Riêng về bài Giáo Tử Phú, cho dù
không phải là của Mạc Đỉnh Chi như có người đã ngờ, thì lại càng
chứng tỏ bài phú ấy đã được sáng tác từ trong cửa Thiền với chủ
đích nhằm khuyên dạy hàng tín đồ phải dốc lòng tu tập, thông qua một
người đã tận mắt chứng kiến bao nỗi khổ nơi cõi địa ngục (Xem Hợp
tuyển thơ văn Việt Nam T.2, thế kỷ 10-17, nhà xb VH, H, 1976, tr.173-179).
Tóm lại, cho dù không hoàn toàn
chia sẻ ý kiến của giáo sư Nguyễn Lang như đã dẫn, chúng ta cũng khẳng
định được rằng: Bình minh của văn học chữ Nôm đã gắn liền với cửa
Thiền. Xin trích dẫn một số câu phú Nôm tiêu biểu của thời kỳ mở đầu
ấy:
"Dứt trừ nhân ngã, thời ra
tướng thực Kim Cương; đình hết tham sân, mới lảu lòng màu Viên giác.
Tịnh Độ là lòng trong sạch, chớ
còn hỏi đến Tây Phương; Di Đà là tính sáng soi, nỡ phải nhọc tìm Cực
Lạc…
Biết Chân Như, tin Bát Nhã, chớ
còn tìm Phật Tổ tây đông; chứng thực tướng, ngỏ vô vi, nào nhọc hỏi
kinh thiên nam bắc…" (Cư trần lạc đạo phú, Đinh Gia Khánh phiên
âm, Hợp Tuyển Thơ Văn Việt Nam, T2, sđd, tr. 109-110).
"Chim óc bạn cắn hoa nâng
cúng, vượn bồng con cời cửa nghe kinh.
Nương am vẳng, Bụt hiện từ bi,
gió hiu hiu may nhè nhẹ;
Ghé song thưa; thầy ngồi thiền định,
trăng vằng vặc núi xanh xanh”. (Vịnh Hoa Yên tự phú, Đinh Gia Khánh
phiên âm, sđd, tr. 164).
e. Đến đầu thế kỷ 15, câu thơ
Nôm đang tiến dần đến sự trưởng thành, đánh dấu cho giai đoạn này
chính là bài thơ Nôm "Cầu siêu cho Nguyễn Biểu" của nhà sư chùa
Yên Quốc. Vị sư này chưa được rõ về tên họ, đạo hiệu, chỉ biết
ngôi chùa Yên Quốc tọa lạc gần chỗ Nguyễn Biểu hy sinh vào năm 1413)
(Nguyễn Biểu là sứ của vua Trần Trùng Quang -Trần Quý Khoách- sai đi
thương thuyết với tướng nhà Minh là Trương Phụ) do cảm kích trước
nghĩa khí của một sĩ phu yêu nước, nhà sư đã viết nên bài thơ Nôm bất
hủ:
"Chói lọi một vầng tuệ nhật
Ùn ùn mấy đóa từ vân
Tam giới soi hòa trên dưới
Thập phương trải khắp xa gần
Giải thoát lan lan nghiệp chướng
Quang khai chon chon mê tán
Trần quốc xảy vừa mạt tạo
Sứ hoa bông có trung thần
Vàng đúc lòng son một tấm
Sắt rèn tiếc cứng mười phân
Trần kiếp vì đâu oan khổ
Phương hồn đến nỗi trầm luân
Tế độ dặn nhờ từ phiệt
Chân linh ngõ đuợc phúc thần".
(Dẫn theo Thơ Văn Lý Trần T3, nhà xb KHXH, H, 1978, tr. 515-516)
Chúng ta nhận thấy nhà sư này đã
thực hiện một cách trọn vẹn hai chức năng nơi con người thơ của mình:
chức năng một nhà sư của đạo từ bi và chức năng một công dân yêu nước
ngợi ca truyền thống bất khuất của dân tộc mình. Ở khía cạnh lịch sử,
bài thơ Nôm trên chính là một đoản ca bi tráng, chứng nhân cho một giai
đoạn đau buồn của đất nước ta.
5. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17
là thời suy kém của Phật Giáo Việt Nam, hơn nữa, còn bị giới Nho sĩ chịu
ảnh hưởng của Tống Nho, kỳ thị, đả kích. Tuy vậy, chính trong thời kỳ
này, thiền học và văn học Việt Nam đã có được một sự gặp gỡ tuyệt
diệu: người tạo nên sự gắn bó ấy chính là Nguyễn Trãi (1380-1442), một
trong số các gương mặt lớn nhất của văn học cổ điển Việt Nam. Sau
thời đại Lý Trần, Nguyễn Trãi là nhà Nho đầu tiên đã có những tiếp
cận thấu đạt nhất với thiền học. Cảm hứng về thiền trong thơ của
Nguyễn Trãi đã được thể hiện qua nhiều sắc thái; và với bài thơ Nôm
"Cây Mộc Cận", chúng ta có thể nói đến một sự ngộ đạo nơi
Ức Trai:
"Ánh nước hoa in một đóa hồng
Vết nhơ chẳng bén, Bụt làm lòng
Chiều mai nở, chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc
không" (Bài Cây Mộc Cận, Nguyễn Trãi Toàn Tập, nhà xb KHXH, H,
1976, tr. 471
Hoa mộc cận tức hoa Bông Bụt,
một loại hoa dân gian quá đỗi quen thuộc đến độ ít người diễn tả,
thế mà Nguyễn Trãi đã lãnh hội nó với một rung cảm thiền học hết sức
phong phú. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, tác giả đã chuyên chở được
hai luận điểm then chốt, cốt lõi của thiền học: Phật tức tâm (Vết
nhơ chẳng bén Bụt làm lòng) và Bất nhị (Sự lạ cho hay tuyệt sắc
không). "Sự lạ cho hay tuyệt sắc không" chính là sự yên lặng
trên nẻo đường tiếp cận với thế giới vô ngôn nhiệm mầu khiến ta
nhớ tới cái im lặng của ngài Duy Ma Cật đã được Bồ Tát Văn Thù Sư
Lợi tán thán: “Tốt lắm, tốt lắm, đến nỗi không cả văn tự ngôn ngữ
mới thật là nhập vào pháp môn Bất Nhị". (Kinh Duy Ma, HT Trí Quang dịch,
bản in 1994, tr. 156)
6. Tác phẩm “Thập Giới Cô Hồn
Quốc Ngữ Văn” tương truyền của vua Lê Thánh Tông (1442-1497) tuy có chỗ
cần bàn thêm (như thái độ đùa cợt đối với giới cô hồn thiền tăng)
nhưng đây là tác phẩm chữ Nôm đầu tiên chịu ảnh hưởng của Phật Giáo
về khía cạnh nghi lễ, cúng tế. Điều này chứng tỏ tục cúng và chẩn
tế cô hồn, thường được tổ chức trong các ngày lễ lớn của Phật
Giáo, nhất là vào ngày lễ Vu Lan rằm tháng bảy, đã có một âm vang đáng
kể trong xã hội. Đó là những tiền đề thuận lợi để cho cửa thiền
và văn học Việt Nam sau này có được “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh”
của thi hào Nguyễn Du (1765-1820).
7. Bốn gương mặt lớn nhất của
văn học cổ điển Việt Nam cũng lại là các nhà thơ có những tiếp cận
sâu sắc nhất về Phật học. Đấy là Nguyễn Trãi (1380-1442), Lê Quý Đôn
(1726-1784), Ngô Thì Nhậm (1746-1803) và Nguyễn Du (1765-1820).
Chúng ta đã nói đến một Nguyễn Trãi đạt đạo
với bài thơ Nôm Hoa Mộc Cận. Về phương diện chiêm bái, Nguyễn Trãi đã
từng sang tận chùa Nam Hoa – còn gọi là chùa Bảo Lâm - gần dòng suối
Tào Khê, từng là đạo tràng lớn của Tổ Huệ Năng (638-71), vị tổ thứ
sáu của thiền tông Trung Hoa. Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Trãi ở đây là
ngôn ngữ của một Phật tử thuần thành:
"Thần tích phi lai kỷ bách
xuân
Bảo Lâm hương hỏa khê tiên nhân
Hàng long, phục hổ, cơ hà diệu
Vô thụ, phi đài, ngữ nhược tân
Điện trắc khởi lâu tàng bát Phật
Khảm trung di tích thuê chân thân
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tây tận nhân gian kiếp kiếp trần".
(Gậy thần bay đến mấy trăm niên
Hương hỏa Bảo Lâm giữ trọn
nguyên
Phục cọp, hàng rồng sao phép diệu
Chẳng đài, không thụ vẫn lòng
truyền
Nơi tàng bát Phật lâu bền đấy
Dẫu lột xác phàm tháp giữ nguyên
Trước cửa Tào Khê dòng nước chảy
Lâng lâng gột sạch mọi trần
duyên). (Bài Thăm Chùa Nam Hoa, Đào Duy Anh dịch, Nguyễn Trãi Toàn Tập,
sđd, tr. 383-384)
Câu "Hàng long phục hổ cơ hà
diệu" nhắc đến những truyền thuyết về các trường hợp hàng phục
các loài thú dữ của các vị thiền sư, cũng như bản thân Lục Tổ đã từng
hàng phục con rồng dữ nơi đầm rộng trước chùa (Xem: Sơ lược sự tích
Lục Tổ, in trong Kinh Pháp Bảo Đàn, cư sĩ Diên Sinh dịch, Sen Vàng xb, S,
1961, tr. 12). Câu: “Vô thụ phi đài ngữ nhược tân" là nhắc lại hai
câu đầu trong bài kệ của Lục Tổ: "Bồ Đề bản vô thụ, Minh kính
diệc phi đài". Hai câu kết, không chỉ là sự tôn vinh thiên cảnh Tào
Khê mà còn gián tiếp đề cao tính chất nhiệm mầu của Phật pháp trong sứ
mạng diệt mê khai ngộ cho chúng sinh. Nơi thơ Nôm, Nguyễn Trãi cũng còn nhắc
tới Tào Khê:
"Núi láng giềng, chim bậu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
Tào Khê rửa ngàn tắm suối
Sạch chẳng còn một chút
phàm."
Lê Quí Đôn (1726-1784) là nhà bác học trong văn
học cổ điển Việt Nam. Về mặt nghiên cứu, lý luận, ông đã dành một
thiên Thiền Dật trong sách Kiến Văn Tiểu Lục để bàn về Phật Giáo,
ở đây, ông đã lên tiếng phê phán và bác bỏ những thành kiến hẹp
hòi thường có nơi một số nhà Nho đối với đạo Phật, biện dẫn về
chất "tề gia trị quốc" của Phật Giáo, nêu lên một số điểm
tương đồng giữa Nho-Phật, ca ngợi kinh Lăng Nghiêm v.v…. và nhất là
bày tỏ một cách tóm tắt kiến giải sâu sắc của mình về Phật Giáo
(Xem Kiến Văn Tiểu Lục, Phạm Trọng Điềm dịch, nhà xb KHXH, H, 1977, tr.
363-430).
Đây là kiến giải của Quế Đường
tiên sinh về đạo Phật: “Tôi thiết tưởng đây là đại khái của
tông chỉ đạo Phật: vạn vật thế gian là hư ảo, con người phải tu tập
để đạt được giác ngộ chân chính mà thoát ra khỏi lục trần. Một
khi đã thành được diệu đạo tột bực thì trở lại thương xót chúng
sinh, thi hành nhiều phương tiện để cứu giúp, ai muốn học đạo chính
giác thì giúp cho họ được thành người. Đâu phải là chối bỏ tình anh
em họ hàng và dứt tuyệt luân lý cương thường". (KVTL, Nguyễn
Lang dịch, dẫn theo VNPGSL T2, nhà xb VH, H, 1992, tr. 263).
So với phần trứ thuật, biên khảo
hết sức dồi dào thì sự nghiệp sáng tác của Lê Quí Đôn không nhiều,
nên tất nhiên là những tác phẩm viết về cửa Thiền của ông cũng ít.
Tuy vậy, với bài Minh được khắc trên chiếc khánh đồng chùa Thanh Quang,
chúng ta có thể nói đến một Lê Quí Đôn đạt đạo, hay nói như giáo sư
Nguyễn Lang là: "ngôn từ - của bài minh ấy – có thể nói là có chất
Phật rồi vậy":
"Duy nhân chi tâm
Xuất nhập vô thì
Định cố tuệ bản
Văn diệc ngộ ky
Quyết chất tắc kim
Quyết danh tắc khánh
Tham thấu kỳ lý
Nhất động nhất tĩnh
Liễu ngộ tuần tỉnh
Nãi thức kỳ hạnh
Hình khí tuy thô
Ý thú tự thâm
Nhân quả không hoa
Vật đàm thiển cận
Ngã cáo chư nhân
Đản lực vi thiện”.
(Chỉ có lòng người
Vào ra không chừng
Nhờ Định có Tuệ
Nhờ Nghe, viên thông
Chất liệu là đồng
Tên gọi là khánh
Thấu đạt nghĩa ấy
Động tĩnh nhất tâm
Giác ngộ tự kỷ
Mới thấu hành tung
Hình chất tuy thô
Ý thú cao thâm
Hoa đốm nhân quả
Đừng bàn thiển cận
Ta khuyên mọi người
Làm thiện hết lòng". (Nguyễn
Lang dịch, VNPGSL 2, sđđ, tr. 265-266).
Ngô Thì Nhậm (1746-1803) là gương mặt thơ tiêu
biểu của văn học thời Tây Sơn và cũng là nhà thơ đạt đạo nhất
trong cái xu hướng “tìm đến cửa Thiền” của phần đông các nhà thơ
Việt Nam ở thế kỷ 18, từ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791)
đến chúa Trịnh Sâm (1739-1782), Trần Bá Lãm (thế kỷ 18), Lý Trần Quán
(1735-1786), Nguyễn Gia Thiều (1741-1796), Ninh Tốn (1743-?), Vũ Huy Tấn
(1749-1800), Phan Huy Ích (1751-1822), Đoàn Nguyên Tuấn (thế kỷ 18), Phạm
Thái (1777-1814)…
Ngô Thì Nhậm đã từng đến chùa
tham thiền trong thời gian lánh nạn từ 1782-1786 dưới thời chúa Trịnh Khải
nắm quyền:
"Khuất chỉ phiêu bồng ký
ngũ niên
Kim thu thôn tự nhất tham thiên
Cúc hoa sơ quải hoàng kim giáp
Bối diệp trùng niên bạch ngọc
thuyên
Vãng sự kỷ hồi hòe quốc mộng
Cố ngô y cựu trúc lâu duyên
Linh am tự tại, linh quang tĩnh
Sảng nhập ngân câu tú thủy
tiên".
(Bấm đốt năm năm dạt khắp miền
Chùa quê thu lại bước tìm lên
Cánh vàng vừa tách xoè hoa cúc
Lá bối lần xem bén vị thiền
Chuyện cũ giấc hoè bao ảo mộng
Thân xưa lau trúc vẫn tiền duyên
Am thiêng còn đó, tòa sen lặng
Khí mát hồ trong mặt nước lên). (Bài
Cuối thu vào chùa tham thiền, Khương Hữu Dung dịch, Tuyển tập thơ Văn Ngô
Thì Nhậm, T1, nhà xb KHXH, H, 1978, tr. 127-128).
Nhìn chung, cảm hứng về thiền học
trong thơ Ngô Thì Nhậm khá đậm nét, đáng chú ý nhất là trong chuyến Bắc
sứ vào năm 1793, ông đã ghé thăm chùa Hưng Long (Hà Bắc, Trung Quốc) bày
tỏ những mến mộ của mình về cảnh và người ở đây. Bài thơ ấy có
lời dẫn, và được viết theo thể tam ngôn - mỗi câu ba chữ, gồm 24 câu
– là một bài thơ có giá trị và hết sức độc đáo trong văn học Việt
Nam: (Lời dẫn của bài thơ chỉ xin giới thiệu bạn đọc) “Thơ xưa có
câu: Ngẫu nhiên viện trúc cùng sư chuyện, Lại được phù sinh nữa buổi
nhàn; dịch: Vì được nhàn vốn đã khó, mà được gặp nhà sư nơi trúc
viện lại càng khó, có phải thế chăng?"
Lão pháp sư trụ trì chốn danh thắng
này là nơi nhà vua thường ngự giá đến. Thiền viện nguy nga sáng sủa,
những lão sư bền giữ đạo chân như, một chút bụi trần không nhiễm,
chẳng khác gì tu khổ hạnh trong tĩnh viện chốn núi sâu, cái nét huyền của
nhà sư lại càng đáng chuộng lắm thay! Tôi đang trong lúc bận rộn, được
gặp lão sư trò chuyện, tưởng như lên núi báu mà trông tuyết nguyệt, nơi
lòng trần bỗng thấy sạch lâng lâng, rất muốn cùng pháp sư bàn về lẽ
huyền vi của đạo Phật suốt ngày, nhưng công việc rộn ràng quá thể,
thế mới biết cái vui nơi trúc viện, đức Như Lai Thế Tôn không dễ cho
người. Nhưng đến đây không thể không có lời tán tụng, nên tôi đành
quên mình là người thiển lậu mà đề mấy câu thơ sau đây:
"Liên hoa vân
Ngũ hương huân
Đại pháp luân
Hiện kim thân
Cảnh trường xuân
Oánh vô trần
Hữu lão nhân
Tuyệt tham sân
Lưỡng hải ngân
Hội đạo chân
Mai tinh thần
Hảo ẩn luân
Xa lân lân
Mã phân phân
Danh lợi khuân
Địch thập phân
Phiên thời phân
Úy sở văn
Tương giảng luân
Hiện ân can
Từ bi tan
Quảng vô ngân
Ngã nguyện vân
Lão nhu quân".
Dịch:
Mây hoa sen
Xông năm hương
Xe pháp lớn
Hiện thân vàng
Cõi trường xuân
Sạch bụi trần
Có ông già
Dứt tham sân
Dõi tròng mắt
Thấu đạo chân
Thần như mai
Khéo ẩn thân
Xe rầm rầm
Ngựa hí ran
Vòng danh lợi
Sạch mười phân
Thoáng gần gũi
Giải băn khoăn
Củng bàn luận
Rất ân cần
Bến từ bi
Rộng mênh mông
Tôi nguyện rằng
Được như ông” (Ngô Linh Ngọc,
Mai Quốc Liên dịch, Tuyển tập thơ Văn Ngô Thì Nhậm, sđd, tr. 520-522)
Chúng ta cần nhớ rằng, chính Ngô
Thì Nhậm là người đã góp nhiều công sức và trí tuệ giúp vua Quang
Trung đánh tan đạo quân xâm lược đông đảo của nhà Mãn Thanh năm 1789.
Nhưng đối với vị thiền sư chân tu người Trung Hoa nơi chùa Hưng Long này,
ông đã hết mực ca ngợi, xem mình như một đệ tử. Rõ ràng là sức cảm
hóa của đạo từ bi đã nâng ông lên tầm cao của một nhà văn hóa chân
chính.
Trường hợp Ngô Thì Nhậm, từ năm
1796, lui về lập thiền viện ở phường Bích Câu-Thăng Long, cùng với các
thiện hữu như Ngô Thì Hoàng (1786-1814), hiệu là Hải Huyên, em cùng cha
khác mẹ với Ngô Thì Nhậm, Vũ Trinh (1759-1828), hiệu là Hải Âu, em rể
thi hào Nguyễn Du, Ngô Đăng Sở (1753-?), hiệu là Hải Hòa và Nguyễn Hành
hay Nguyễn Đàm (1771-1824), hiệu là Hải Điền, cháu gọi Nguyễn Du bằng
chú ruột, tham thiền học đạo, bàn luận, viết sách… là một hiện tượng
học Phật hết sức đặc biệt, có một không hai trong sinh hoạt văn học
Việt Nam. Tác phẩm “Trúc Lâm Tổng Chỉ Nguyên Thanh” đã ra đời trong
hoàn cảnh ấy, là đỉnh cao trong nỗ lực dung hợp Nho-Phật của quá
trình gần hai nghìn năm du nhập và phát triển ở đất nước ta của hai học
thuyết đó. Đã có một số bài viết nhằm tìm hiểu cùng đánh giá tác
phẩm kể trên, như: Mai Quốc Liên (Ngô Thì Nhậm trong văn học Tây Sơn, Sở
VHTT Nghĩa Bình xb, 1985), Trần Đình Hượu (Bài tham luận, in trong: Mấy vấn
đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Việt Triết học xb,
H, 1986), Hà Thúc Minh (Lịch sử phật giáo Việt Nam, nhà xb KHXH, H, 1988)…
nhưng khảo sát một cách quán xuyến thâu tóm, đánh giá công bằng, tham
bác, có giá trị hơn cả vẫn là những trang viết của giáo sư Nguyễn
Lang trong sách VNPGSL T2 (sđd, tr. 267-293).
d. Nguyễn Du (1765-1820) là gương mặt thơ lớn nhất
của văn học cổ điển Việt Nam, mà cũng là nhà thơ có những tiếp cận
thấu đạt nhất về Phật học. Toàn bộ tác phẩm của ông đều chịu
ảnh hưởng của Phật Giáo. Có thể nói đến một Nguyễn Du dung hợp một
cách thành công ba yếu tố Nho-Phật-Lão, đã phổ thông hóa cụm triết lý
nhân quả - nghiệp báo của Phật học. Chúng ta cũng có thể nói đến một
Nguyễn Du Phật tử trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh với cái đạo tâm
và tín tâm đã được thể hiện rất rõ, rất đậm nét. Rồi trong khối
lượng thơ chữ Hán gồm gần 250 bài, hơn bất cứ một nhà thơ nào trong
văn học Việt Nam, Nguyễn Du đã bày tỏ những xót xa, những thao thức, trăn
trở đối với bao cảnh vô thường biến đổi của vạn vật, cũng như tính
chất hư ảo, bèo bọt của kiếp người, của vinh hoa phú quý… để tiến
dần đến thiền học. Và với bài thơ "Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân
Kinh Thạch Đài" (Đài đá phân kinh của Thái Tử Chiêu Minh đời
Lương), nhà thi hào của chúng ta đã chính thức đặt chân lên vùng trời
vô ngôn thênh thang của thiền học. Xin giới thiệu đoạn cuối:
"Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà
sa số
Nhân liêu thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài
Bồ Đề bản vô thụ
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo phân kinh thạch đài hạ
Tài trí vô tự thị chân kinh".
(Ta nghe Linh Sơn đức Phật tổ
Thuyết pháp độ người nhiều như
cát sông Hằng nọ
Người tu được tâm độ lay rồi
Linh Sơn chỉ ở lòng người thôi!
Chẳng có đài gương sáng
Chẳng có cây Bồ Đề
Ta đọc Kim Cương trên nghìn lượt
Lắm điều sâu kín hiểu không
rành
Đài đá phân kinh nay được đến
Mới hay "không chữ ấy chân
kinh"). (Ngô Linh Ngọc, Mai Quốc Liên dịch, Nguyễn Du Toàn tập I,
nhà xb VH, H, 1996)
e. Trong văn học hiện đại, bài thơ
Lửa Từ Bi của nhà thơ Vũ Hoàng Chương có một vị trí đặc biệt. Nếu
ngọn lửa tự thiêu của HT Quảng Đức đã thắp sáng lên tinh thần vô
úy, tỏa lên sức mạnh của từ bi và trí huệ, góp phần đẩy bánh xe lịch
sử dân tộc tiến lên phía trước, thì bài thơ Lửa Từ Bi là một chứng
tích, một dấu ấn văn học đậm đà của một thời kỳ lịch sử, một
khẳng định bằng ngôn ngữ thi ca cho sự gắn bó giữa Phật Giáo và dân
tộc Việt Nam. Ngôn ngữ thơ ở đây đã là ngôn ngữ nhuần nhuyễn của một
người hiểu Phật và tin Phật:
" Ngọc hay đá, tượng chẳng
cần ai tạc
Lụa hay tre nào khiến bút ai ghi
Chỗ người ngồi: một thiên thu
tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nét từ bi
Rồi đây… rồi mai sau còn chi?
Ngọc đá cũng thành tro, lụa tre dần
mục nát
Với thời gian lê vết máu qua đi
Còn mãi chứ, còn trái tim Bồ Tát
Đội hào quang xuống tận chốn A Tỳ ’’
(Lửa Từ Bi, dẫn theo Nguyễn Lang, VNPGSL T3, nhà xb Lá Bối, Paris, 1985,
tr. 361)
- TÍNH CHẤT DIỄN TẢ, TÔ ĐIỂM
Phật Giáo, cũng như bất cứ một
hình thái xã hội nào đã trụ thế với đất nước Việt Nam thông qua những
hình thức quen thuộc của mình: ngôi chùa, các nhà sư, tiếng chuông mõ,
kinh kệ, những sinh hoạt về lễ bái cúng kính v.v…. tất cả đã là những
hiện thực gần gũi trong cộng đồng dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa. Từ
những hiện thực phong phú trong cuộc sống, chúng ta đã được chuyển hóa
thành những hiện thực sinh động trong văn học là chuyện hầu như tất
nhiên.
1. Trước hết là hình ảnh ngôi chùa, tiếng
chuông chùa đã gắn bó với cả chiều dài chiều rộng của văn học Việt
Nam, cả văn học dân gian, cổ điển và hiện đại.
a. Ở tục ngữ, ca dao, chúng ta sẽ luôn gặp
ngôi chùa trong suốt cả cuộc đời của một con người:*
Ngôi chùa làng quen thuộc:
"Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt"
Ngôi chùa, tiếng chuông chùa của sự
hẹn hò, thề ước.
"Bao giờ cạn lạch Đồng
Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời
nguyền"
"Tiếng chuông Thiên Mụ dặn
dò
Em đi cảnh vắng, hẹn hò cùng
ai".
Ngôi chùa với ước nguyện của
đôi lứa:
"Lên chùa lạy Phật quy y
Cầu cho bến nớ, bên ni kết nguyền".
Ngôi chùa với tình yêu gắn bó
của đôi vợ chồng trẻ :
"Đôi ta như tượng mới tô
Như chuông mới đúc, như chùa mới
xây".
Ngôi chùa thân thuộc trong sinh
hoạt của người dân:
"Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về".
Ngôi chùa với quá trình lao động
của dân chúng:
"Rủ nhau xuống biển câu cua
Lên non hái nhãn vô chùa nghe
kinh".
Ngôi chùa trên đường Nam tiến
của dân tộc:
"Ra đi gặp vịt cũng lùa
Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng
tu".
Ngôi chùa gắn liền với các lễ
hội truyền thống:
"Tháng bảy ngày rằm xá tội
vong nhân"
"Nhớ ngày mồng bảy tháng ba
Trở vào Hội Láng, trở ra Hội Thầy".
"Mồng bảy Hội Kám, mồng tám
Hội Dâu
Mồng chín đâu đâu trở về Hội
Dóng”.
Ngôi chùa trong sự hiếu thảo của
người con:
"Lên chùa thấy Phật muốn
tu
Về nhà thấy mẹ, công phu chưa đành".
"Ngó lên trên trời thấy cặp
cu đương đá
Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá
đương đua
Anh về lập miếu thờ vua
Lập am thờ mẹ, lập chùa thờ
cha".
Ngôi chùa trong bóng xế của đời
người:
"Thiếp về lựa chuối thiếp
mua
Lựa hương thiếp thắp, lựa chùa
thiếp tu".
Ngôi chùa của tuổi già:
"Trẻ vui nhà, già vui
chùa".
b. Một điểm đáng chú ý là trong tục ngữ ca
dao Việt Nam, ngôi chùa còn được sử dụng qua ngả ẩn dụ, càng chứng tỏ
sự gắn bó của hình ảnh ngôi chùa trong tư duy của người Việt Nam:
"Chùa rách Phật vàng".
"Ăn xôi chùa ngọng miệng".
"Bụt chùa nhà không
thiêng".
"Có vả thì phụ lòng sung
Có chùa bên bắc, bỏ miếu đông tồi
tàn".
"Tuy rằng ăn ở chùa này
Tiền lưng gạo bị cúng thầy chùa
kia".
"Công tôi đánh đá xây tường
Để ai đóng oản, dâng hương chùa
này".
"Thương thay thân phận con rùa
Ra đình đội hạc, lên chùa đội
bia"…
c. Trong văn học chữ Hán, hình ảnh ngôi
chùa, tiếng chuông chùa đã là những nguồn cảm hứng lớn. Chỉ nói
riêng về phần thi ca, chúng ta có thể kể ra hằng mấy trăm bài thơ viết
rất đạt về ngôi chùa, tiếng chuông chùa, mỗi bài là một ghi nhận, một
phát hiện, một soi sáng hay một khám phá. Đây là ý kiến của Hải Thượng
Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791): "Sớm tối đánh vài hồi chuông cho
lòng trần lắng sạch…" (Thượng Kinh Kỷ Sự, Bùi Hạnh Cẩn dịch,
nhà xb Hà Nội, 1977, tr. 152). Kể cả một số tác giả từng có ác cảm với
cửa thiền như Trương Hán Siêu (?-1354), Sái Thuận (thế kỷ 15), Ngô Thì Sĩ
(1726-1780), Phạm Quý Thích (1760-1825)… cũng đã có những ghi nhận đặc sắc
về các cảnh chùa:
Đó là những khám phá mang tính chất
ân hận của Trương Hán Siêu:
"Trung lưu quang tháp ảnh
Thượng giới khải nham phi
Phù thế như kim biệt
Nhàn thân ngộ tạc phi"…
(Tháp in trên dòng sáng
Cửa động mở đầu non
Cuộc đời ta mây nổi
Biết ngay xưa lạc lầm) (Bài Khắc
Đá Núi Dục Thúy, Nguyễn Lang dịch, VNPGSL2, sđd, tr. 260)
Sái Thuận đã ghi nhận về chùa Phả
Lại:
"Phù dạ chung quy hải
Hàm thu nguyệt trụy giang
Long ngâm môn ngoại thủy
Lộ quá vụ biên song
Ngư châu địch kỷ xoang”.
(Chuông tối vang ra biển
Trăng thu rớt giữa dòng
Rồng kêu sông trước cửa
Cò lướt khói bên song
Thỉnh thoảng còi ngư thổi
Khua tỉnh mộng sư ông") (Bài
Chùa Phả Lại, Hoàng Việt Thi Văn Tuyển, bd của nhóm Lê Quí Đôn, dẫn
theo bản Ronéo của ĐHSP Sài Gòn, T3, tr.42-43).
Ngô Thì Sĩ đã có những phát hiện
khi ghé thăm chùa Trinh Sơn:
"Yên hà tam sổ tính
Kim tích kỷ thiên thu
Danh lợi nhân không nhiệt
Lâm tuyền cảnh tự u
Bồi hồi ngâm bất tựu
Tôn thạch khán giang lưu".
(Mấy đỉnh khói mây phủ
Muôn thu ngày tháng trôi
Lợi danh người náo nức
Rừng suối riêng thảnh thơi
Trên đá nhìn sông chảy
Thơ không thành, bồi hồi) (Bài
Lên Thăm Chùa Trinh Sơn, Băng Thanh dịch, Ngô Thì Sĩ, Trần Thị Băng Thanh
biên soạn, nhà xb Hà Nội, 1987, tr. 113-114).
Phạm Quý Thích đã thực sự khám
phá và cảm nhận chất thiền khi mô tả một số cảnh đẹp chung quanh chùa
Trần Quốc:
" Thanh thả liên y
Tây Hồ chi thủy
Bách ức liên phi
Nhứt thiết hoan hỉ
Bất cảm hà tịch?
Bất linh hà hư?
Quản bỉ thủy nguyệt
Tư kiến chân như"
(Sóng gợn trong vắt
Mặt nước Tây Hồ
Ngàn đóa hoa sen
Đua nhau vui nở.
Tịch nào không cảm?
Hư nào không thiêng?
Trăng lồng đáy nước
Soi tỏ chân như) (Bài Minh của
văn bia chùa Trần Quốc, Tuyển Tập văn bia Hà nội, T1, nhà xb KHXH, H, 1978,
tr. 37-38 dịch, tr. 138 Hán).
d. Hầu hết các tác phẩm chữ Nôm nổi tiếng
trong văn học Việt Nam, từ Lâm Tuyền Kỳ Ngộ (khuyết danh), Tư Dung Văn
(Đào Duy Từ, 1572-1634), Phan Trần (khd), Nhị Độ Mai (khd), Bich Câu Kỳ Ngộ
(khd), Quan Âm Thị Kính (khd), Quan Âm Nam Hải (shd)… đến Sơ Kính Tân Trang
của Phạm Thái (1777-1814), Hoa Tiên truyện của Nguyễn Huy Tự (1743-1790),
Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
(1822-1888)… đều có đề cập đến hình ảnh ngôi chùa hoặc đậm nhạt
với những vị trí và vai trò không giống nhau, nhưng thấy cùng có một
điểm chung là đều gián tiếp xác nhận rằng đó là những hình ảnh
không thể thiếu. Xin giới thiệu đoạn tả cảnh chùa Kim Sơn là đoạn
thơ đẹp nhất trong Sơ Kính Tân Trang của Phạm Thái:
"Đầu non vượn hót khỉ
treo
Cây kê cửa động, hoa leo mái già
Chim rừng dóng dả tiếng ca
Nước tuôn khe biếc, khói pha lá
vàng
Kinh Thủy Sám, kệ Kim Cương
Rẩy cành cam lộ, thét gươm Đại
Hùng
Úm ma ni bát minh hồng
Kinh vang tiếng giác, cả giong giọng
từ
Nguyện Di Đà, niệm Tỳ Lư
Bồ Đề là đạo, chân như ấy lòng"
(Dẫn theo Nguyễn Văn Xung, Phạm Thái và Sơ Kính Tân Trang, nhà xb Lửa
Thiêng, S, 1972, tr. 123).
e. Chỉ nói riêng về Phần Thơ Mới trong văn học
hiện đại, mặc dù thời bấy giờ nhiều nhà thơ đã quá hăm hở trong việc
đi hứng lấy luồng gió lãng mạn từ phương Tây thổi sang, hình ảnh
ngôi chùa và tiếng chuông chùa vẫn có mặt một cách sinh động trong thơ
của Nam Trân, Đoàn Văn Cừ, Nguyễn Nhược Pháp, J. LeiBa, Hồ Dzếnh, Anh Thơ,
Bích Khê, Quách Tấn, Lưu Trọng Lư, Ngân Giang, Xuân Tâm, Nguyễn Bính… Nếu
ở thơ Nôm, Chu Mạnh Trinh (1862-1905) được xem là nhà thơ của chùa Hương
với Hương Sơn Phong Cảnh, Hương Sơn Nhật Trình Ca, thì ở thơ Mới, cái
tên gọi thân thuộc ấy có thể dành cho Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) với
bài thơ dài viết về chùa Hương được nhiều người biết đến. Cũng
trong ý hướng tìm về các lễ hội truyền thống, ngôi chùa đã gắn liền
với tục lễ bái-hái lộc đầu xuân của người dân trong thơ Nguyễn Bính
(1919-1966):
"Trên đường cát mịn một
đôi cô
Yếm đỏ, khăn thâm trẩy hội
chùa
Gậy trúc, dắt bà già tóc bạc
Lần lần tràng hạt niệm Nam
mô" (Bài Xuân Về, dẫn theo Trần Tuấn Kiệt, Thi Ca Việt Nam Hiện
Đại, nhà xb Khai Trí, S, 1968, tr. 352).
Và thử xem, "Bức Tranh
Quê" của nữ sĩ Anh Thơ sẽ thiếu sót biết bao nếu như không có
ngày Rằm tháng bảy, ngày Lễ Vu Lan và cũng là ngày Tết Trung Nguyên của
dân tộc. Hơn thế nữa, đối với Nguyễn Bính, ngôi chùa quê đã trở
thành một phần của quê hương thương nhớ của mình:
"Quê tôi có gió bốn mùa
Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm
Chuông hôm gió sớm trăng rằm
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế
thôi!
Mai này tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi bỏ
chùa!" (Dẫn theo Mãn Giác, Phật Giáo và Nền Văn Hóa VN, ĐH Vạn Hạnh
xb, S, 1967, tr. 58)
- Hoa, hương, ánh trăng gió nước, chim chóc, cây cỏ…
là những hiện thực, những sự kiện đem lại nhiều ý nghĩa cho cuộc sống
con người. Vì sinh hoạt trong Phật Giáo thường gắn liền với chúng, nên
nhiều nhà thơ, từ cửa thiền hay đứng gần cửa thiền, đã diễn tả
trong sự kết hợp với chất liệu thiền, đem lại cho thi ca Việt Nam những
nét phong phú ít có.
- Sách Việt Nam Văn Học Sử Yếu của giáo sư
Dương Quảng Hàm (1898-1946), phần bàn về kết cấu của ca dao, đã cho rằng
bài ca dao "Trong đầm gì đẹp bằng sen…” được kết cấu gồm hai
thể Phú và Tỷ:”… vừa tả hoa sen (phú), vừa ví quân tử với hoa sen
(tỷ)” (sđd, bản in 1968, tr. 14). Ví người quân tử với hoa sen thì cũng
chỉ là một lối suy diễn theo ảnh hưởng của Nho Giáo mà thôi. Theo
chúng tôi, bài ca dao ấy có thể được giảng giải theo quan điểm Phật
Giáo, vì đạo Phật đã từng thuyết minh rất nhiều về hoa sen, một trong
số các bộ Kinh nổi tiếng của Phật Giáo Bắc Tông là Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa (Hoa Sen chánh pháp, chữ của HT Trí Quang), và hình ảnh các vị
chân tu hết lòng vì đạo, vì nước, hình ảnh các vị Bồ Tát xả thân
vì đời, lợi lộc không màng… mới đích thực là những con người
"gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bún". Có thể xem lại những lời
ca ngợi của Ngô Thì Nhậm đối với Liên Lão thiền sư chùa Hưng Long như
đã dẫn trên, hoặc hai bài viết của cụ Phan Bội Châu (1867-1940) về thiền
sư Thiện Quảng (1862-1911) (Xem truyện Nhà Sư Ăn Rau, trong Phan Bội Châu
Toàn Tập, T3, nhà xb Thuận Hóa, 1990 ; Văn Thơ Phan Bội Châu, nhà xb Văn
Học, H, 1961, truyện Đường Tăng Nước Nam, thiền sư Thiện Quảng).
b. Trong văn học Việt Nam, có lẽ vua Lý Thái
Tông (1000-1054) là nhà thơ đầu tiên đã nói đến sắc hoa, ánh trăng,
trong sự kết hợp với chất liệu Thiền để diễn tả:
"Ung khai chư Phật tín
Viên hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng Già nguyệt
Phân phân Bát Nhã liên"
(Mở niềm tin đức Phật
Xa hợp một tâm nguồn
Trăng Lăng Già vằng vặc
Sen Bát Nhã thơm truyền) (Bài
Truy Tán Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, TUTA, sđd, tr. 167-168).
Cùng thời với vua Lý Thái
Tông, thiều sư Viên Chiếu (999-1091) trong một số "Thoại đầu thiền"*
cũng đã kết hợp với những hình ảnh trăng gió hoa của thi ca:
"Trong tuyết mẫu đơn nở
Trời thu oanh hót vang"
(Thu thiên đoàn thử lệ
Tuyết cảnh mau đơn khai) (TUTA,
sđd, tr. 61)
"Gió thổi sừng kêu xuyên rặng
trúc
Vầng trăng vượt núi đến bên tường".
(Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc
đáo
Sơn nham đái nguyệt quá tường
lai) (TUTA, sđd, tr. 73).
c. Chúng ta đã nói đến một cành Hoa Mai tuyệt
vời của thiền sư Mãn Giác đời Lý. Chúng ta cũng có thể nói tới một
Hoa Cúc tuyệt diệu của thiền sư Huyền Quang (1254-1334) đời Trần.
Bàn về hoa cúc, những người quan
tâm đến văn học cổ thường nghĩ tới Đào Tiềm (365-427) nhà thơ xuất
sắc thời Đông Tấn, Trung Quốc. Ở Việt Nam, từ đời Trần đã có nhiều
tác giả viết về hoa cúc, như Trương Hán Siêu (?-1354), vua Trần Minh Tông
(1300-1357), Trần Nguyên Đán (1325-1390) v.v… Một số nhà thơ nổi danh như
Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, đều có nhắc tới loại hoa quen thuộc
ấy trong thơ của mình và nhất là Nguyễn Khuyến (1835-1909) với hai bài thất
ngôn bát cú Vịnh Cúc (xem: Thơ văn Nguyễn Khuyến, nhà xb VH, H, 1979), tr.
281-283), được xem là người chịu ảnh hưởng đậm của Đào Tiềm "Ở
nước ta, thi nhân gần gũi với ông - chỉ Đào Tiềm - nhất là Nguyễn
Khuyến" (Nguyễn Hiến Lê, Đại Cương Văn học sử Trung Quốc, T1, nhà
xb NHL, S, 1964, tr. 09).
Nhưng chỉ với thiền sư Huyền
Quang, với sáu bài thất ngôn tứ tuyệt viết về Hoa Cúc, với sự kết hợp
hài hòa giữa thiên nhiên và chất liệu Thiền, thì mới tạo được sự gắn
bó đậm đà giữa loài hoa đó với cả chiều rộng - chiều cao của kiếp
người. Xin giới thiệu bài 2 và bài 5:
"Thiên giang vô mộng cán khô
trường
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang
Lão khử sâu ngậm hon vị ổn
Thi biêu thực vị cúc hoa mang
Hoa tại trung đình, nhân tại lâu
Phân hương độc tọa tự vong âu
Chủ nhân dữ vật hôn vô cạnh
Hoa hướng quân phương xuất nhất
đâu”.
(Ngàn sông không đủ thấm lòng
già
Bách vịnh mai hoa vẫn kém xa
Đầu bạc ngâm hoài vần chưa ổn
Thấy hoa cúc nở rộn lòng ta
Người ở trên lầu hoa dưới sân
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
Hồn nhiên người với hoa vô biệt
Một đóa hoa vàng chợt nở tung) (Nguyễn
Lang dịch, VNPGSL T1, sđd, tr. 371-372)
“Một đóa hoa vàng chợt nở
tung" chính là sự bừng tỉnh của một tâm linh đạt đạo trong cái
giây phút nhiệm mầu.
d. Chúng ta đã có một đóa Hoa Bông Bụt trong thơ
Nôm của Nguyễn Trãi. Ở đây, chúng ta cũng có thể nhìn thấy một đóa
hoa sen luôn tươi nở trong cuộc sống của thiền sư Minh Lương (thế kỷ
17).
"Mỹ ngọc tàng ngoan thạch
Liên hoa xuất ư nê
Tu tri sinh tử xứ
Ngộ thị tức Bồ Đề”.
(Ngọc xinh ẩn trong đá
Hoa sen nảy tự bùn
Nên biết tìm giác ngộ
Nơi sinh tử trầm luân) (Nguyễn
Lang dịch, VNPGSL T2, sđd, tr. 121)
Hoặc một cánh chim Nhạn tự tại
của Thiền sư Hương Hải (1628-1715):
"Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm"
(Nhạn bay ngang trời
Bóng chìm đầm lạnh
Nhạn không ý lưu lại dấu
Nước không tâm giữ lại hình) (Nguyễn
Lang dịch, sđd, tr. 175)
Hay một ánh mặt trời mãi tỏa
sáng của thiền sư Chân Nguyên (1646-1726):
"Hữu thuyết giai thành báng
Vô ngôn diệc bất dung
Vị quân thông nhất tuyến
Nhật xuất lĩnh đông hồng”
(Nói ra là bị kẹt
Không nói cũng chẳng xong
Vì anh đưa một nét
Đầu núi ánh dương hồng) (Nguyễn
Lang dịch, sđd, tr. 14-15)
- Với cụ Phan Bội Châu (1867-1940), chúng ta cũng có
thể nói đến nhiều đóa hoa Sen và nhiều nụ Ngọc Lan:
Hoa Sen:
"Tròn lửng bóng in trăng đáy
nước
Hồng tươi sắc khiếp ráng chiều
hôm
Trên tây Phật Thích càng thêm
thánh
Dưới gót Phan Thi chẳng kể
phàm" (Thơ văn Phan Bội Châu thời kỳ ở Huế, Trần Anh Vinh, Chương
Thâu bs, nhà xb Thuận Hóa, 1987, tr. 119)
Sen tàn:
“Sắc ấy không chăng, không ấy
sắc
Cây còn gốc đó, gốc còn cây
Chẳng bao lâu nữa đông sang hạ
Lá lục hoa hồng lớp lớp bay"
(Sđd, tr. 120)
Vịnh Hoa Ngọc Lan:
"Tiền thân chúng xuất tự Bồng
Lai
Di hướng Bồ Đề viện lý tài
Tố nhụy quan tranh đông dạ tuyết
Kỳ phương phẩm đoạt lãnh đầu
mai
Hương chân vương giả thiên thùy
thưởng
Trang tỷ Hằng Nga nguyệt ám xai
Duy Phật trùng lai năng thức Phật
Ân cần huệ ngã thử hoa
khôi".
(Kiếp xưa sinh ở chốn Bồng Lai
Dời xuống trồng bên cạnh Phật
đài
Nhụy trắng đêm đông tranh sáng
tuyết
Phẩm thơm đầu núi át mùi mai
Hương như vương giả trời thương
đến
Đẹp ví Hằng Nga nguyệt ghét hoài
Chỉ Phật mới hay thông rõ Phật
Ân cần tặng tớ một nhành mai) (Trần
Văn Tường dịch, sđd, tr. 212-213)
Cần ghi chú thêm là bài thơ Vịnh
Hoa Ngọc Lan, cụ Phan đã viết đề tặng HT Tịnh Khiết (1890-1973) chùa Tường
Vân, Huế.
- TÍNH CHẤT CHUYÊN CHỞ, PHẢN ÁNH
Phần được bàn sau cùng là sự gắn
bó giữa Phật Giáo với văn học Việt Nam trong quá trình cung cấp cùng
nâng cao những cái nhìn về nhân sinh, vũ trụ. Thực ra thì khi giới thiệu
một số chi tiết ở phần hai, chúng ta đã ít nhiều nhận ra những cái
nhìn như thế cho nên phần này được xem như là bổ sung cho phần trước.
- Đây là ý kiến của giáo sư Trần Quốc Vượng
trong sách "Lịch Sử Việt Nam" tập I : "Thuyết nhân quả - nghiệp
báo của Phật Giáo phù hợp với tín ngưỡng dân gian Việt Nam về việc
ông trời trừng phạt kẻ ác, cứu giúp ban thưởng người lành. Thuyết
luân hồi cũng phù hợp với quan niệm linh hồn tồn tại sau khi xác thân
tiêu hoại và cũng phù hợp với nhận xét về sự tuần hoàn của cây cỏ
của cư dân nông nghiệp…" (Sđd, nhà xb ĐH và TH chuyên nghiệp, H,
1983, tr. 396). Ý kiến này giúp chúng ta lý giải sự có mặt một cách phong
phú cụm triết lý nhân quả - nghiệp báo – luân hồi của Phật Giáo
trong văn học dân gian Việt Nam, thông qua nhiều ngả:
- Ngả trực tiếp, hiện tiền:
Gậy ông đập lưng ông.
Tham thì thâm, Bụt đã bảo tham rằng
chớ có tham.
Ở tinh gặp ma, ở quỷ gặp quái,
gian tà gặp nhau.
Ngả báo ứng, thưởng phạt:
Gieo gió, gặt bão.
Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
Ai mà phụ nghĩa quên công
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng
thơm.
Ngả nghiệp báo-luân hồi:
Làm kiếp trâu ăn cỏ
Làm kiếp chó ăn dơ.
Ai ơi hãy ở cho lành,
Kiếp này chưa gặp, hãy dành kiếp
sau.
Trứng rồng lại nở ra rồng,
Liu điu lại nở ra giòng liu điu.
Ngả tu nhân, tích đức:
Hương Bụt thắp thờ Bụt.
Người trồng cây hạnh người
chơi,
Ta trồng cây đức để đời về
sau.
Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm…
- Truyện Tấm Cám là truyện điển hình nhất cho
ảnh hưởng của triết lý nhân quả-nghiệp báo nơi Phật Giáo đối với
mảng truyện cổ dân gian Việt Nam. Trong truyện, Bụt đã hiện ra đến bốn
lần để giúp Tấm vượt qua những khó khăn ban đầu. Tính chất báo ứng
được trộn lẫn với sự việc đầu thai hóa kiếp… để thể hiện một
cách thích hợp và sinh động theo hướng dân gian quen thuộc làm nên đặc
điểm của nội dung truyện.
- Một số mảng giáo lý nhà Phật như lẽ vô thường,
biến chuyển, tinh thần nhẫn nhục, từ bi, tính chất tu tâm, tuỳ duyên
v.v…. cũng được tục ngữ, ca dao VN ghi nhận, phản ánh:
- Mỗi năm một tuổi, như đuổi xuân đi
- Người đời khác nữa là hoa
Sớm còn tối mất, nở ra lại tàn
Sao bằng làm phúc cứu cho một người
- Chữ nhân là chữ tương vàng
Ai mà nhẫn được thì càng sống
lâu
Đi với ma mặc áo giấy
- Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài
- Ăn cơm với cái thì ngáy o o
Ăn cơm với thịt bò thì lo ngay
ngáy…
- Ở thi ca chữ Nôm, nhất là thi ca chữ Hán, trong
khi viết về ngôi chùa, bên cạnh việc mô tả, ghi nhận về những giá trị
thẩm mỹ của nó, chúng ta còn gặp khá nhiều những phát hiện, khám phá
về nhân sinh, vũ trụ… mà chúng ta có thể gọi là giá trị triết lý của
ngôi chùa.
- Đây là một phát hiện của Chu Văn An (?-1370):
"Nhàn thân nam bắc phiến
vân khinh
Bản chấm thanh phong thể ngoại
tình
Phật giới thanh u, trần giới viễn
Đình tiền phút huyết nhất oanh
minh"
(Thân nhàn tựa áng mây trôi
Gió trăng nửa gói, việc đời nhẹ
thênh
Cõi trần xa, cõi Phật thanh
Sân hoa đỏ rực, chim oanh líu lường)
(Bài Tạm nghỉ ở núi Thôn Nam, Đào Thái Tôn dịch, Thơ Văn Lý Trần
3, nhà xb KHXH, H, 1978, tr, 57)
- Nguyễn Phi Khanh (1355-1428) còn đi xa hơn khi nghe tiếng
chuông chùa mà cảm nhận được tính chất bao la của đất trời:
"Viễn viễn tòng tăng tự
Sơ sơ lạc khách bồng
Triều sinh, thiên địa hiêu
Nguyệt bạch, hựu giang không"
(Vẳng tự chùa xa tới
Tiếng thưa lọt mui bồng
Triều dâng, trời đất rạng
Trăng bạc, sông mênh mông) (Bài
Tiếng chuông sớm ở Hóa Thành, Tiên Sơn, Huệ Chi dịch, sđd, tr.473)
- Từ tiếng chim quen thuộc, Nguyễn Trãi đã khám
phá ra sự biến chuyển của vạn vật và tính chất mộng ảo của cuộc
đời:
"Quân thân nhất niệm cửu
anh hoài
Giản quý, lâm tàm túc nguyện quai
Tam thập dư niên trần cảnh mộng
Số thanh đều điểu hoán sơ hồi".
(Một dạ quân thân vướng vít
hoài
Thẹn rừng, tủi suối ước xưa
sai
Ba mưoi năm lẻ trong trần mộng
Và tiếng chim kêu tỉnh lại thôi) (Bài
Chùa Đông Sơn, Đào Duy Anh dịch, Nguyễn Trãi TT, sđd, tr. 331)
- Nguyễn Trực (1417-1474) đã nhìn thủng từ làn hương
cúng Phật mà nhận ra nẻo luân lưu của kiếp người trong thế giới bao
la:
"Diệu khê tam sinh mộng
Do tồn nhất lũ yên
Lâu đài phi thế hữu
Hoa mộc đắc xuân thiên
Du mục phù vân ngoại
Mang mang thị đại thiên"
(Phải giấc mộng ba sinh
Khói hương còn phảng phất?
Lâu đài cảnh Nhược, Bồng
Cỏ hoa cùng khoe sắc
Cuộc đời mây nổi kia
Đại thiên trong tầm mắt) (Bài
Lên chùa núi Hương Lô, Hợp Tuyển Thơ Văn VN T2, sđd, tr. 346, ĐN dịch)
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) đã đi từ trường
hợp cái Đỉnh nổi tiếng ở Chùa Phổ Minh - một trong An Nam tứ khí đời
Lý – mà nêu lên sự tương quan giữa vô hình và hữu hình:
"Pháp giới ưng đồng thiên
quảng đại
Hương nhân do thuyết địa anh linh
Liêu liêu cô đỉnh kim hà tại?
Thức đắc vô hình thắng hữu
hình"
(Pháp giới phải ngang trời rộng lớn
Người làng van nói đất anh linh
Vẳng không cô đỉnh rày đâu tá?
Mới biết vô hình thắng hữu
hình) (Bài thăm chùa Phổ Minh, Hữu Thê dịch, Thơ Văn Nguyễn Bỉnh Khiêm,
nhà xb VH, H, 1983, tr. 233-234).
- Cũng có thể nói tới một phát hiện của Cao Huy
Diệu (hậu bán thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, nội tộc của Cao Bá Quát)
trong lần đầu lên thăm chùa Tiên Sơn:
"Thiên hoa thắng cảnh cung
bình nguyệt
Bát điệp tiền nhân tống phẩm đề
Cước hạ giang sơn kỳ bán cục
Thao thao lãnh tiêu trọc đô
mê"
(Duyên xưa tám lá truy nguôn lá
Cảnh đẹp ngàn hoa lựa tứ hoa
Thế giới dưới chân cờ nửa cuộc
Cười ai bể trọc chửa nhìn ra) (Bài
thăm chùa Tiên Sơn lần trước, Ngô Linh Ngọc dịch, Văn học Tây Sơn, Nguyên
Lộc bs, sở VHTT Nghĩa Bình xb, 1986, tr. 382-383)
- Hoặc một khám phá đầy tính tự hào của Cao
Bá Quát (1809-1855), xem như là một khẳng định cho sự gắn bó muôn đời
giữa ngôi chùa với sông núi quê hương:
"Thiên địa hữu tư sơn
Vạn cổ hữu tư tự
Phong cảnh dĩ kỳ tuyệt
Nhi ngã diệc lai thử"
(Trời đất có núi ấy
Muôn thuở có chùa này
Phong cảnh đã kỳ tuyệt
Lại thêm ta đến đây…) (Bài
Qua núi Dục Thúy, Ngô Lập Chi dịch, Thơ Chữ Hán Cao Bá Quát, nhà xb VH, H,
1976, tr. 56-57).
- Cũng từ những phong cảnh kỳ tuyệt, Nguyễn Khuyến
(1835-1909) đã hiểu thêm về cuộc sống:
"Tinh không thạch bích sinh
hàn vũ
Dạ bán chung thinh lạc nộn triều
Lâm thử giang sơn kỳ thắng tuyệt
Tọa giao khôi lôi nhất thời
tiêu"
(Trời quang vách đá dầm hơi nước
Đêm vắng hồi chuông rớt ngọn
triều
Ngắm cảnh non sông kỳ tuyệt ấy
Nợ đời bỗng chốc chẳng còn
đeo) (Bài lên núi Ngũ Hành Sơn lưu đề, Nguyễn Văn Khoa dịch, Thơ Văn
Nguyễn Khuyến, sđd, tr. 225-226)
- Đào Tấn (1845-1907) sau hơn mười năm thăng trầm
trên bước đường công danh, đã tìm ra chỗ dựa cho đời mình:
"Thập niên hồ hải quy lai mộng
Nhất kỉnh yên hà tự tại
thiên"
(Khói hoa một mớ trời dành sẵn
Ao biển mười năm mộng trở về) (Câu
Đối làm ở chùa Linh Phong, Vũ Ngọc Liên dịch, Thư Mục Tư liệu về Đào
Tấn, Sở VHTT Nghĩa Bình xb, 1985, tr. 83)
- Cũng không quên nhắc tới cái khám phá của Chu Mạnh
Trinh (1862-1905) nhà thơ Nôm của danh lam thắng cảnh Hương Tích:
"Giữa dòng đáy nước lồng
gương
Mượn chèo ngư phủ đưa đường
đào nguyên
Lạ cho vừa bén mùi thiền
Mà trăm não với nghìn phiền sạch
không" (Hương Sơn Nhật Trình Ca, dẫn theo VHS Giản Lược 3 của Phạm
Thế Ngữ, S, 1965, tr. 44)
- MỘT SỐ SUY NGHĨ, ĐỀ XUẤT THAY CHO KẾT LUẬN
Xin được nhắc đến cái chân lý
mà cũng là niềm tin của chúng tôi: con người, cá nhân hay cả một dân tộc,
sẽ không thể có một tương lai tốt đẹp nếu không biết trân trọng và
phát huy quá khứ. Như thế, vấn đề được đặt ra là: Phật Giáo đã
có được những đóng góp lớn lao cho văn học Việt Nam trong quá khứ. Vậy,
Phật Giáo Việt Nam sẽ đóng góp được những gì cho sinh hoạt văn học
Việt Nam, hiện tại cũng như tương lai? Vấn đề này xin được xét ở cả
hai phía:
1. Về phía Phật Giáo: Phải thừa
nhận rằng, ảnh hưởng của Phật Giáo trong văn học hiện đại Việt Nam
- nhất là ở mảng sáng tác – không đậm đà bằng trong văn học cổ điển.
Điều này có những nguyên nhân xa gần và có thể thâu tóm vào một số
nét chính sau đây:
- Đối tượng sáng tác, đề tài
sáng tác trong văn học hiện đại được mở rộng hơn so với văn học cổ
điển.
- Phật Giáo Việt Nam, trong cái biến
chuyển chung của đất nước và dân tộc, đã chưa có được những thời
gian và hoàn cảnh thuận lợi để phát huy bản sắc của mình. Nên nhớ rằng,
thời gian từ 1965-1975 ở miền Nam trước ngày đất nước thống nhất,
văn học Phật Giáo đã có một số thành tựu đáng chú ý. Các tập thơ của
Huyền Không, Trụ Vũ, Trúc Diệp, Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, kịch của Lê
Văn Siêu (Quốc sư Vạn Hạnh, nhà xb Lá Bối, 1967)…, những tập truyện của
Tâm Quán, Nhất Hạnh, Võ Đình Cường, v.v….. là những minh chứng. Tuy
nhiên, mười năm chưa phải là thời gian đủ để cho nhân tốt trở nên
quả tốt trong văn học.
- Từ sau ngày đất nước được
thống nhất, Phật Giáo Việt Nam cũng chưa tìm đư?c những hoàn cảnh thuận
lợi cho sự phát triển của mình. Khoảng hơn năm, sáu năm trở lại đây,
đất nước có những biến chuyển trong sự “đổi mới”, hoàn cảnh thuận
lợi tương đối đối với Phật Giáo đã mở ra và Phật Giáo Việt Nam đã
tạo được những bước phát triển, thành tựu ở các mặt. Tuy nhiên,
nhìn chung, so với yêu cầu của thời đại, Phật Giáo VN còn khá nhiều
điểm hạn chế cần khắc phục để vượt qua cũng như còn gặp phải nhiều
khó khăn, cả mặt chủ quan và khách quan.
- Đội ngũ những người làm công
việc sáng tác ở đây là những văn nghệ sĩ Phật tử và các văn nghệ
sĩ có cảm tình với đạo Phật - vẫn chưa có được thời gian và hoàn cảnh
tốt để phát huy sở trường của mình. Đấy là chưa kể, đã có một thời
gian, một bộ phận của giới trí thức Việt nam đã hiểu lầm hoặc hiểu
sai về Phật Giáo, hay thiếu những điều kiện để tạo được những đối
thoại, tìm tòi.
Như vậy, đặt vấn đề Phật Giáo
VN sẽ đóng góp được những gì cho đời sống văn học Việt Nam, hiện tại
cũng như tương lai, tức cũng là đặt vấn đề “sức sống đích thực của
Phật Giáo VN trong hiện tại và mai sau", đề cập đến nhiều vấn đề
như Giáo dục, Hoằng pháp, Nghi lễ, sinh hoạt của gia đình phật tử,
nghiên cứu Phật học, in ấn xuất bản, hoàn thành Đại Tạng Kinh Việt
Nam trên cơ sở của Tạng Pali và Tạng Hán… Chúng tôi mong có được những
ý kiến đóng góp của các vị có những hiểu biết chuyên môn cùng đạo
tâm đối với các vấn đề trên, nhằm soi sáng để có được một cái
nhìn tổng thể thì mới đưa tới một số kết luận có sức thuyết phục
lớn.
2. Về phía giới sáng tác: Như trên
đã nói, giới này gồm các văn nghệ sĩ Phật tử và các nhà thơ, nhà văn,
nhà viết kịch ít nhiều có cảm tình với đạo Phật. Họ đã có, đang có
và sẽ có ngày một đông hơn cùng với sự phát triển khẳng định sức
sống đích thực của Phật Giáo Việt Nam hiện đại, Tất nhiên là những
người làm công việc sáng tác luôn có tinh thần cầu tiến, ham tìm tòi,
phát hiện, khám phá v.v…. Cho nên, Phật Giáo, với những vùng đề tài hầu
như còn bỏ ngõ, sẽ là những mời gọi đầy lôi cuốn, hấp dẫn. Chúng
ta đã có một Nguyễn Trọng Thuật (1883-1940) với Cô Con Gái Phật Hái Dâu
viết về cuộc đời của Ỷ Lan Nguyên Phi đời Lý; một Đoàn Trung Còn
trong cố gắng dùng thơ lục bát để diễn thơ tác phẩm The Light of Asia của
S.E. Arnold thành Ánh Sáng Á Châu; một Lê Văn Siêu với vở kịch Quốc Sư
Vạn Hạnh; một Võ Đình Cường với Ánh Đạo Vàng, Thử Hòa Điệu Sống,
Suối Từ - Mùa Gặt; có một Phạm Thiên Thư với Đoạn Trường Vô Thanh,
với nỗ lực muốn thi hóa một số kinh Phật tiêu biểu v.v…. Đó là những
tham khảo cần thiết cho những người sáng tác đi sau.
Nhìn chung, cái mà cả hai phía đều
cần, phía Phật Giáo Việt Nam và phía những người làm công việc sáng
tác, chính là thời gian và hoàn cảnh thuận lợi. Nhưng xét cho cùng thì yếu
tố quyết định vẫn ở nơi con người, những con người có trình độ và
đức độ biết làm chủ thời gian và hoàn cảnh.
Chúng tôi, với những hiểu biết
và tin tưởng từ quá khứ, chúng tôi xin thành tâm cầu nguyện cho Phật
Giáo Việt Nam đã và sẽ sản sinh ra nhiều những con người như thế.
Mùa Vu Lan 96