- Nhân mùa xuân nói về mô hình phát triển
tâm linh
- Trần Trung Phượng
BA MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THẾ GIỚI
HIỆN ĐẠI
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà chưa bao giờ từ
ngữ "phát triển " lại có một ý nghĩa đa dạng và sinh động đến
như thế . Ở khắp mọi nơi, vượt qua tất cả các rào cản địa lý, chủng
tộc, văn hoá, chính trị… "phát triển" đã trở thành mục tiêu
chung cuả các cá nhân và các cộng đồng . Nói như nhà xã hội học Pháp
Edgar Morin, " phát triển " là một từ then chốt nhất , có tính chất
xuyên suốt mọi ý thức hệ chính trị và đã trở thành một nỗi ám ảnh
chung cuả cả nhân loại, nhất là đối với những người và những dân tộc
còn đang oằn oại trong nỗi đau khổ vì nghèo đói , bệnh tật . Có thể
nói, trong suốt nửa sau thế kỷ XX , một thế kỷ nghịch lý nhất trong
toàn bộ lịch sử loài người, chuyến tàu phát triển của nhân loại đã
tăng tốc mạnh mẽ hơn bao giờ hết , đưa một số ít dân tộc tiến xa về
phía trước , nhưng đồng thời cũng đã bỏ lại đàng sau nó một phần
đông nhân loại vẫn đang tiếp tục vật lộn trong cảnh nghèo khổ , khốn
cùng. Đối với những người này, sự lựa chọn của họ không phải là
" phát triển" , mà đơn giản là để sống sót trước những thách
thức gay gắt của cuộc sống . Thậm chí theo quan điểm của Oswaldo de
Rivero, một nhà ngoại giao Peru, ngọn cờ " phát triển " mà loài người
đã giương lên trong mấy thập kỷ vừa qua chỉ là một huyền thoại
không hơn không kém và ẩn giấu sự thật đằng sau nó là " sự khốn
cùng còn rất sâu sắc " của một phần lớn nhân loại . (Theo ước tính
vào năm 2000, gần 1,5 tỷ người sống trong cảnh nghèo túng với thu nhập
chưa đầy một đô-la mỗi ngày )
Trên bình diện lý thuyết , các quan niệm và học thuyết về
phát triển được tạo ra rất nhiều , nhưng tựu trung có thể nêu ra hai
quan điểm cơ bản như sau : Với quan điểm thứ nhất, một quan điểm lấy
tăng trưởng làm trung tâm (Growth-centered development ) , "phát triển hầu
như là sự tăng trưởng về giá trị kinh tế của hệ thống sản xuất
xã hội mà không hề lưu ý đến hậu quả về nguồn tài nguyên dự trữ
và môi sinh, hay ngay cả những đóng góp thực sự vào đời sống của con
người . Tiến bộ và đời sống của một quốc gia bị qui vào một chỉ
số duy nhất , đó là tăng hay giảm toàn bộ sản lượng kinh tế theo thời
giá của thị trường" (1). Trái lại, với quan điểm thứ hai
, một quan điểm lấy con người làm trung tâm (People-centered development) ,
phát triển được hiểu là một tiến trình , qua đó các thành viên của
xã hội tăng cường được những khả năng cuả cá nhân và định chế của
mình để huy động và quản lý các nguồn lực nhằm tạo ra những thành
quả bền vững và được phân phối công bằng nhằm cải thiện chất lượng
cuộc sống phù hợp với nguyện vọng của họ . Quan điểm thứ hai chủ
trương phát triển phải phục vụ cho con người chứ không phải là con người
phục vụ cho phát triển.
Bước sang thế kỷ XXI, quá trình phát triển của nhân loại
nói chung có thể diễn ra theo kịch bản của một trong ba mô hình sau đây:
Mô hình hy vọng : Với sự chiến thắng của lý trí ( giả sử là có một
lý trí phổ quát của nhân loại và phần đông nhân loại , nhất là giới
cầm quyền biết hành động theo lý trí sáng suốt của mình) loài người
biết khắc phục một cách có hiệu quả những nhân tố phi hoặc phản
phát triển như : sự bùng nổ dân số, sự ô nhiễm môi trường , cạn kiệt
các nguồn tài nguyên , nạn mù chữ, sự sa đọa về mặt đạo đức , những
thiệt hại do thiên tai gây ra , chiến tranh, bạo lực , bệnh dịch … Trong
mô hình hy vọng này , các nhân tố phát triển có một sức mạnh và ưu thế
vượt trội hơn các nhân tố phi hoặc phản phát triển , và chính điều này
tạo ra một niềm hy vọng vào tương lai.
Mô hình kinh sợ : Trái lại, dưới con mắt của những người bi quan,
trong thế kỷ sắp tới , những nhân tố hủy diệt , mà mầm mống đã xuất
hiện ngay từ trong thế kỷ XX này, sẽ ngày càng chiếm ưu thế áp đảo
hơn so với các nhân tố xây dựng và sáng tạo, và cuối cùng sẽ là một
sự bế tắc hoàn toàn đưa đến sự tự hủy diệt hoặc bị hủy diệt từ
bên ngoài của nền văn minh nhân loại. Các nhà tiên tri ảm đạm này cảnh
cáo rằng con người chỉ rút ra được các bài học bổ ích sau những thảm
họa thực tế, chứ không có khả năng phòng tránh được các thảm họa
này duy chỉ nhờ vào các luận cứ hay học thuyết , dù rằng các luận cứ
, học thuyết này được đặt trên một nền tảng khoa học khá chắc chắn.
Mô hình vừa kinh sợ vừa hy vọng : Đối với những người theo quan điểm
thực tế , không bi quan cũng như không lạc quan, quá trình phát triển của
nhân loại hiện nay và trong vài thập kỷ sắp tới là một thực tế đan
xen cả niềm hy vọng lẫn nỗi kinh sợ về một tương lai vừa hứa hẹn lại
vừa đe dọa . Và sự cân bằng giữa kinh sợ và hy vọng này, một sự
cân bằng có tính chất tương đối, có thể bị phá vỡ bất cứ lúc nào
từ chính bàn tay của con người hoặc của các lực lượng của giới tự
nhiên . Đối với những người thực tế này, vấn đề không phải là suy
tưởng một cách bi quan hay lạc quan, mà vấn đề là hành động một cách
không chậm trễ, hành động một cách mạnh mẽ, có hiệu quả để nuôi dưỡng
và phát triển các nhân tố hy vọng và giảm đến mức thấp nhất các
nhân tố kinh sợ.
THẾ KỶ XXI VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN
TÂM LINH :
Nếu thế kỷ XX được mệnh danh là thế kỷ của sự
phát triển vượt bậc của khoa học – kỹ thuật và các lực lượng vật
chất – kinh tế, thế kỷ của sự bùng nổ dân số và sự đảo lộn môi
trường sinh thái , của những cuộc chiến tranh lớn nhất trong lịch sử ,
những cuộc cách mạng chính trị –xã hội và của những cuộc khủng hoảng
liên tiếp xảy ra trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống nhân loại
, thì bước sang thế kỷ XXI này, những gì đã diễn ra ở thế kỷ xx sẽ
tiếp tục một cách sâu sắc hơn , theo kịch bản của một trong ba mô
hình phát triển như vưà nêu, nhất là mô hình thứ ba.
Sự tiến bộ về vật chất mà con người đã thừa hưởng
được trong thế kỷ XX này tuy là một điều kiện cần nhưng không đủ
để đem lại hạnh phúc và sự thỏa mãn lâu dài cho con người . Đúng như
Đạt lai Lạt ma đã nhận định, cuộc sống hiện đại cho thấy càng tiến
bộ về mặt vật chất, con người càng cảm thấy bất an và luôn sống
trong nỗi sợ hãi thường trực . Để tạo nên một thế quân bình lớn
trong lịch sử loài người, sự phát triển các lực lượng khoa học, kỹ
thuật và vật chất cần phải được đối trọng bằng một sự phát triển
tinh thần toàn diện mà đỉnh cao của nó chính là sự phát triển tâm linh
. Nói cách khác, không phải như nhận định của một số người cho rằng
khoa học càng phát triển thì lãnh vực của tôn giáo càng bị thu hẹp dần
: trái lại, chính trong bối cảnh của sự phát triển vượt bậc các lực
lượng khoa học , vật chất , vai trò của tôn giáo chân chính , trong đó
có đạo Phật , càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết . Bởi một lý
do đơn giản : Con người nói chung không chỉ là một thực thể tâm sinh
lý- xã hội, mà còn là một siêu thể tâm linh và" lý do chính yếu để
con người tin tưởng và thực hành một tôn giáo nào đó là vì sự tiến
bộ vật chất không luôn luôn đồng hành với hạnh phúc của con người
"( Đạt lai Lạt ma).
Như vậy, nếu có một " biện chứng pháp của quá
trình phát triển " trong lịch sử loài người , cả trên bình diện cộng
đồng lẫn bình diện cá nhân , thì phát triển tâm linh không phải là một
giai đoạn phủ định đối với sự phát triển vật chất, hay nói cách
khác, nếu xem đây là loại hình phát triển có tính chất mâu thuẫn với
nhau thì đây không phải là một sự mâu thuẫn triệt tiêu mà là một sự
mâu thuẫn có tính chất biện chứng . Và chính trong quá trình biện chứng
của sự phát triển lịch sử này mà một sự tổng hợp văn hóa lớn lao
mới có thể diễn ra trong thế kỷ XXI , khi văn minh phương Tây và văn minh
phương Đông thực sự hội nhập với nhau, và sự dị biệt văn hoá không
phải là nguyên nhân chính tạo ra sự đối kháng và xung đột về mặt chính
trị , xã hội.
Một trong những thành tựu quan trọng nhất của học thuyết
phát triển trong nửa cuối thế kỷ XX này là đã sáng tạo ra khái niệm
"phát triển con người" với ý nghĩa là mọi hoạt động phát triển
trên bình diện kinh tế - xã hội đều phải quy về cho con người và vì
con người. Phát triển vì nhân sinh chứ không phải phát triển vì phát triển
, đó là một tư tưởng nhân văn cao đẹp , và tư tưởng nhân văn này sẽ
trở nên toàn diện và sâu sắc hơn nếu nó gắn liền với sự phát triển
tâm linh hiểu như mục đích sau cùng của qúa trình phát triển con người.
Tất nhiên, không thể lãnh hội được ý nghĩa của sự phát
triển tâm linh duy chỉ bằng kiến thức thuần tuý hoặc bằng các thao tác
phân tích và lập luận của lý trí, mà chỉ bằng con đường thực nghiệm
và quán thông sâu sắc của tôn giáo ý nghĩa này mới được khai thị
trong sự từ bỏ triệt để những ảo tưởng và ảo vọng . Trong cơn khủng
hoảng của con người và thế giới hiện đại , đề cập đến sự giải
thoát tâm linh không phải là một sự lảng tránh hoặc đối phó tiêu cực
với những vấn đề của nhân loại , mà đó mới thực sự là góp phần
quan trọng vào việc mở một hướng ra cho việc giải quyết những bế tắc
hiện nay , nhất là những bế tắc về mặt tinh thần.
(1) David C. Korten:"Bước vào thế kỷ XXI : Hành động
tự nguyện và chương trình nghị sự toàn cầu ", Chính trị quốc gia,
1996.