- XUÂN MIÊN VIỄN
Theo
thời tiết thì một năm có bốn mùa là Xuân, hạ, Thu, Đông. Xuân miên viễn
thì không có Xuân Hạ Thu Đông mà chỉ là Xuân thôi. Vậy Xuân miên viễn
từ đâu có? Chúng ta phải chuẩn bị những gì để hưởng được Xuân
miên viễn?
Thế
gian nói đến Xuân là nói đến ba tháng đầu trong năm, gọi là mùa Xuân.
Nhà Thiền nói đến Xuân là nói đến đạo. Một thiền khách đến hỏi
Thiền sư Chân Không:
-
Khi sắc thân bại hoại thì thế nào?
Ngài
đáp:
- Xuân
đến, Xuân đi ngỡ xuân hết.'
- Hoa
nở, hoa tàn chỉ là Xuân.
Chữ
Xuân, Ngài nói đây là Xuân gì? Xuân đến Xuân đi là Xuân của thời gian.
Mỗi khi Xuân đến thì mừng Xuân, khi Xuân đi thì tiễn Xuân. Xuân đến thì
hoa nở Xuân đi thì hoa tàn, nhưng dù hoa nở hay hoa tàn cũng chỉ trong mùa
Xuân ba tháng thôi. Hoa nở hoa tàn dụ cho sắc thân này được sanh ra rồi
chết đi. Thiền khách thắc mắc thân này bại hoại thì thế nào? Ngài đáp:
dù sắc thân sanh hay tử cũng chỉ là Xuân. Ý Ngài nói dù thân chúng ta
sanh hay tử và sanh tử liên miên vẫn không ngoài cái thể bất sanh bất tử
nơi mình. Giống như biển cả dù sóng có dấy động hay lặng yên trăm ngàn
lần, cũng không ở ngoài biển cả. Ngài thấy đến chỗ rốt ráo viên
mãn chớ không nhìn theo thời gian sanh diệt của thân năm uẩn. Tôi chúc
quí vị hưởng mùa Xuân miên viễn, quí vị đã biết là Xuân nào rồi chứ
gì?
Sau
đây tôi dẫn một bài thơ của một thiền sư Ni ở Trung Hoa đời Tống:
- Tận
nhật tầm Xuân bất kiến Xuân,
- Mang
hài đạp phá đỉnh đầu vân
- Qui
lai khước quá mai hoa hạ
- Xuân
tại nhi đầu dĩ thập phân.
Ni
sư nói trọn ngày đi tìm kiếm Xuân, tìm mãi mà không thấy Xuân ở đâu.
Vượt đèo trèo núi rách cả giày để tìm mà vẫn không thấy. Khi trở về
thì thấy Xuân hiện khắp trên đầu những cành mai trong vườn nhà mình.
Sao lạ vậy? Tìm Xuân trên núi, nơi này chốn kia mà không thấy, tại sao
Xuân lại ở trên đầu cành mai tại vườn nhà mình? Ni sư muốn nói gì với
chúng ta?
Xuân,
Ni sư nói đây là Đạo mà chúng ta thường nói "Tầm Đạo". Đạo
không ở non cao hay rừng thẳm mà ở tại "nhà mình". Ni sư nhắc
cho chúng ta biết Đạo là Pháp thân chân thật có sẵn nơi mỗi người, chớ
nhọc công hướng ra ngoài tìm kiếm, hãy xoay lại mình là nhận ra ngay.
Quí
vị tu từ lâu nay, đi tìm đạo rách hết bao nhiêu đôi giày rồi? Tốn hết
bao nhiêu mồ hôi công sức? Và đã thấy đạo chưa?
Với
Ni sư thì Đạo có sẵn trên cành mai ở tại nhà mình. Với những thiền sư
khác thì Đạo ở ngay gót chân mình. Với chúng ta thì đạo ở ngay trước
mắt. Quí vị có thấy Đạo ở ngay trước mắt không? Người nào thấy Đạo
ở trước mắt thì vấp phải cái lỗi rất lớn là thấy con đường ở
ngoài mình, chớ không thấy đạo Phật. Đạo thật thì không bị thấy,
mà hay thấy muôn vật như thấy hoa nở, thấy hoa tàn... Đạo chân thật
chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa, chỉ xoay lại mình là nhận ra
ngay. Sở dĩ chúng ta không nhận ra là vì quên, hướng ra ngoài tìm kiếm.
Chỗ này trong kinh Phật chỉ rất rõ: Cảnh vật là tướng bị thấy là
cái sanh diệt, cái hay thấy thì không sanh không diệt. Âm thanh ở ngoài là
tướng sanh diệt, cái hay nghe thì không sanh không diệt. Ngay nơi mình lúc
nào cũng có cái hay thấy hay nghe. Hàng ngày chúng ta nhận cái hay thấy hay
nghe là mình, hướng ra ngoài thấy cảnh nghe tiếng rồi phân biệt cho là
mình thấy nghe? Nếu thấy nghe như thế là chạy theo cảnh và tiếng, mà
quên cái hay thấy hay nghe đang hiện hữu nơi mình.
Cái
hay thấy hay nghe là cái thật của mình, mà mình không nhớ cứ hướng ra
ngoài tìm kiếm nên quên mất mình. Thấy nghe như thế là mê. Bây giờ muốn
hết mê thì khi thấy khi nghe phải nhớ mình có cái đang thấy đang nghe, đó
là thấy Đạo, là giác. Người xưa cứ nhắc chúng ta tu phải trở lại
mình là gốc, thế mà chúng ta có chịu trở lại đâu! Ở đây, ai suốt
ngày xoay lại sống với mình? Ai suốt ngày chạy theo ngoại cảnh?! Xoay lại
là được ngay, dễ lắm. Vì dễ nên anh hàng thịt buông dao sát hại liền
làm bài kệ ngộ đạo:
- Tạc
nhật dạ xoa tâm
- Kim
triêu Bồ tát diện
- Dạ
xoa dữ Bồ tát
- Bất
cách nhứt điều tuyến.
Hôm
qua hướng ra ngoài sát hại là dạ xoa, ngày nay xoay lại dừng tâm sát hại
là Bồ tát. Dạ xoa và Bồ tát không cách một đường tơ, chỉ cần xoay lại
là giác ngộ.
Chúng
ta tu mấy chục năm có xoay lại mình không? Không xoay lại là tại sao? Tại
vì quên. Quên là mê nên không nhớ tâm chân thật của mình, cứ nhớ cảnh
vật bên ngoài. Chỉ cần hết quên
thì mình là người đầy đủ tâm hạnh Bồ tát. Tu thì nói công phu dày dặn
nhiều tháng nhiều năm, kỳ thật chỉ nhớ "tâm mình" là đủ, không
tốn chút công nào cả. Quên thì phóng tâm chạy ra ngoài, nhớ thì dừng
tâm rong ruổi, tâm chân thật hiện tiền. Và, phải hằng nhớ, nhớ suốt
ngày mới là giác, còn nhớ một lần thì chỉ một phen tỉnh thôi.
Người
xưa dạy cốt chỉ cho chúng ta nhận ra tâm chân thật có sẵn nơi mình, mà
chúng ta không nhận, cứ phóng tâm đuổi theo cái sanh diệt tạm bợ để rồi
khổ đau than thở. Tu là phải tỉnh, nhớ mình, không chạy theo cảnh là
giác, ngược lại thì đi mãi trong đường mê.
Sau
đây Thiền sư Mãn Giác, khi tịch làm kệ dạy chúng:
- Xuân
khứ bách hoa lạc,
- Xuân
đáo bách hoa khai
- Sự
trục nhãn tiền quá
- Lão
tùng đầu thượng lai
- Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận
- Đình
tiền tạc dạ nhứt chi mai.
"Xuân
khứ bách hoa lạc" nghĩa là Xuân đi trăm hoa rụng. "Xuân đáo bách
hoa khai" là Xuân đến trăm hoa nở. "Sự trục nhãn tiền quá"
là sự việc cứ trôi qua trước mắt. "Lão tùng đầu thượng lai"
là cái già đã đến trên mái đầu rồi. Ngài diễn tả mùa Xuân theo thời
gian, Xuân đi rồi lại Xuân đến, cứ tuần hoàn qua lại như thế. Sự vật
cũng theo thời gian sanh diệt đổi thay. Mỗi khi Xuân đến thì thấy hoa nở,
Xuân đi thì thấy hoa rụng. Hoa rụng hoa nở theo thời gian thì sanh diệt,
diệt sanh liên tục không ngừng. Vạn vật bị thời gian cuốn trôi đi. Nhìn
lại con người, chúng ta cũng cùng chung số phận đó, vì tóc đã bạc trắng
cả mái đầu rồi. Như vậy, thời gian chi phối cả vạn vật lẫn con người,
không có cái gì tồn tại mãi với thời gian. Tất cả chúng ta rồi đây cũng
sẽ tuần tự ra đi, kẻ đi trước người đi sau, không ai là không chết.
Ngài chỉ rõ cuộc đời vô thường biến chuyển theo thời gian, cả vật lẫn
người không thoát khỏi cái sanh diệt của vô thường. Nghe qua thấy như
Ngài bi quan, nhưng hai câu sau Ngài kết thúc thật tuyệt vời:
- Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận
- Đình
tiền tạc dạ nhứt chi mai.
Ngài
nói chớ bảo mùa Xuân qua là hoa rụng hết, vì đêm qua trước sân vẫn
còn cành mai nở. Lệ thường, thời gian cuốn trôi con người lẫn vạn vật,
khiến cho tất cả tàn phai hoại diệt. Nhưng trong cái hoại diệt đó có một
cái bất diệt, thời gian không hủy hoại được. Ý Ngài nói trong cõi đời
này, ngay thân năm uẩn sanh diệt vô thường của chúng ta có cái thường hằng
bất diệt. Ngài biểu trưng bằng một cành mai nở không rụng khi Xuân đã
qua.
Con
người ai cũng có thân năm uẩn sanh diệt. Vậy khi từ giã cõi đời này
còn hay hết quí vị có biết không? Nếu nói còn thì còn cái gì? Còn luân
hồi trong lục đạo theo nghiệp thọ quả báo thì quí vị nói được. Còn
cái không bị biến chuyển thì nó ở đâu, ra sao, không ai trả lời được.
Chỉ biết nói còn, mà không biết còn như thế nào.
Chuyện
này không có gì khó, chỉ chịu lắng tâm thì sẽ biết. Khi dấy niệm nghĩ
suy chúng ta nói là tâm mình, vì chấp tâm là cái nghĩ suy. Nhưng khi không
khởi niệm nghĩ suy mắt vẫn thấy tai vẫn nghe, mọi việc xảy ra đều biết,
lúc đó có tâm không? - Tâm đang hiện hữu vì biết là tâm.
Cái
tâm suy nghĩ phân biệt là tâm duyên theo bóng dáng của ngoại trần, nó
sanh diệt tùy duyên tùy cảnh mà có, không thật. Còn tâm hằng tri hằng
giác không đợi nghĩ suy mới có là tâm chân thật không sanh không diệt.
Lúc nào nó cũng hiện hữu nơi mình, cảnh đến cũng biết, cảnh đi cũng
biết, không có niệm dấy động phân biệt. Tâm này không hình tướng, thênh
thang trùm khắp. Chúng ta có cái tâm này mà không nhớ, chỉ nhớ cái tâm
phân biệt tốt xấu hơn thua nên mê hoài. Nếu nhớ tâm không sanh diệt
trùm khắp thì giác.
Cái
tâm chân thật không phân biệt chỉ là BIẾT thôi, nó không biến hoại mà
thường hằng. Còn cái tâm phân biệt thì tùy duyên, duyên tốt nó hành xử
tốt, duyên xấu nó hành xử xấu, nên có đủ tướng trạng thay đổi luôn
luôn.
Thiền
sư Mãn Giác nhắc cho đồ đệ cũng như chúng ta biết thân này có sanh ắt
phải tử, nhưng trong cái thân sanh tử đó có tâm chân thật bất diệt. Người
xưa tu nhận ra tâm chân thật bất diệt, thấy thân năm uẩn này sống chết
là trò chơi, nên ra đi một cách an nhiên tự tại. Ngày nay chúng ta gần ra
đi lo buồn hốt hoảng vì chỉ biết có cái thân sanh diệt này, khi mất thấy
đau khổ.
Đó
là một thiền sư đời Lý nói về Xuân. Sau đây là thiền sư đời Trần,
ngài Huyền Quang có làm bài kệ:
- Xuân
nhựt tức sự
- Nhị
bát giai nhân thích tú trì
- Tử
kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
- Khả
liên vô hạn thương xuân ý
- Tận tại đình
châm bất ngữ thì.
Bài
thơ này hiểu theo thường tình của con người đời thì, hai câu đầu diễn
tả cảnh người con gái đẹp mười sáu tuổi, đang ngồi thêu gấm bên cạnh
khóm hoa tử kinh nở, trên cành có chim hoàng oanh hót, thật là tình tứ thơ
mộng. Nhưng hai câu sau lại khác, ý thơ rất siêu thoát. Ngài nói ngài thương
mà thương vô hạn cái ý Xuân là lúc "dừng kim chẳng mở lời".
Theo ý này thì ngài thương cô gái hay thương cái gì? - Thương lúc "dừng
kim không thêu, làm thinh không nói". Ngài thật là tài, qua lời thơ thấy
như trần tục, nhưng ý thơ thì đạo lý sâu thẳm. Trong kinh Giải nghĩa,
Niết bàn là dừng tạo nghiệp; nghĩa của tạo nghiệp là đan dệt, dừng
tạo nghiệp là dừng đan dệt, dừng đan dệt là Niết bàn. Mà Niết bàn
thì vô ngôn, không thể dùng lời để nói năng diễn tả. Hình ảnh cô
gái không mở lời chỉ cho ý này.
Mùa
Xuân có người đẹp có cảnh đẹp, có hoàng oanh hót, ngài không thích cảnh
đẹp người đẹp mà thích nhất lúc "dừng kim không thêu, im lặng
không nói". Người "dừng kim không thêu, im lặng không nói" biểu
trưng cho trạng thái bất động thanh tịnh của Niết bàn. Lời thơ mang ý
nghĩa này thì thiền sư đâu có tình cảm lai láng. Người đời vì không
thấy được lý đạo trong thơ nên trách Thiền
sư đang bị tình cảm trói buộc, mở lời là tình cảm
tràn trề!
Các
thiền sư Trung Hoa cũng như Việt Nam khi Xuân đến các ngài cảm hứng làm
thơ diễn tả mùa Xuân, trong đó không bài nào không chỉ cho chúng ta cái
Xuân miên viễn chân thật có sẵn nơi mình. Các ngài không ca ngợi Xuân để
chúng ta mừng Xuân vui Xuân trong ba tháng tạm bợ mà dạy chúng ta phải
xoay lại để sống với mùa Xuân miên viễn chân thật ở nơi mình. Vậy
quí vị chịu sống với mùa Xuân miên viễn nơi mình, hay thích sống với
mùa Xuân ba tháng ngắn ngủi tạm bợ? Thích mùa Xuân ba tháng thì hãy tự
hỏi tại sao mùa Xuân tạm bợ lại thích, còn mùa Xuân miên viễn thì
không biết đến?!
Là
người tu, chúng ta phải biết cái tạm bợ vô thường là cái nhân luân hồi
sanh tử khổ đau để xa lìa, hằng sống với cái chân thật bất tử. Đây
là điều phải nhớ để thực hiện, chớ nói khó, không làm được.
Nhân
ngày Tết Nguyên đán, tôi chúc tất cả Tăng Ni, Phật tử hưởng một mùa
Xuân miên viễn.
Cuối
lời, tôi chúc cho Tăng Ni và Phật tử năm nay và những năm về sau ai cũng
được hưởng một mùa Xuân miên viễn như các thiền sư.
(Trích Báo Giác Ngộ, số Xuân 2002)
http://www.buddhismtoday.com/viet/xuan/mienvien.htm