- Hoa
Mai & Thơ
- Dã
Hạt
-
Muà
Xuân là nguồn cảm hứng vô tận của thi nhân, họa sĩ. Đứng trước
phong cảnh mùa Xuân, với trăm hoa đua nhau khoe sắc, những lộc non mơn mởn
xanh um của muôn loài thảo mộc... người ta cảm xúc, rung động, rồi cảm
hứng, viết lên những vần thơ, nốt nhạc để ngợi ca, ghi lại những hình
ảnh tươi đẹp của Chúa Xuân.
Trong
thế giới lộng lẫy muôn hoa, muôn sắc của trời xuân đó, mai được trân
quý và dành cho nhiều tình cảm nhất. Người Trung Quốc lấy hoa mai tượng
trưng cho tinh thần và khí tiết của dân tộc mình, coi đó là “quốc hoa”,
bởi chính tính chất chịu đựng sương gió lạnh lẽo, đâm chồi nảy lộc
trong tiết đông rét buốt, se sắt của nó. Cũng chính tính chất đó, các
thi nhân khen tặng hoa mai là đứng đầu trăm hoa và dành cho nó nhiều bài
thơ vịnh nổi tiếng. Tô Đông Pha đã viết:
- “Phân
phân sơ nghi nguyệt quảy thụ,
- Liên
liên độc dữ tham hoang hôn”
- (Những
cánh hoa mai rơi lả tả mới ngỡ rằng trăng rải ánh vàng trên cây,
- Nhà
thơ như hòa làm một với hoa mai lúc hoàng hôn)
- Mai
lả tả ánh vàng vương cành lá
- Người với hoa là một giữa hoàng hôn.
(Phước
Đức dịch)
Còn
Lâm Hòa Tĩnh thì ngắm mai:
- “Sơ
ảnh hoành tà thủy thanh thiển
- Ám
hương phù động nguyệt hoàng hôn”
- (Bóng
thưa của hoa nằm ngang giữa làn nước trong ở nơi cạn,
- Hương
thầm của hoa làm lung lay bóng nguyệt lúc hoàng hôn)
- Bóng
hoa vắt ngang làn nước biếc
- Hương
thầm lay nguyệt lúc hoàng hôn.
(Phước
Đức dịch)
Thế
ấy, mỗi người mỗi cách nhìn, mỗi tâm trạng khác nhau khi ngắm nhìn, thưởng
thức hoa mai nở. Phần lớn, các thi nhân thường mượn hoa, mượn cảnh để
gởi gắm tình cảm của mình. Các thiền sư cũng thế! Nhưng đối với thiền
sư, những người đã mượn không làm có, thì hầu như hoa cỏ, thiên
nhiên, vũ trụ vạn hữu đều hiển lộ pháp thân: “Mở mắt nhìn cuộc
đời, thấy mình hiện muôn nơi, ôi pháp thân mầu nhiệm, sanh tử chẳng
đầy vơi”. Vì vậy, trước khung cảnh muôn hoa, muôn sắc của mùa Xuân gọi
mời như thế- ai có thể dửng dưng? - thiền sư cũng mượn hoa, mượn
trăng, mượn chút trầm hương thoang thoảng, ngất ngây, ghi lại đôi dòng
thi hứng, mà có lẽ, ai cũng thấy rằng, trong đó có ẩn chứa, bàng bạc
đạo lý thâm sâu, huyền nhiệm.
Một
thiền sư thi sĩ đời Đường đã vun mộng xuân cho “Gốc mai già” thêm
ý vị:
- “Hỏa
ngược phong thao thủy tí căn
- Sương
thuân tuyết trựu cổ đài ngân
- Dông
phong vị khẳng tùy hàn thử
- Hựu
nghiệt thanh hương dữ phản hồn”
- Lửa
gió trái mùa nước ngâm thân
- Sương
cưa, tuyết khắc hằn rêu phong
- Dẫu
xuân chưa đến mặc lạnh nóng
- Lại
cứ đâm chồi tỏa ngát hương.
(Nguyên
Hùng dịch)
Hoa
mai có tính kiên định. Thời tiết có thể thuyên chuyển đôi chút, có khi
Xuân đến sớm, hay muộn hơn so với thời gian, nhưng không vì thế mà hoa
mai trễ nãi việc đơm hoa kết nụ của mình. Trơ gan cùng tuế nguyệt, giữa
sương tuyết lạnh lùng, mai vẫn âm thầm đơm hương, và đến thời khắc,
dẫu gió Xuân chưa về, mai vẫn khai hoa. Phải chăng thiền sư muốn nhắn gởi
cùng hậu thế, rằng kẻ hành đạo, tinh chuyên giới đức, thiền định,
đến độ chín muồi thì kết quả tự nhiên thành? Hơn thế nữa, hoa mai còn
biết tự khẳng định mình, không bị thời tiết đổi thay làm cho thay đổi,
hễ cứ đến đúng thời điểm là đơm hoa, tỏa ngát hương; huống là người
xuất gia, bậc xuất trần thượng sĩ, há lại bị lợi danh làm cho lung lạc,
để cho bát phong lôi cuốn, để cho cuộc sống cuốn mình đi như dòng nước
cuốn trôi củi mục sao!
Còn
đây là cảm hứng của thiền sư Hư Chu Phổ Độ:
- “Thường
ức Tây Hồ xử sĩ gia
- Sơ
chi linh nhụy tự hoành tà
- Tinh
minh nhất phiếm đương thời sự
- Chỉ
phiến thanh hương bất phiến hoa”
- Thường
nhớ Tây Hồ kẻ ẩn danh
- Yêu
mai mộc mạc nhụy nghiêng cành
- Tinh
khôi một đóa hoa vừa nở
- Chẳng
thiếu hoa, hương lại thiếu thanh.
(Nguyên
Hùng dịch)
Ấy,
thiền sư lại mượn hoa để nói người nữa đấy! Tây Hồ vốn là Lâm
Hòa Tĩnh, tên thật là Lâm Bô, người Tiền Đường (Hàng Châu), học giỏi
nhưng không chịu ra làm quan, tự ẩn mình trên núi Cô Sơn, làm bạn với
hoa mai và chim hạc. Thiền sư thấy vậy, biết rằng đó là thú thanh tao,
xa lánh chính trường để không bị lợi danh làm hoen ố tâm hồn, kể cũng hay, nhưng như
thế chỉ có”sắc” mà không “hương”. Cũng lạ, không hiểu sao Hư Chu
lại cho hoa mai thiếu “thanh hương” (hương trong, tinh khiết), nhưng dụng
ý chê trách Lâm ẩn sĩ thì rõ ràng. Lâm Hoà Tĩnh tự nhốt mình trên núi
để được thanh cao, để giữ khí tiết của mình, hóa ra là không đủ
can đảm đối diện với cuộc đời, đối diện với sự thật, với những
thứ mà mình cho đó là thấp hèn; vô hình trung, mình đã tự hạ thấp
khí tiết, sĩ khí của mình. Nếu thực sự mình thanh cao, sĩ khí, thì ở
đâu, mình cũng là mình, không gì có thể lay chuyển được, đâu cần phải
xa lánh cuộc đời. “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” mới hay. Thiền
sư thì khác, lấy chỗ “phiền não” làm “Bồ đề”, tức là làm chủ
chính mình. Nói cách khác, đó là sự thiết lập một cấu trúc thăng bằng
giữa chủ thể và đối tượng, giữa nội tại và thế giới bên ngoài,
do một lực lượng nội tại thâm sâu, hùng hậu của chủ thể tâm linh. Bằng
thế ấy, thiền sư thong dong tự tại thõng tay đi giữa cuộc đời.
Mượn
hoa, mượn cảnh để gởi gắm tình cảm của thi nhân, hay chuyển tải ý
đạo của thiền sư, đã trở nên quen thuộc với mọi người. Hoa mai trải
qua những tháng ngày đông giá buốt, trong sương tuyết lạnh lùng, vẫn âm
thầm đơm hoa, kết nhụy, tượng trưng cho tiết tháo của những bậc hiền
nhân quân tử giữa những cơn biến động của cuộc đời, đã trở thành
đề tài ngâm vịnh của thi nhân và thiền sư. Tuy mỗi cách nhìn có khác,
nhưng ai cũng dành cho mai một vị trí cao quý trong các loài hoa.
(Báo
Giác Ngộ, số Xuân 2002)