- HOA MAI và ĐẠO
TÌNH
- Tác giả:
Đỗ tùng Bách
- Dịch:Phước Đức
- ******
Đứng trước
phong cảnh ngày Xuân, muôn hoa khoe sắc, nhà thơ thưởng thức vẻ đẹp này
để rồi dạt dào bao nỗi luyến lưu. Cảm xúc theo cảnh trào dâng khiến
nhà thơ cao hứng muốn ghi lại hình mạo của Chúa Xuân. Những chất liệu
làm nên thi ca thì rất nhiều: Màu sắc rực rỡ của hoa đào, âm thanh xào
xạc của rặng dương liễu, tiếng hót líu lo của chim hoàng oanh. Phần lớn
những tác phẩm vẽ lại những cảnh vật ở trước mắt có sức mời gọi
như trên, ai có thể dững dưng. Nhưng đối với bậc cao tăng kiến đạo bằng
trí huệ lớn từ "Sắc" thấy "Không" thì nhận rằng núi
sông và đất đai đều hiển lộ pháp thân, hoa cỏ làm người vui mà cũng
hiển lộ chí đạo. Cũng như các nhà lý học đời Tống chẳng hạn, họ
ca tụng những câu thần tình trong Kinh Thi, cho là Thiền cơ hoạt bát để
dẫn chứng cho sự lưu hành của chí đạo.
Chu Tử nói:
- Bán mẫu
phương đường nhất giám khai
- Thiên
quang vân ảnh cộng bồi hồi
- Vấn cừ
na đắc thanh như hứa
- Vị hữu
nguyên đầu hoạt thủy lai.
-
(Mặt
ao rộng nữa mẫu giống như một mặt gương.
-
Sắc
trời bóng mây cùng in bóng trong đó.
-
Hỏi
ra vì sao được trong như thế,
-
Vì
có nước lưu thông ở đầu nguồn đến)
- Ao vuông
nữa mẫu giống như gương
- Trời mây
một sắc đến in khuôn
- Hỏi ra
sao được trong như thế
- Bởi
nước lưu thông ở thượng nguồn.
Ông cho đó
là lời nói kiến đạo, là thơ ngụ đạo.
Hoa mai là quốc
hoa cho mọi người cùng thưởng thức, tánh chịu đựng sương gió lạnh lẽo
giúp nó trổ hoa chính là tượng trưng cho tinh thần và khí tiết của người
Trung quốc. Hoa mai được nhà thơ khen tặng đứng đầu trăm hoa. Các câu
thơ vịnh hoa mai nổi tiếng của Lâm Hòa Tĩnh như:
- Sơ ảnh
hoành tà thủy thanh thiển
- Âm hương
phù động nguyệt hoàng hôn
-
(Bóng thưa của
hoa nằm ngang giữa làn nước trong ở nơi cạn,
-
Hương thầm của
hoa làm lung lay bóng nguyệt lúc hoàng hôn)
- Bóng
hoa vắt ngang làn nước biếc
- Hương
thầm lay nguyệt lúc hoàng hôn.
Và của Tô Đông
Pha như:
- Phân
phân sơ nghi nguyệt quảy thụ
- Liên
liên độc dữ tham hoàng hôn.
-
(Những
cánh hoa mai rơi lả tả mới ngỡ rằng trăng rải ánh vàng trên cây,
-
Nhà thơ như hòa
làm một với hoa mai lúc hoàng hôn)
- Mai lả
tả ánh vàng vương cây lá
- Người
với hoa là một giữa hoàng hôn
Phần đông dừng
ở nơi thấy hoa tả cảnh, có thể là cao tăng hoặc thiền nhân cảm thọ
chẳng đồng, dùng hoa mai để gởi gắm tình cảm ẩn chứa đạo lý. Bài
thơ cổ mai (gốc mai già) của một nhà sư đời Đường như sau:
- Hỏa ngược phong thao thủy tứ căn
- Sương
thuân tuyết trựu cổ đài ngân
- Đông
phong vị khẳng tùy hàn thử
- Hựu
nghiệt hanh hương dữ phản hồn.
-
Đường
tăng (khuyết danh)
Dịch thơ:
- Gốc
mai già
- Lửa
táp gió lùa lại nước ngâm
- Sương
(như) búa, tuyết (như) cưa khắc dấu hằn
- Gió đông
lạnh buốc dù chưa đến
- Song vẫn
đâm chồi tỏa ngát hương
-
Một
vị tăng đời Đường.
- Thiên
niên đài thọ bất thành Xuân
- Thùy
tín u hương tợ ngọc hồn (1)
- Tế tuyết
mãn lâm vô nguyệt sái
- Điểm
đăng xuy giác tố hoàng hôn
-
Hư
Đường Trí Ngu (2)
Dịch thơ:
- Nghìn năm
rêu bám, chẳng nghênh Xuân
- Ai hay hương
thoảng tợ ngọc hồn
- Trời lạnh
khắp rừng trăng chẳng chiếu
- Đốt đèn, thổi ốc, báo hoàng hôn
Trích
trong Ngữ lục của Thiền sư Trí Ngu hiệu Hư Đường (quyển 7)
- Thường
ức Tây Hồ (3) xử sĩ gia
- Sơ chi
linh nhụy tự hoành tà
- Tinh
minh nhất phiến đương thời sự
- Chỉ
khiếm thanh hương bất khiếm hoa
Dịch thơ:
- Thường
nhớ Tây Hồ nhà ẩn dật
- Chuộng
vẽ mai vàng với cành trơ
- Một đóa
linh khôi vừa mới hé
- Chỉ
thiếu hương thơm chẳng thiếu hoa.
Thơ ngụ đạo
không gì khác hơn là mượn có để hiển không, mượn vật để ngụ lý
dùng thanh sắc để hiển dụng, dùng nó để giải thích thì rất tốt. Hoa
mai thường được nhà thơ thưởng thức lấy làm đề tài ngâm vịnh, cũng
là đối tượng mà thiền sư dùng để hiển bày thiền cơ Phật lý. Hoa
mai trước gió đông và băng tuyết tượng trưng cho tiết tháo của bậc hiền
nhân quân tử giữa những cơn biến động của cuộc đời, nên rất được
thi nhân và triết gia thưởng thức cùng ngâm vịnh.
- *****
Chú thích:
(1) Ngọc hồn:
tên một loài hoa đẹp.
(2) Trí Ngu
(1185 - 1269): Thiền tăng đời Tống, họ Trần, hiệu Hư Đường, tức Canh
Tẩu, người Tương sơn (Triết giang) Trung Quốc. Năm 16 tuổi theo Sư Uẩn
chùa Phổ Minh xuất gia, du học khắp nơi, đến Kim Sơn yết kiến Vận Yểm
Phổ Nham được tỏ ngộ, nối pháp làm truyền nhân phái Dương Kỳ tông
Lâm Tế. Sau đó lần lượt tham kiến các bậc thiện trí thức. Niên hiệu
Thiệu Định thứ 2 (1229), ban đầu sư trụ trì chùa Hưng Thánh, sau đó lần
lượt trụ các chùa Báo Ân, Hiển Hiếu, Thụy Nham, Diên Phước, Bảo Lâm,
Dục Vương, Tịnh Từ, Kinh Sơn. Sư được Tống Lý Tông, Tống Độ Tông
quy y, giáo hóa hưng thạnh.
Tác phẩm: Hư
Đường Hòa Thượng Ngữ Lục 10 quyển lưu hành nơi đời.
(3) Tây Hồ: tức
Lâm Hòa Tĩnh, một nhà ẩn dật đời Minh.
Lâm Hòa Tĩnh
(967 - 1928) tên thật là Lâm Bô, tự là Quân Phục, người Tiền Đường (Hàng
châu), học giỏi nhưngkhông chịu ra làm quan, ở ẩn trên núi Cô Sơn, bạn
cùng hoa mai và chim hạc.
- Sưu tầm:
Thanh Sơn
- (Trích
dẫn: Thơ Thiền Đường Tống, nhà xuất bản Đồng Nai)
http://www.buddhismtoday.com/viet/xuan/hoamai.htm