Sáu Tên Giặc
Minh Thắng
Xuân Di-Lặc biểu hiệu một mùa hoan hỷ. Hoan hỷ, không phải
là vui mừng chốc lát, mà là niềm hân hoan vô biên, trải khắp mọi người,
mọi loài. Xuân, không những là sự bừng dậy của thời tiết tuần hoàn,
mà còn là sự đổi mới của người trên đường tỉnh giác, sự chuyển
hóa tâm thức trong nỗ lực tu học. Hơn nữa, Phật tử đều vui mừng vì
tin rằng thế giới đảo điên này còn có lối thoát. Hãy nghe lời tụng:
"Nam-mô Đương-lai Hạ-sanh Di-Lặc Tôn Phật."
Di-Lặc phiên âm từ tiếng Phạn Maitreya, gồm các nghĩa:
hoan hỷ, bao dung, tương thân tương ái. Tên hiệu của ngài là Từ Tôn, tức
là Bậc Tu Tâm Đại Từ. Có tới 6 quyển kinh ghi lời Phật Thích-Ca giảng
về những điều liên quan đến đức Di-Lặc. Kinh Di-Lặc, phẩm Thượng
Sanh, cho biết ngài là một đệ tử của Phật sau khi đã tu hạnh Bồ-tát
qua hàng trăm triệu kiếp. Khi Phật Thích-Ca thọ ký cho đức Di-Lặc làm Phật
ở cõi sa-bà trong tương lai, ngài dạy rằng đức Di-Lặc sẽ sinh vào cõi
trời Đâu-Xuất để tu tập cho đắc quả và sẽ trở lại thế giới này
để giáo hóa chúng sanh.
Tại Bồ-đề Đạo-tràng ở Ấn-Độ, nơi Phật Thích-Ca
thành đạo, các vị cao tăng đang xúc tiến "Maitreya Project" rất
quy mô, nhằm thực hiện một khuôn viên tu học có tầm vóc quốc tế và hướng
về tương lai nhân quần. Ở giữa khuôn viên là tượng Phật Di-Lặc ngồi,
cao 150 mét (500 bộ Anh), tay phải bắt ấn, tay trái đưa ra đón như Phật
A-Di-Đà. Tượng được tạc bằng những kỹ thuật và chất liệu tinh xảo
nhất để có thể tồn tại trong 1000 năm, tổng hợp nhiều tài năng thế
giới về mỹ thuật, điêu khắc, vi tính mô hình, cơ khí, kiến trúc, và
địa chất. Coi www.maitreyaproject.org
để biết thêm chi tiết.
Theo truyền thống Á Đông, hình tượng Di-Lặc là một vị
Bồ-tát ăn mặc xuề xoà, ngồi phệt dưới đất, mập mạp, bụng phệ,
gương mặt hiền hậu dễ dãi, và đặc biệt là miệng cười thật rộng,
cười hả hê, cười hết mình, nhìn thẳng người đối diện như muốn
trao hết niềm vui cho người ấy. Điểm này khác với vẻ mặt trang
nghiêm, nụ cười nhẹ nhàng, và đôi mắt trầm tư của các vị Phật và
Bồ-tát khác. Lại nữa, có những tượng, chúng ta thấy sáu đứa trẻ bám
trên thân ngài. Đứa móc mắt, đứa bóp mũi, đứa rờ miệng, đứa nhéo
tai, đứa gãi rún, đứa leo lên đầu, mà ngài vẫn thản nhiên. Nhìn sâu hơn,
chúng ta hiểu rằng tượng Di-Lặc tóm gọn những lời dạy thường xuyên
của Phật, nhắc nhở chúng ta xây dựng cuộc sống an bình.
Sáu đứa trẻ nghịch ngợm trên thân ngài Di-Lặc tượng
trưng cho "sáu tên giặc" chuyên gây phiền lụy. Vì chúng ta thiếu
khả năng thanh trừng sáu tên giặc này, bấy lâu nay bị chúng tung hỏa mù
đánh lạc hướng, chúng ta tiếp tục làm khổ bản thân và những người
chung quanh.
Phật dạy rằng con người có sáu căn, tức là sáu bộ
phận cảm nhận (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý); tương ứng với sáu căn
là sáu trần, tức là sáu loại kích thích từ bên ngoài (sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp); sáu căn tiếp nhận sáu trần tương ứng, tạo nên
sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức,
ý thức).
Với mắt, ta thấy hình ảnh, rồi khởi lòng tham ái hoặc
ghét bỏ. Với tai, ta nghe âm thanh, rồi khởi lòng ưa thích hoặc chán nản.
Với mũi, ta ngửi mùi, rồi khởi lòng ham muốn hoặc bực dọc. Với lưỡi,
ta nếm vị, rồi khởi lòng thỏa mãn hoặc khó chịu. Rồi đến các ý tưởng
không ngừng – chúng ta luôn bận óc để tính kế, bày mưu, tìm lời tranh
cãi, phần lớn cũng chỉ là khen mình, chê người mà thôi. Nói chung, đối
với các dữ kiện cảm nhận, chúng ta đều khởi tâm phân biệt, rồi
đưa tới bất an: muốn mà không được cũng khổ, được mà không đúng
như ý cũng khổ! Nhẹ thì nhức đầu, đau tim. Nặng thì đưa đến cãi
vã, tranh chấp, chém giết, chiến tranh. Như thế, sáu tên giặc nguy hiểm
đã, đang, và sẽ đẩy chúng ta luẩn quẩn trong vòng luân hồi sanh tử.
Vì không biết chế ngự chúng, nên chúng ta tạo biết bao ác nghiệp.
Khi Phật còn tại thế, có một người tìm đến cầu học,
hai tay cầm hai bó hoa lớn để cúng dường. Khi thấy người ấy, Phật bảo
"Buông!" Ông ta buông tay trái, bó hoa rớt xuống đất. Phật lại bảo
"Buông!" Ông ta buông tay phải, bó hoa kia cũng rớt xuống đất. Phật
lại bảo "Buông!" Ông ta ngơ ngác, thưa: "Bạch Thế Tôn, con đã
buông cả hai tay rồi. Còn gì nữa đâu mà buông?" Phật dạy: "Như
Lai bảo ông buông lần thứ nhất là dạy ông buông sáu căn, lần thứ hai
là dạy ông buông sáu trần, lần thứ ba là dạy ông buông sáu thức. Khi căn,
trần, thức không còn vướng mắc thì tất cả 18 giới sẽ không tạo
ra, lúc ấy ông được giải thoát."
Trong kinh Tăng Chi Bộ, Phật dạy trực tiếp: "Các thầy
phải tu sáu pháp vô-thượng. Những gì là sáu?
Mắt thấy sắc, không ưa thích, ghét bỏ; trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh
sáng.
Tai nghe tiếng, không ưa thích, ghét bỏ; trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.
Mũi ngửi mùi, không ưa thích, ghét bỏ; trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.
Lưỡi nếm vị, không ưa thích, ghét bỏ; trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.
Thân chạm xúc, không ưa thích, ghét bỏ; trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.
Ý đối với mọi việc, không ưa thích, ghét bỏ; trụ tâm nơi xả, hằng
tỉnh sáng.
Ai đạt được sáu pháp này là bậc vô-thượng, xứng đáng
cho trời, người tôn trọng, cung kính, cúng dường."
Phật lại dùng biển làm thí dụ. Trong kinh Tương Ưng Bộ,
ngài dạy: "Bậc thánh thấy mắt là biển, sắc trần là sóng; tai là
biển, thanh trần là sóng; mũi là biển, hương trần là sóng; sáu căn là
biển, sáu trần là sóng. Nếu ai kham nhẫn nổi những đợt sóng vùi dập
của sáu trần – sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp – thì người ấy
ắt qua được biển lớn, tức là sang được tới bờ giải thoát sanh tử."
Chúng ta thấy chìa khoá mở cửa giải thoát nằm ngay trong tay. Khi tiếp
xúc với sáu trần mà không bị chao đảo, thì con thuyền trí tuệ của
chúng ta đủ vững để hướng thẳng tới bờ giải thoát.
Vì thế, trong kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, Phật khẳng định:
"Khiến cho luân hồi sanh tử là do sáu căn. Đạt tới an lạc giải thoát
cũng từ sáu căn mà được."
Phật lại dạy: "Bốn tâm vô-lượng của Bồ-tát là cội
gốc cho tất cả các hạnh lành." Bốn tâm vô-lượng là từ, bi, hỷ,
xả. Đức Di-Lặc biểu hiện tâm hỷ xả. Thực ra, hỷ xả đi kèm với
từ bi, vì có thương yêu ta mới biết tha thứ, có hạnh phúc ta mới có
cái để chia xẻ với người khác. Thực hành xả là quán vô-ngã, đưa tới
hết kiêu mạn. Nhờ thế, chúng ta sẵn sàng lắng tai nghe, mở rộng tâm
trí để tiếp nhận ý kiến người khác một cách hài hoà. Tiến xa hơn,
chúng ta không chấp trước hình thức, danh từ, ước lệ nữa – chúng ta
xả hết. Tất cả chỉ là phương tiện tạm thời, cũng như cái bè cần
để sang sông nhưng cái bè không phải là bờ bên kia. Như vậy, chúng ta thực
hành lời dạy của kinh Kim-Cang. Khi xưa, Lục-tổ Huệ-Năng đã chứng ngộ
khi nghe đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm." Sáu trần
chính là nguyên do làm tâm chạy lăng xăng: mắt thấy sắc, tâm chạy theo sắc,
là tâm động; mắt thấy sắc, tâm không chạy theo sắc, là tâm an. Muốn
hàng phục tâm, đừng vướng mắc vào sáu trần, tức là buông xả mọi vọng
tưởng. Khi hết vọng tưởng, thì an trụ được tâm.
Sau mỗi khoá lễ, chúng ta thường tụng Bát-nhã Ba-la-mật-đa
Tâm kinh, mở đầu bằng câu: "Khi Bồ-tát Quán-Thế-Âm thực hành sâu
xa trí-tuệ bát-nhã, ngài nhận thấy năm uẩn đều không, nên ngài vượt
qua hết các khổ nạn." Năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Thọ là cảm nhận qua các giác quan. Thí dụ, khi người kia cất tiếng nói,
nhĩ căn tiếp xúc với thanh trần khiến ta nghe thấy họ nói. Nhưng, khi
người ta chưa mở miệng phát âm, cái nhận-ra-tiếng-nói ấy không thể
có. Cái nhận-ra-tiếng-nói tự nó không có, mà do duyên hợp của trần và
căn. Vì là duyên hợp, nên cái cảm nhận không có thật, chỉ là cấu
trúc chủ quan. Chúng ta thường cố chấp, nhận giả làm thật, rồi khởi
tâm phân biệt. Phật bảo đó là ngu si. Người có trí tuệ, quán thấy thọ-uẩn
là vô-ngã, nên không lệ thuộc vào nó, không bị nó chi phối, tức là an
nhiên tự tại, vượt qua được mọi khổ nạn.
Trong kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, khi Phật Thích-Ca hỏi các bậc
đại Bồ-tát về cách tu chứng, ngài Đại-Thế-Chí nói: "Nếu chúng
sinh thành tâm tưởng nhớ về Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất định
thấy Phật. Khi cách Phật không xa, thì không cần phương tiện, tâm sẽ tự
được khai ngộ. Bản thân con đã dùng pháp niệm Phật mà chứng được cảnh
giới vô sinh. Nay ở cõi này, con nguyện tiếp dẫn những người niệm Phật
về cõi Tịnh-độ. Phật hỏi về viên thông, con xin thưa là con thu nhiếp
tất cả sáu căn bằng cách niệm Phật liên tục để đạt tới chánh
định."
Thêm nữa, trong kinh Phật Thuyết A-Di-Đà, Phật dạy:
"Nếu ai trì niệm danh hiệu A-Di-Đà một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn
ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày, nhất tâm không loạn,
thì khi thọ chung, người ấy sẽ được Phật A-Di-Đà cùng các thánh đưa
sang cõi Cực-lạc." Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, Phật còn khuyên:
"Ai nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Bồ-tát Quán-Thế-Âm, liền
khỏi được sân hận." Khi tâm chúng ta chỉ toàn là niệm về Phật
và Bồ-tát, không còn các tạp niệm lẫn vào, thì quả là nhất tâm không
loạn. Lúc ấy, sáu tên giặc hết lộng hành, và chúng ta an nhiên tự tại.
Tóm lại, chúng ta nhận thấy lời Phật dạy về sáu căn
hiện diện khắp nơi, từ các bộ kinh Nam-truyền cho đến các kinh chính của
Đại-thừa. Những giáo pháp phương tiện của Phật thu về một mối: Sáu
căn là mấu chốt tu tập, chế ngự sáu tên giặc là điều kiện giải thoát.
Phật tử chúng ta hãy ứng dụng điều này trong đời sống hàng ngày.
http://www.buddhismtoday.com/viet/xuan/012-sautengiac.htm