chỉ có tính cách luân lý, an ủi những
thành phần bất tài, thấp kém không tìm được những nghề nghiệp vững
chắc và danh giá trong xã hội, cũng như để khích lệ những người lăng
xăng dao động nên chú tâm vào một việc. Còn trên thực tế xã hội thì
không ai khuyến khích nghề trộm cướp, nghề đồ tể, nghề ăn mày ăn
xin... (bất kể lòng dạ tốt hay xấu) mà chỉ khuyến khích các nghề bác
sĩ, kỹ sư, thương gia... (cũng bất kể lòng dạ tốt xấu). Chính vì vậy,
chắc chắn là có những phương tiện sai lầm trong xã hội đầy dẫy những
con người với lòng dạ bất thiện. Chính vì bất thiện ở tự tâm, họ
không bao giờ có một thứ mục đích nào gọi là cao đẹp hay có lợi ích
cho kẻ khác. Nhưng họ lại là những người luôn lấy phương châm cứu
cánh biện minh cho phương tiện để tô vẽ cho những hành động vị kỷ của
mình.
Xét về
mặt nhân quả thì phương tiện và cứu cánh phải tương ứng thích hợp với
nhau. Phương tiện xấu thì đưa đến cứu cánh xấu; ngược lại, cứu cánh
xấu cũng mở đường cho những phương tiện xấu. Không có thứ phương tiện
tồi tệ của một kẻ tồi tệ nào lại đưa đến một cứu cánh hoàn hảo.
Nói như Krishnamurti—một vị đạo sư giác ngộ vĩ đại nhất của thế kỷ
20 mà chưa bao giờ tự nhận mình là đạo sư—thì “Tự do đầu tiên và
cuối cùng.” Có thể tạm hiểu ý chính của tựa đề này (và cũng là nội
dung của toàn bộ cuốn sách) rằng, cái nhân tự do giải thoát mới đưa
đến cái quả tự do giải thoát. Đầu tiên là nhân, Cuối cùng là quả.
Khi thiết lập một thứ phương tiện mà thiếu tính cách tự do, thì sẽ
chẳng bao giờ có được cái cứu cánh tự do cả. Cũng vậy, các phương
tiện xuôi dòng của thế tục không thể nào dẫn đến cứu cánh giải
thoát giác ngộ.
BỒ
TÁT HÓA THÂN
Đó
là xét về mặt nhân quả thông thường của thế tục. Còn xét về mặt
đạo, có người sẽ nói rằng kẻ phàm tâm khó mà hiểu được hành động
của bồ tát dấn thân độ đời, vì những vị này đã hoàn toàn giác ngộ,
nên hành vi, lời nói và ý nghĩ của họ không còn rơi vào vòng ảnh hưởng
của nhân quả. Lý này không sai, nhưng làm sao giải thích được với những
người không tin nhân quả hoặc những người tin sâu vào nhân quả và
không chấp nhận một sự ngoại lệ nào cho những tác nghiệp xảy ra trên
cuộc đời? Chúng ta có thể bàn sâu hơn một chút về các vị bồ tát dấn
thân độ đời nói trên.
Trong
truyện sử Phật giáo, đôi khi có vài câu chuyện về những vị bồ tát
hiện thân làm người phàm, thực hiện tất cả những công việc của người
đời nhằm mục đích cứu nhân độ thế. Những vị bồ tát hóa thân này
thường mang thân tướng tầm thường, làm những việc tầm thường, khiến
người đời không biết, dùng lời lẽ nguyền rủa hoặc có tâm ý khinh
chê, liền bị đọa địa ngục... Những câu chuyện loại ấy khiến cho những
Phật tử sơ căn dè dặt ý nghĩ, lời nói và hành động của mình hơn, không
dám vội vàng đánh giá kẻ khác, vô tình thực hiện hạnh tốt là “Không
nên nhìn ngó lỗi người, chỉ nên tự xét lỗi mình” (Kinh Pháp Cú—Dhammapada);
nhưng cũng là cái phao cho những kẻ phàm phu tục tử vin vào đó để làm
việc xằng bậy rồi cứ khăng khăng ngụy biện rằng mình làm việc này,
việc kia, đều chỉ là phương tiện thiện xảo... hoặc đem địa ngục ra
để hăm dọa kẻ khác, bịt miệng kẻ khác.
Thực
ra, theo thiển ý riêng của tôi, một vị bồ tát hóa thân mà ưa làm những
chuyện cho người đời chửi rủa để rồi người chửi rủa mắc tội đọa
địa ngục, thì vị bồ tát ấy sử dụng phương tiện độ sanh chưa được
thiện xảo (khéo léo) gì lắm. Bồ tát hóa thân làm người phàm để gần
gũi người đời mà cứu độ họ thoát khổ chứ đâu phải để “nhử”
cho họ chửi mình rồi bị đọa vào cảnh khổ!
Một
điều đáng lưu ý nữa là cho dù hóa thân bằng cách nào, hình thức nào,
vị bồ tát đó cũng không thể che giấu được sự “bất phàm” của
mình. Đã là bồ tát, đã là thánh nhân đắc đạo, thì có hóa thân làm
gì đi nữa, vẫn tỏa ra cái cốt cách phong độ và sở chứng của mình.
Đó là điểm mà một phàm nhân không thể nào bắt chước, và đó cũng là
điểm mà người ta có thể dựa vào để nhận biết được một vị bồ
tát hóa thân.
Đừng
bao giờ khư khư khẳng định rằng không thể nào nhận biết được các vị
bồ tát hóa thân. Bởi vì sự khẳng định này sẽ khiến chúng ta có thói
quen là không sử dụng trạch pháp (phân biệt và chọn lựa phương pháp
chân chính, thích hợp) và vì vậy sẽ không bao giờ phân định được đâu
là bậc tu hành chân chánh để nương theo, đâu là kẻ thực hành tà đạo
để xa lánh.
Thực
ra, chánh nhân và tà nhân, chánh đạo và tà đạo, rất dễ nhận biết, và
rất cần thiết phải nhận biết. Tại sao không?! Tại sao thời xưa bên
Trung Hoa người ta nhận biết Bố Đại Hòa Thượng và Phật sống chùa Kim
Sơn? Không phải chỉ vì họ có pháp thuật hoặc cứu độ được nhiều
người, mà chính vì cái vẻ tự tại vô ngại, không chấp trước nhân-ngã,
bỉ-thử, không cầu danh hám lợi, không kể lể công đức, không ham thích
tạo ra dòng phái tông môn để làm tông chủ giáo chủ, không cố tình để
lại vết tích hành trạng của tự ngã. Họ làm tất cả mọi việc đều
vì mục đích lợi sanh chứ không vì sự vinh quang của giòng phái, tổ
tông, hay vì bất cứ thứ phần thưởng vật chất và tinh thần nào của
cuộc đời... Họ đến rồi đi như bóng nhạn lướt trên mặt nước, như
mây trắng trôi qua trời, nhưng lợi ích cho đời thì không đếm kể được.
Những người không biết, chửi rủa họ, họ hoan hỉ đùa cợt rồi tìm
cách cứu độ hết, không để cho ai phải vì khinh chê mình mà đọa địa
ngục. Không chấp có ngã có nhân nên không đem lòng hận thù oán ghét ai.
Chính cái tâm vô ngã và đại bi của họ khiến cho những lời nguyền rủa
của phàm nhân tan ra mây khói, không kết thành ác nghiệp.
Cho
nên, chúng ta có thể nhận biết được các vị bồ tát hóa thân và những
vị tu hành chân chánh—những vị thực sự đứng trên tất cả để sống
vì tất cả.
KÍNH
TÍN VÀ PHÂN BIỆT
Nhận
biết được tức là thực hành trạch pháp và cũng hàm nghĩa rằng có một
thứ chìa khóa hay một mấu chốt nào đó để tìm ra, để nhận dạng những
vị thánh tăng (và dĩ nhiên là đã vô tình so sánh với phàm tăng). Điểm
này xem ra có vẻ là điều cấm kỵ trong giới tu tập Phật giáo. Nó cho người
ta cái cảm giác như là mình vô lễ vô phép, mất niềm tin đối với Tam Bảo.
Thực
ra, tìm thầy học đạo không nhất thiết phải tìm cho ra một vị thánh tăng,
mà chỉ cần tìm cho được một vị chân tăng. Vị chân tăng này có thể
là thánh hay phàm, nhưng họ có một điểm chung là hướng vọng đến đạo
quả bồ đề; mà hướng vọng đến đạo quả bồ đề thì chắc chắn
là phải thực hiện hạnh vô ngã trong từng ý nghĩ, lời nói, và hành động
thường nhật của họ.
Thông
thường, với lòng kính tín sâu xa vào Tam Bảo qua hình ảnh sáng ngời của
đức Phật, qua sự vi diệu của giáo Pháp, và qua những tấm gương cao đẹp
của nhiều thế hệ chân Tăng, người ta có thói quen là không dám đánh
giá, lượng định, so sánh... phẩm giá và hành trạng của những người
xuất gia hiện tại, cứ một mực cho rằng, “vị nào cũng tốt,” hoặc
“dù họ không được hoàn hảo lắm thì cũng hơn mình,” hoặc “biết
đâu họ là bồ tát hóa thân...” Thái độ kính tín sâu xa ấy rất cần
thiết cho người sơ cơ học đạo và cũng rất cần thiết cho những người
đang thực hành bồ tát đạo, học theo hạnh của Bồ tát Thường Bất
Khinh, luôn luôn quí trọng tôn sùng kẻ khác vì tin tưởng Phật tính sẵn
có nơi họ. Nhưng trong trường hợp một người tầm sư học đạo, tha thiết
tìm cầu đạo lý giác ngộ để vĩnh viễn giải thoát, thì vấn đề phân
biệt chân sư - tà sư, tất phải đặt ra. Cố nhiên là phải như vậy. Bởi
vì không phân biệt được sự sai khác giữa chân và tà sư thì có thể xảy
ra trường hợp suốt đời tu hành lao nhọc mà chẳng có kết quả gì đáng
kể, hoặc đi theo tà ma ngoại đạo từ lâu mà chẳng hay.
CHÂN
SƯ VÀ TÀ SƯ
Chân
sư và tà sư khác nhau chỗ nào?
Đối
với tu sĩ của một số tôn giáo tôn thờ thần quyền, sự đánh giá
chân-ngụy, chánh-tà khá dễ dàng qua mặt đạo đức, tác phong của chính
các vị tu sĩ ấy. Mà phẩm cách đạo đức, tác phong của tu sĩ các tôn
giáo này thường khi chỉ đặt nền tảng trên sự cần mẫn tận tụy hiến
dâng, phụng sự thần linh, thực hành các giáo điều, tín điều đã được
thần linh ban hành hay trích dẫn từ kinh sách được tin là được viết ra
do sự mặc khải của thần linh. Tu sĩ nào thực hành nghiêm chỉnh các
tín-giáo điều thì được coi là có đạo đức; và ngược lại thì vô đạo
đức; hoặc thiếu đạo đức mà làm bộ như ta đây đạo đức thì bị gọi
là đạo đức giả. Đối với tu sĩ các tôn giáo ấy, tu tập chỉ có nghĩa
là như vậy: tuân thủ các giới điều và tín điều. Hoặc nói nôm na tóm
gọn là chỉ cần giữ mình làm người đạo đức, mô phạm.
Trong
khi đó, thực hành giáo lý đạo Phật, tu sĩ Phật giáo không phải chỉ
là những người trau luyện đạo đức hay một thứ tư cách cao quí đức
hạnh làm người nào đó mà xã hội mong đợi. Con đường chính yếu của
họ là thực hành các phương pháp tinh diệu nhằm phá vỡ biên giới của
tự ngã để thể nhập vào bản thể vô tận sẵn có trong mỗi người, mỗi
loài. Để thành tựu trọn vẹn mục tiêu này, hành giả phải trải qua một
tiến trình, hoặc nhanh hoặc chậm, gồm 53 giai đoạn từ sơ cơ đến thượng
trí. Những giai đoạn tu chứng này vượt ra khỏi thứ đạo đức làm người
của thế gian, bước vào thánh hạnh cao quý của hàng Bồ tát, Phật. Và
chính vì có khá nhiều giai đoạn và thứ bậc như thế, việc nhận dạng
các vị chân tu đắc đạo đang ở giai đoạn nào không phải là đơn giản,
trừ phi chúng ta đắc đạo như Phật.
Tuy
nhiên, như đã nói ở trước, để tầm sư học đạo, chúng ta cần thiết
phải biết nhận dạng một vị chân sư để theo học, như cách người
xưa thường nói “chọn mặt gởi vàng.” Điều này nói ra có vẻ như một
điều mai mỉa bất kính làm đụng chạm một số đạo sư nào đó. Nhưng
nếu thực sự có một sự đụng chạm, hóa ra vị đạo sư ấy dễ bị
dao động đến thế sao? hóa ra vị đạo sư ấy hãy còn một cái ngã to lớn
cứng rắn nào đó để cho sự lượng giá của học trò đụng chạm đến
sao? và nếu cứ tránh né đụng chạm những đạo sư, hóa ra lại đẩy những
thiệt thòi về phía những người học trò đang khao khát tìm cầu chân
lý?
Người
học trò thượng căn như Thái tử Tất Đạt Đa năm xưa có thể rời bỏ
các sư phụ để tự mình tìm kiếm chân lý, còn những học trò căn trí
thô thiển cạn cợt như chúng ta ngày nay thì sao? Nếu chọn lầm sư phụ
thì chẳng phải là cái tiền đồ tu tập của chúng ta sẽ mở vào một
cõi u u minh minh hay sao?
Cho
nên, rất cần thiết phải biết chọn thầy bằng cách nhận dạng dấu hiệu
thực nghiệm toát ra từ nếp sinh hoạt của họ. Sự nhận dạng này không
có nghĩa là phải nhìn thấu từng quả vị tu chứng của họ hoặc đòi hỏi
họ phải chứng minh sở đắc. Chúng ta có một chìa khóa nhỏ để mở ra
cái kho vô tận xứng đáng cho mình qui phục, nương tựa. Và chìa khóa đó
chính là điểm chung mà hầu như các vị chân tăng đều có: tính cách vô
ngã thể hiện trong nếp sinh hoạt hàng ngày.
Chân
sư và tà sư theo quan niệm Phật giáo khác nhau ở chỗ đó. Họ có thể sử
dụng những phương tiện giống nhau: tụng kinh, tọa thiền, giảng dạy Phật
Pháp, làm việc văn hóa, làm việc xã hội từ thiện... Nhưng mục đích
hành đạo của họ thì khác nhau: một bên thì có khuynh hướng dẹp trừ bản
ngã để thể nhập vào thể tánh vắng lặng vô biên; một bên thì nuôi lớn
bản ngã, đắp cao thành trì của ái dục và lợi danh tầm thường.
Cần
nhấn mạnh một lần nữa nơi đây rằng, chúng ta chỉ chú trọng đến chân
và tà. Mà trong chân có thể vừa có thánh vừa có phàm, trong khi trong tà—dù
có là một đạo sư nổi tiếng cách mấy đi nữa—chỉ hoàn toàn là
phàm. Như vậy, nếu chúng ta thực sự muốn tìm cầu một bậc thầy có khả
năng hướng dẫn ta tiến đến giải thoát giác ngộ, nên lấy chân, bỏ
tà.
(Cũng
nên mở ngoặc thêm ở đây rằng: trong giới tu học Phật giáo, không phải
ai cũng có khát vọng tìm cầu chân lý hoặc hoài bão giải thoát giác ngộ.
Không những trong giới tại gia cư sĩ mà ngay cả một số tu sĩ Phật giáo
thời nay cũng vậy: có khi chỉ thực hành giáo lý Phật như cách các tu sĩ
tôn giáo khác trau luyện đạo đức làm người và giữ gìn các tín điều.
Điều này xét về mặt nhân sinh quan, cũng là điều hữu dụng, vì có khả
năng ổn định xã hội, lành mạnh hóa đời sống gia đình, đem lại chút
hạnh phúc nhẹ nhàng nào đó cho mỗi cá nhân. Nhưng, mục tiêu tối hậu của
giáo lý Phật thì không dừng đứng ở chỗ đó. Đức Phật đã từng
nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn thì đạo lý của ta
chỉ có một vị duy nhất là giải thoát.” Hành giả tu tập có thể giữ
gìn giới luật để được giải thoát từng phần [biệt giải thoát] tùy
theo giới cấm mình tiếp thọ; nhưng mục tiêu tối hậu vẫn là giải
thoát hoàn toàn tất cả mọi phiền não trói buộc của tự tâm. Mà để có
được điều này, phải dẹp trừ cả ngã chấp và pháp chấp. Tóm lại,
tu tập theo chân tinh thần Phật giáo là nhảy vào vòm trời tự tại vô ngại
của tánh Không để được thành Phật như đức Phật, chứ không phải chỉ
học làm người, học làm vua, làm tôi, làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ,
làm con, làm thầy giáo, làm học trò, làm người truyền đạo, làm nhà
trí thức, làm người có bằng cấp thế gian, làm người có tiếng tăm
danh vọng, làm công dân đạo đức đàng hoàng trong xã hội... mà bất cứ
tôn giáo nào cũng có thể hướng dẫn được. Nêu ra điều trên là để
thưa trước rằng những gì sắp nói ở sau, chỉ dành cho những người muốn
tu tập theo đạo lý giải thoát giác ngộ và thực sự muốn tìm một bậc
chân sư có khả năng hướng dẫn mình thực hiện chí nguyện đó.)
Chân
sư Phật giáo tạm thời phân chia thành hai bậc: thánh tăng và phàm tăng.
Các
chân thánh tăng thì miễn bàn, vì chắc chắn họ là những bậc chân sư đáng
qui phục, ai có phước duyên thì được tu tập dưới sự hướng dẫn của
họ. Giả như không gặp thánh tăng, chúng ta hãy còn may mắn là có những
chân phàm tăng để bái làm thầy. Những vị này tuy chưa chứng thánh nhưng
luôn có khuynh hướng truy cầu giải thoát giác ngộ, biết được con đường
chân chính để đi và hướng dẫn môn đệ cùng đi, nỗ lực tu tập những
phương thức dẹp trừ bản ngã và khát dục. Cả hai bậc chân sư trên đều
rất xứng đáng cho chúng ta đảnh lễ qui y.
Nhưng
ở trên, vẫn chỉ là nói một cách khái quát. Chúng ta cần đi vào chi tiết:
làm thế nào để nhận ra một vị chân sư? Câu hỏi này đưa chúng ta quay
trở lại với tiền đề nêu ở trước: tính cách vô ngã thể hiện trong
nếp sinh hoạt hàng ngày của các vị chân sư.
VÔ
NGÃ TRONG NẾP SINH HOẠT
Theo
quan niệm Phật giáo, sở dĩ chúng sinh trôi lăn trong biển khổ luân hồi
là vì đã tự cho rằng mình thực sự có một thứ cá ngã độc lập. Một
vài tôn giáo tôn thờ thần quyền cũng đã xác nhận có một thứ bản
ngã qua sự tồn tại bất diệt của linh hồn; trong khi có tôn giáo chủ trương
hy sinh bản ngã bằng cách dâng hiến trọn vẹn thể xác và linh hồn cho thần
linh để được đền bù tưởng thưởng xứng đáng sau khi chết. Công nhận
hay chối từ bản ngã theo các lối trên, đều chứng minh có một cái ngã
có thực tướng hay có thực tánh, thực sự tách rời với vũ trụ và vạn
hữu chung quanh. Và đây chính là cái mầm của phiền não, trói buộc.
Tu tập
theo Phật giáo là tiến trình của sự lột bỏ (nhanh hay chậm, hoàn toàn
hay từng phần) sự vận hành và tồn tục của cái ngã đó. Tất cả các
pháp môn tu tập từ cao đến thấp của Phật giáo đều qui hướng về tự
tánh Không, tức là phá bỏ mọi kiến chấp về ngã (cái ta), ngã sở (cái
thuộc về ta), pháp (một cái gì ở ngoài ta mà ta đang hướng đến hay chối
bỏ, nghĩ rằng ta đạt được nó hoặc ta đang vượt qua nó...). Trở về
với tánh Không thì xóa sạch vết tích của ngã và pháp—đó là con đường
nhanh của bậc thượng căn thượng trí. Xóa sạch vết tích của ngã và
pháp thì trở về với tánh Không—đây là con đường chậm của hàng
trung căn hạ căn. Nhưng dù là thượng căn hay hạ trí, dù phương pháp tu tập
có khác nhau, họ vẫn có điểm chung là phá trừ kiến chấp về ngã.
Như vậy,
chúng ta có thể chọn lựa bất cứ vị sư phụ tầm thường (không chân
chính) nào trên cuộc đời để hướng dẫn chúng ta nếu chúng ta không cần
giải thoát giác ngộ mà chỉ cần chạy rông để tìm danh lợi trong số đông
hoặc một thứ giá trị đạo đức thông thường của thế gian; còn nếu
thực sự muốn tu tập để thoát ly sinh tử, chúng ta phải sáng suốt tìm
đến một vị chân tăng chứ không cần uổng phí thì giờ và công phu tu tập
của mình theo chân những vị thầy mà nếp sinh hoạt hàng ngày của họ biểu
lộ rõ ràng khuynh hướng bảo vệ và nuôi lớn tự ngã như các trường hợp
điển hình sau:
—
khi một vị thầy tự xưng mình là bậc thầy vĩ đại hoặc là bậc thầy
cao tột không ai bằng (đại sư, vô thượng sư), hoặc vui thích đắm mình
trong những danh xưng, tước hiệu, phẩm hàm tôn quí do kẻ khác ban tặng...
vị thầy ấy đang ở trong cơn mê của lòng vị ngã, ái ngã, và đang ôm
theo mình niềm tăng thượng mạn, tích cực nối đuôi ma vương để trèo
lên đỉnh thang hào nhoáng không thực của danh vọng và quyền lợi thế
gian;
—
khi một vị thầy nói với bạn rằng chỉ có phương pháp của ông (hay
bà) là cao tột, vượt hẳn các phương pháp của các bậc thầy khác, thì
vị thầy này đang sống trong niềm tự hãnh của một bản ngã còn đầy
căn khí kiêu kỳ, ngạo mạn;
—
khi một vị thầy phê phán và chỉ trích cá nhân những bậc thầy khác,
nêu những lỗi xấu của những bậc thầy khác để làm nổi bật phong
cách của mình, thì vị thầy này đang biểu lộ phần nào tâm lượng tị
hiềm nhỏ mọn của mình;
—
khi một vị thầy, dù không lên tiếng chỉ trích kẻ khác, cũng không tự
mở lời khoa trương về phẩm cách của mình, nhưng hài lòng với sự tâng
bốc ca tụng của môn đệ và trong lòng tự nghĩ mình cao quí, lẳng lặng
cười mỉa mai kẻ khác, không chịu lắng nghe quan điểm của kẻ khác để
tự sửa mình mà một mực cho rằng kẻ khác chỉ trích hay phê phán mình
là vì họ thua sút và ganh tị mình, thì vị thầy này cũng đang tự bồi
đắp tường thành ngã chấp ngay ở nền tảng thâm sâu của nó;
—
khi một vị thầy thường tỏ vẻ bất bình, bẳn gắt, cau có, lúc nào cũng
muốn mọi người phải thuận theo ý mình chứ không chấp nhận luận điểm
trái ngược, chỉ đòi hỏi sự tuân phục tuyệt đối từ kẻ khác, thì vị
thầy ấy đang tiếp tục nuôi dưỡng mầm mống của tâm ái ngã;
—
khi một vị thầy thường trau chuốt bề ngoài của mình bằng hương hoa, bôi
trát son phấn để tạo cái đẹp giả dối hoặc che giấu nhân dáng thực
của mình, hoặc dùng các thứ trang sức vàng bạc, y phục diêm dúa đắt
tiền lộng lẫy để chứng tỏ sự hào phóng giàu sang... có nghĩa là vị
thầy đó chưa bao giờ tìm thấy một thứ giá trị cao tột nào ở phần
tâm linh và đang bị dẫn dắt bởi những tiểu yêu tầm thường nhất của
con ma dục vọng;
—
khi một vị thầy ưa thích xuất hiện giữa đám đông quần chúng để
được ca tụng và đón nhận lòng ngưỡng mộ từ kẻ khác, tung tiền bạc
và lòng thương giả tạo để mua chuộc niềm tin của những kẻ nghèo kém
vật chất và tinh thần... vị thầy đó đã tự chứng tỏ có một sự rỗng
tuếch bên trong của mình và đang cố gắng khỏa lấp bằng ảo tưởng là
có một thứ tự ngã cao quí được người khác nhìn nhận;
—
khi một vị thầy lộ vẻ hãnh diện khi được sự tưởng thưởng từ các
giới quyền lực thế gian, khiếp sợ và tỏ ý tuân phục các thứ cơ cấu
chính quyền để mưu cầu an nguy cho bản thân, hoặc cảm thấy mình được
tăng giá trị khi thân cận tiếp xúc với giới này, hoặc thâu góp tài sản
dâng hiến của môn đệ để biếu tặng giới này mà mưu cầu danh vọng...
vị thầy đó rõ ràng hãy còn cái tâm vị ngã, chưa thấy được giá trị
cao tột của con đường xuất thế viễn ly, chưa tìm được nơi nương tựa
chân chính cho tâm linh mình và chưa tự làm ngọn đuốc soi sáng cho đời mình;
—
khi một vị thầy thường lấy bằng cấp, sách vở, kiến thức thế gian
và sự qui tụ đông đảo của giới trí thức học đường thế tục để
làm thứ bảo chứng giá trị cho việc tu tập tâm linh của mình, có nghĩa
rằng vị thầy ấy đang còn đứng ngoài vòng rào của trí tuệ siêu việt,
chưa bao giờ nếm được chất liệu giải thoát giác ngộ thực sự và có
thể là chưa từng bao giờ có khuynh hướng muốn vươn tới sự viễn ly
triệt để;
—
khi một vị thầy làm được điều gì cũng hay có khuynh hướng tự kể lể,
báo cáo, khoa trương, đưa hình ảnh và tên tuổi của mình ra trước công
chúng qua các phương tiện truyền thông hoặc khích lệ, vui vẻ, tán đồng
sự tâng bốc, khoa trương kể lể của môn đệ đối với việc làm của
mình... vị thầy ấy hãy còn mê muội đắm mình trong ảo giác của những
vầng hào quang huyễn dối của dư luận và danh vọng thế gian;
—
khi một vị thầy sợ hãi dư luận quần chúng, sợ hãi sự mang tiếng cho
cá nhân mình, sợ hãi sự phiền hà rắc rối cho đời tư của mình mà ngoảnh
mặt với điều thiện nên làm, làm ngơ trước điều ác đang làm khổ những
đồng loại chung quanh mình, thì vị thầy ấy chưa có được tâm vô úy;
chưa có được tâm vô úy có nghĩa là vị thầy ấy hãy còn nuôi giữ một
thứ bản ngã to lớn, co rút trong cái vỏ của vị kỷ, cầu an; điều này
cũng chứng tỏ vị ấy chưa có được sự mẫn tuệ của kẻ thực hành bồ
tát hạnh và cũng chưa phát triển đúng mức lòng từ bi của mình đối với
chúng sinh...
Vài
nét đại cương ở trên dĩ nhiên không có giá trị tuyệt đối nhưng ít
nhất chúng cũng cho chúng ta khái niệm về những biểu hiện của cái ngã—đối
tượng để tu tập và chuyển hóa trong tất cả mọi pháp môn, mọi sinh hoạt
của Phật giáo.
Trình
bày những biểu hiện của sự chấp ngã, người viết chỉ hy vọng một
điều duy nhất là những người môn đệ tìm cầu giải thoát giác ngộ
có thể chọn được một minh sư chân chính nào đó để hướng dẫn mình
đi đúng đường; còn những vị đang đóng vai trò hướng đạo thì cũng tự
nhìn lại mình, lượng giá được chân tướng của mình cũng như con đường
mà mình đang đi.
Trường
hợp những người học trò chỉ tìm đến thầy để học đạo như cách học
trò đến trường thu lượm kiến thức, hoặc chỉ như những học giả muốn
tìm hiểu một thứ triết lý gì đó cho thỏa tính hiếu kỳ hay để soạn
viết một tác phẩm biên khảo công phu mà giương danh với đời, hoặc
như những người tín đồ đúng nghĩa (tức là chỉ đến với tôn giáo bằng
niềm tin, không cần suy xét) tìm đến nơi thờ tự đấng thần linh để cầu
sự che chở hoặc ban thưởng phước lành, hoặc những người tìm đến tôn
giáo chỉ vì muốn trả ân đã được tôn giáo đó giúp đỡ vật chất
khi ngặt nghèo, hoặc những người tìm đến với tôn giáo chỉ vì để
được kết hôn với người thuộc tôn giáo ấy, hoặc những người tìm
đến với tôn giáo chỉ để học một cách sống đạo đức hay chỉ để
học một nếp sống hòa bình, an lạc, nhàn nhã trong cuộc đời... thì bài
viết này không liên hệ gì đến họ cả. Bởi vì những gì mà số người
này tìm kiếm, họ có thể tìm được ở bất cứ nhà đạo đức nào, bất
cứ vị học giả hay triết gia nào, bất cứ vị bác sĩ tâm thần nào, bất
cứ nhà từ thiện xã hội nào, bất cứ vị thầy nào của tất cả các
tôn giáo có mặt trên thế gian này.
Nhưng
để vĩnh viễn thoát ly sinh tử hay ít nhất cũng chọn được chính đạo
để xác định tiêu đích giải thoát của mình, người học trò phải tìm
cho kỳ được một vị chân sư (phàm hay thánh) đang ngày đêm nỗ lực hướng
đến tiêu đích giải thoát đó và đang sống giữa cuộc đời ô trược này
mà không đắm nhiễm cuộc đời. Tính cách bất nhiễm của vị chân sư đó
được thể hiện trong tinh thần vô ngã. Sự tu tập của người theo Phật
giáo khác với tín đồ của các tôn giáo khác ở chỗ đó.
Trong
Phật giáo không có phương pháp cao thượng hay phương pháp thấp kém. Chỉ
có phương tiện thiện xảo hay phương tiện không thiện xảo. Phương tiện
có thiện xảo hay không là ở chỗ
nó được thực hiện trong tinh thần vô ngã hay chấp ngã. Phương tiện thiện
xảo là thứ phương tiện tối thắng, vừa cứu độ lợi ích cho chúng
sanh vừa giúp hành giả dẹp trừ được sự chấp ngã và giải thoát sinh
tử luân hồi. Phương tiện không thiện xảo thì chỉ đưa chúng ta đến gần
với thế giới của ma vương và nếu có giúp gì chăng thì chỉ giúp chúng
ta trở thành những con người đàng hoàng, đứng đắn, mô phạm, đạo đức,
sống an hòa trên cuộc đời.
Những
nhà đạo đức được khuôn nắn từ các phương tiện không thiện xảo
thì có thể suốt đời tuân thủ các qui tắc, mô phạm của thế gian,
không tổn hại ai và có thể đem lại lợi ích tạm thời nào đó về vật
chất hay tinh thần cho kẻ khác, nhưng bản thân họ, cái ngã đang được
nuôi lớn từng giây phút của họ, thì tiếp tục lang thang trong cõi luân hồi.
Trong khi đó, việc hành đạo của một bậc chân sư thì vừa cứu độ chúng
sinh, vừa cứu độ chính mình, ra khỏi trùng vây của ngã chấp, thoát ly
hoàn toàn cái vòng lẩn quẩn của tử sinh.
Người
xuất gia sở dĩ đứng trên tất cả là do đã sống vì tất cả; sống vì
tất cả là do không còn bám chặt vào gốc rễ của tự ngã. Tu tập, hành
đạo, làm việc thiện, mà cứ khư khư bám chặt lấy tự ngã thì suốt đời
suốt kiếp cũng chỉ là viên sỏi lặn xuống đáy nước. Trong khi đó, những
ai đã phá trừ tất cả mọi thứ gốc rễ, mọi thứ đeo bám, mọi thứ rườm
rà nặng nhọc của hình thức và tự tâm, thì có thể như cánh nhạn, như
làn mây, như sợi khói mỏng, hay như chiếc bong bóng, nhẹ nhàng bay lên bầu
trời vô tận.
Thực
ra, những vị chân tăng nói trên không phải là không có. Có khi họ ẩn
thân ở một nơi đèo heo hút gió, mà cũng có khi họ sống rất gần gũi với
chúng ta. Chỉ tại chúng ta thích chạy theo giá trị hời hợt của đám đông,
cứ tưởng rằng hễ là chân sư thì phải nổi tiếng hoặc kẻ nào nổi
tiếng thì phải là chân sư... nên không nhìn ra được những vị chân sư
rất bình phàm, chơn chất, giản dị, có khi chẳng có một mảy may tài năng,
phép lạ, tiếng tăm, bằng cấp, hay danh vọng gì cả... Không có thứ thước
đo nào của thế gian này có thể lượng định được chân giá trị của
một bậc chân sư. Chỉ có chìa khóa duy nhất: tinh thần vô ngã—mà Phật
dạy từ hơn hai ngàn năm trước—là có thể mở ra cho người môn đệ
nguồn hứng cảm vô tận của giải thoát giác ngộ. Tinh thần ấy đã đào
tạo nên nhiều thế hệ chân tăng cho nhiều quốc gia, nhiều thời đại; cống
hiến cho cuộc đời những bậc thầy thong dong tự tại, đến và đi một
cách lặng lẽ, không cột trói mình vào bất cứ thứ hình thức rườm rà
huyễn mộng nào của cuộc đời.
Riêng
tôi, tôi luôn nhìn thấy họ quanh tôi, rất thân cận với tôi. Thân cận
nhưng họ lại ở trên tôi rất xa, bởi vì họ đứng trên tất cả mà
không bao giờ thấy mình đứng trên tất cả.
http://www.buddhismtoday.com/viet/xhh/dungtrentatca.htm