- PHẬT GIÁO TRONG THẾ KỶ
MỚI
- PHẬT LỊCH 2540 – GIAO
ĐIỂM
- Tuyển tập 1
- ***
- PHẬT GIÁO: SINH LỘ CHO NHÂN LOẠI?
- Tinh Tiến
Nhân Loại? Lịch sử thành văn ghi lại nhiều chiến tranh
hơn hòa bình, nhiều áp bức hơn tự do, nhiều tranh chấp hơn đối thoại…
Có thể nào khác được không khi Tham, Sân, Si, Mạn,
Nghi và Ác Kiến là sáu thuộc tính bản chất nhất của nhân thể, cũng
có nghĩa là từ vô thỉ. Nhưng chỉ là vậy thôi sao, khi nhân loại cũng là
Phật tính, là Bồ Tát Hạnh, là các tâm sở Dục như khát vọng tới lý tưởng,
Thắng Giải như khả năng Chính Tri, Tinh Tiến như
nỗ lực tự vượt mình, Định Tuệ như giải pháp toàn năng… Tương quan
của hai thiên hướng nội tại này, hai lực đẩy câu sinh này trong
thời đại hiện nay và triển vọng trong thế kỷ 21 sẽ ra sao?
Hãy nhìn thẳng, với mức độ Chân
lượng tối đa, vào những gì đưa tới hiện
trạng của nền Văn Minh Nhân Loại trong những thập niên cuối này,
vì thế có nhiều khả năng và trên nhiều vị thế được kéo dài và khuếch
đại cho những năm sau 2000. Muốn viện dẫn cái
gì đi nữa, muốn huênh hoang kiểu nào đi nữa, dù truyền thống văn
hóa, dù giá trị Châu Á, dù minh triết Phương Đông,… thực tế là toàn
cầu đang sống dưới dấu ấn của nền Văn Minh
Phương Tây hiện hình trên các lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị,
văn hóa, … nghĩa là trên các lĩnh vực chủ đạo
của hiện thực nhân sinh.
Vậy thì ta buộc phải bước nhanh trở xuôi từ…
Thời Trung Cổ Châu Âu đặc trưng
hóa bởi sự bỏ quên con người như một cứu cánh cho các hoạt động của
chính họ, sao nhãng con người như một homo sapiens đối trước những thách
thức của Tự Nhiên. Cái gì mâu thuẫn với Tự Nhiên, cái ấy sớm
muộn rồi ra cũng sẽ tiêu vong. Vậy mà Con Người, tạm nói Tham, Nghi; tạm
nói Sân, Ác Kiến; tạm nói Si, Mạn như những tiềm phục câu sinh của Chủ
Nghĩa Cá Nhân, của lối sống thực dụng, của bạo lực cách mạng. Cho
nên thời Phục Hưng, rồi thế kỷ Ánh Sáng, từng bước, qua đấu tranh bằng
lý luận và qua lý luận bằng đấu tranh, đã
phục hồi và đăng quang cái tư cách Cứu Cánh cái
tính năng Lý Trí của Con Người. Trong giai đoạn vinh quang của sự Tiến Hóa
chói lọi này, Pascal, Berkeley đã dịch sao lại
Lock, Descartes được hỗ trợ cực kỳ hữu hiệu bởi Newton, Darwin. Vả
chăng, trên hiện thực lịch sử, đường hướng duy lý và thực dụng,
tinh thần nhân bản và duy vật, đã tự biện minh hùng hồn biết bao, qua
biết bao những kỳ tích tiến hóa huy hoàng từ trên 300 năm nay trên các lĩnh
vực cá nhân và cộng đồng, quốc gia và quốc tế. Làm sao khoa học tự
nhiên có thể lớn mạnh đủ để giành hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác cho Phúc Lợi của Con Người, hay
cũng vậy, cho Ngũ Dục: Sắc, Tài, Danh, Thực, Thụy? Làm sao khoa học nhân
văn lại có thể trưởng thành đủ để phát triển
sâu rộng Dân Chủ, Tự Do, Bình Đẳng trong nội bộ quốc gia như những giải
pháp cho cuộc xung đột giữa các tâm sở Phẫn, Hận, Não, Tật…
và Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Bất Tín… nếu Con Người như một
thực thể hiện sinh lại bốc hơi trong tư thế bao trùm của một Đấng Toàn
Năng được đại diện bởi một thế lực xã hội
có, ở đâu cũng vậy, và thời nào cũng thế, có tính Phàm nhiều hơn
tính Thánh; nếu Con Người như một hữu thể nhận thức lại bị hóa giải
trong ánh hào quang rực sáng của một Đấng Toàn Tri phát biểu qua một thẩm
quyền phán quyết bất khả kháng?
Không thể chối bỏ được rằng
trong hơn 300 năm qua, trên bình diện hiện sinh, nhân loại đã chế ngự
được nhiều tai ương mà trước đó được xem là
vô phương khắc phục như đói rét, bệnh tật,…; trên bình diện nhận
thức, đã vén mở được bức màn che phủ các thế giới vi mô và siêu vĩ
mô mà trước đó được xem là nằm ngoài cảnh
giới của sáu Liễu Biệt Thức: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, tức là
ngoài toàn bộ (?) khả năng tri giác và trí tuệ của Con Người. Nhiên liệu
vận hành các tiến bộ văn minh này được khai thác trong các kho thiên hướng
ngũ dục và lý trí hướng ngoại; và khai thác ngày càng triệt để…
Trên lý thuyết
Ngũ Dục, đó là phương diện
tác dụng của cấu tạo nhân thể “ngô hữu thân”
định hình hóa trong khuôn đúc của Cộng Nghiệp và Biệt Nghiệp,
hay nói một cách thô thiển theo khoa học, của thể chế xã hội và ADN.
Lý trí hướng ngoại, đó là một phương thức phản xạ trí tuệ hay pháp
chấp câu sinh và hậu đắc tạo dựng bởi Ý Thức hay Thức Thứ Sáu thao
tác trên thông tin, tư liệu của tiền ngũ thức và dựa vào sự đạo diễn của Mạc-na (Manas) hay Thức Thứ Bảy. Ngũ Dục
không tự ấn định cho nó một ranh giới cuối cùng và con người hiện
đại say sưa buông thả vô hạn độ trong đại
dương cực phân biệt của xã hội tiêu thụ. Lý trí hướng ngoại
ngày một Mạn và Kiêu trước những thành tích chói lọi thu hoạch trên
con đường Làm Chủ Tự Nhiên của nó, từ đó sự tương xung tương khắc
ngày càng ác liệt giữa Con Người và, hay cái tưởng
đâu là Trí Tuệ Nhân Loại và bên đối tác, Tự Nhiên khách quan.
Ngũ Dục nơi mỗi cá nhân, mà nhiều khi được xếp vào hạng
mục Nhân Quyền; Ngũ Dục nơi mỗi cộng đồng, mà nhiều khi được xếp
vào hạng mục Tự Quyết, không dễ gì tìm ra cách thỏa mãn, ngoài con đường xung đột vũ trang và chưa vũ trang, đừng nói
vội sự thỏa mãn nọ tất yếu đẻ ra truy cầu kia, và cứ thế, cứ thế
cho đến một ngày “đẹp trời” Ngũ Dục của tất cả được hóa giải
trong chiếc “nấm” Ngũ Dục mà một nhóm điên khùng dựng lên dưới
chiêu bài văn minh, tôn giáo, chính nghĩa, chủ quyền…
Ngũ Dục được vuốt ve, chiều chuộng ngày một âu yếm hơn, mặc
nhiên tự đồng nhất hoá với Văn Minh, dưới sức
nặng thuyết phục cực lớn đến nỗi dường như không còn cách
nào cho phương châm thiểu dục của Lão Tử, diệt dục của Đức Thích Ca có cơ may cất lên được tiếng nói,
dù chỉ thều thào.
Lý Trí hướng ngoại, bên cạnh kỳ tích thượng tri thiên
văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự, bằng những
thành tựu ngoại thân hóa của nó, tức là những computer trí tuệ,
đang ngày càng được tôn vinh như một quyền năng
không bị hạn cục trong bất kỳ một khuôn viên nào từ sự truy
tìm Chân Lý. Đồng thời, mỉa mai thay, và cũng đáng
đời thay, đang tự ngày càng xói mòn bản thân nó: cần gì nữa sự
rèn luyện trí năng một khi robot có thể làm thay và làm tốt hơn.
Và trên thực địa,
Các thành viên của nhóm G7, mục tiêu lý tưởng cho phần còn
lại của nhân loại, không phải là thiên đường cho các chủ thể cấu
thành: tội ác, bạo lực, ma túy, Sida, gia đình phân rã, đức tin tiêu
vong, đạo đức tàn lụi, lý tưởng thiếu vắng…
Kể gì đến phần còn lại, ở đây, nếu không muốn nói, còn tệ hơn.
Làm sao khác được nếu Con Người chỉ chuyên chú vào Ngũ
Dục như lý do tồn tại của nó, các Ngũ Dục hoặc không được thỏa mãn
và không bao giờ được thỏa mãn đầy đủ, hoặc
chính nó thị hiện qua các hiện tượng. Tội ác ư? Đó là Tài; Sida ư? Đó là Sắc; Ma túy ư? Đó là
Thụy; Bạo lực ư? Đó là Danh; Trọng bệnh ư? Đó là Thực. Hoặc lẫn lộn,
và lẫn lộn trong gia đình, đức tin, đạo đức,
lý tưởng.
Nói riêng Bạo Lực. Phải chăng bạo lực chỉ giới hạn trong một chiếc ô tô đầy ắp chất nổ quy ước
TNT đủ làm sập cả một cao ốc ở Oklahoma City, Colombo… trong những
tràng tiểu liên hoặc tiếng nổ của một quả lựu đạn trên một đường
phố ở Alger, Cairo,… hay vì nhân loại đang tiến cực nhanh trên con đường
công nghệ dân sự cung cấp trở lại cho công nghệ quân sự, vật liệu
làm bom nguyên tử cỡ nhỏ, như kết quả của xu hướng phi hàng loạt hóa
(demassification) sản xuất, có thể tìm mua ngay… ở đầu phố, theo đúng thông báo của Builden, chuyên
gia về vũ khí hạt nhân: "nếu không phải
trong đời tôi, thì có thể trong một tương lai gần, vũ khí hạt nhân sẽ
được phổ biến đến tận tay cá nhân, có thể các cá nhân sẽ chế tạo
được vũ khí hạt nhân bằng nguyên liệu đang lưu hành trên thị trường
thương mại", và nhân loại văn minh đương đại
thiếu gì Trọc Đầu, Báo Đen, Hổ Tamil…
Ngũ Dục, dưới tấm khăn phủ hữu
phú loè loẹt màu chính nghĩa là phát triển sản xuất, nâng cao đời
sống, phú cường tổ quốc, thị hiện trên đường
hướng không ai dám phản bác để chuốc lấy danh vị phản bội, ít nữa
mất gốc, và từ đó, và đồng thời cùng với cái bóng của nó, sự
hủy diệt cân bằng sinh thái, sự ô nhiễm môi trường sống còn, sự phá
vỡ thượng tầng ozon, sự thù địch trong quan hệ xã hội, sự vị kỷ
trong nếp nghĩ và ứng xử… Con Người của Ngũ Dục, của xã hội tiêu
thụ, của phát triển kinh tế,… có thể nào hợp lý hóa Ý Thức của họ
về những hiểm họa đang đè nặng lên một
Trái Đất đang lâm nguy và đang hẹp dần bằng những
lời kêu gọi vu vơ, hàm hồ, lỗi thời của Thanh Tâm, của Quả Dục,
của Ngũ Giới, của Thập Hạnh Balamật. Lý Trí…
Hữu Phú sao được! Một khi nhờ tính năng này Con Người vượt lên
đứng đầu muôn loài và có tham vọng tranh
ngôi bá chủ với Thượng Đế.
Hãy tạm xét thành tích của Lý Trí hay Trí Tuệ Hướng Ngoại
trên ba bình diện:
- Quốc Nội: bởi vì một trong hai thuộc tính của Lý Trí là truy cầu cái
Lợi, cái lợi cho bản thân, cho phe nhóm, cho giai cấp (nặng tính lý thuyết),
cho dân tộc (như một ngộ nhận). Cái lợi được thực hiện thường xuyên
và "hồn nhiên" qua "cuộc chiến tranh của tất cả chống lại
tất cả", chi tiết hóa trên xung đột giữa cá nhân, giữa phe nhóm, những
giai cấp một bên, trong khuôn viên của một cộng đồng, cực đoan dưới hình thức cách mạng, nhiều
lúc dưới là cờ "phải đạo" của một Nhà Nước tập quyền bá
đạo hay cực tri, một bên trên trường….
- Quốc tế: qua xung đột quốc gia với quốc gia,
liên minh tung với liên minh hoành. Quan hệ giữa các quốc gia được
tiêu chuẩn hóa trước hết và trên hết trên tình trạng chiến tranh hay
hòa bình. Mà chiến tranh thì khỏi nói, phi lý và ngu xuẩn đã rành rành,
chẳng thế mà cùng với Lý Trí của toàn nhân loại văn minh, Lý trí của một H.G. Well, năm 1914 ngay trên
cửa ngỏ của Thế Chiến I: "Không có gì rõ ràng hơn đối với con người đầu thế kỷ XX là việc chiến
tranh sẽ nhanh chóng trở thành điều không thể có
được”; của một Henry Ford, năm 1928, gần đúng một giáp trước Thế
Chiến II: “Con Người đang trở nên quá thông minh nên không thể để
xảy ra một cuộc chiến tranh lớn khác nữa". Và thảm hại hơn nữa,
mới đây thôi, với sự hỗ trợ của đủ loại
computer toàn năng, sau khi “bức tường Berlin” sụp đổ và chiến tranh lạnh
giữa “Đế Quốc” và "Dân Chủ" tàn lụi, niềm hy vọng của
lý trí, của niềm tự hào của Con Người, đã nhanh chóng nhường chỗ cho
một tình thế rất bi quan của … của hiện thực; từ đó nỗi nuối tiếc
một thời Nhị Phân… dù sao xác xuất sống còn của nhân loại còn đủ
lớn trong những bàn tay của Lý Trí siêu cường. Nuối tiếc vô lý, vì sớm
muộn gì, bất kỳ quốc gia nào, ngay cả khi nó đang
chết đói, vẫn có thể tống tiền, bắt chẹt phần còn lại của
thế giới bằng thói bần cùng liều thân của một Chí Phèo hạt nhân
hóa, dù là một thứ hạt nhân hóa hạng bét.
Tính chất Chính Trị của hai phần trên có tính ngàn đời,
nhưng ít nữa về lâu về dài, không thể có sắc thái biệt lập với cái
sắc thái nhân học đang chịu những biến động cực
lớn có nguy cơ làm thay đổi cả cấu trúc sinh hóa của nhân thể.
- Đặc thù của Hiện Đại: Nếu Lý Trí Hướng Ngoại không loại trừ nhận
thức về mối liên hệ công sinh như một điều kiện căn bản cho tồn tại
cá nhân thì, trong hiện thực của những cộng đồng hiện đại đang ngày
càng manh múng về mặt cấu trúc như hậu quả của xu thế manh múng trên
các lĩnh vực sản xuất, thông tin, tín ngưỡng, văn
hóa, giáo dục… nó khó tránh khỏi tác động của một thúc đẩy tách rời
nó ra khỏi mối liên hệ cộng sinh. Hiện tượng này càng được tăng cường bởi tính phù du ngày càng rõ
nét của mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với
đồ dùng và nơi cư ngụ, bởi tính độc lập của
con người đối với các cơ chế mà trước kia có ý nghĩa sống còn.
Cái liên hệ mật thiết nhất, liên hệ trong hôn nhân, đang rã rời qua số
liệu ly dị, qua các hình thức hôn nhân không đăng
ký (concubinage), hôn nhân theo hợp đồng, theo nhóm, cả giữa những người
đồng tính. Cái liên hệ thiêng liêng nhất, tưởng đâu là tự
nhiên cũng bị phi tự nhiên hóa là tình mẫu tử, đang bị pha loãng trong một
nghề nghiệp mới, nghề làm cha mẹ chuyên nghiệp, mà lý do phát sinh là nhằm
giúp các bậc cha mẹ sinh học có nhiều thời gian hơn cho… họ.
Tiến bộ khoa học, kỹ thuật
đẩy nhanh tốc độ sản xuất và nhịp độ đổi mới hàng tiêu
dùng đến mức ngày nay hầu như bất cứ đồ vật
nào đặt vào tay người tiêu dùng chỉ để vứt vào sọt rác một
thời gian ngắn sau. Ý niệm sở hữu phai nhạt cùng với những tình cảm
đối với nơi mà có cả trăm lý do khiến người ta phải hay muốn rời bỏ
sau một thời lượng cư trú ít nhiều dài ngắn. Cũng chính nhờ tính năng, hiệu năng, của nền sản xuất
phi hàng loạt hóa, trực tiếp ảnh hưởng lên quyền hạn của các tổ
chức của giới chủ, của Nhà Nước quan liêu và mệnh lệnh, mà con người
tìm được những mảnh đất cho tự do ngày
càng rộng thoáng hơn. Cái ý nghĩa quan trọng nhất và khẩn cấp nhất,
trong mọi ý nghĩa có thể tìm ra từ hiện thực trên, ấy là…
Nếu sang thế kỷ 21 Nhân Loại có thể không phạm phải
cái ngu xuẩn lớn nhất là cuộc xung đột hạt nhân
giữa các quốc gia - một điều cho tới nay không mấy chắc chắn, vì
trên đống gạch vữa của Bức Tường Berlin, đã
rất nhanh hiện rõ tham vọng bá quyền của… , chúng tôi rất tán thưởng
quan điểm của ẩn sĩ Hammoud về sự sổ lồng của các âm hồn tà giáo
– thì một hiểm họa mới, ngay bây giờ đây, đã
thế chỗ rồi: nó còn trầm trọng hơn cái mà Huntington đã giả định, sự đụng độ giữa các nền văn minh, nó…
chúng tôi muốn nói tới hiểm họa về một nhân loại vô chính phủ, về
cái mà Vivekananda đã gọi là thể hỗn hống (amalgame) và giờ đây
trở thành cực bác tạp, cực ô trọc hay PHÂN BIỆT. Tình hình là như vậy
đó khi ta nghĩ đến các nhóm sắc tộc Kurd,
Tchéchène, Tamil, Serbe, Croate, Bosnia… kể cả những hình thức mới
trong những nước văn minh của Lữ Đoàn Đỏ Ý,
“Con Đường Sáng” Perou, khi ta nghĩ đến những tai họa khủng bố đã
xảy ra rồi trên bầu trời, dưới mặt biển và sẽ dứt khoát xảy ra cả
trên siêu xa lộ thông tin mà dấu hiệu báo trước là những đàn virus điện tử đang đe dọa nhiều cơ quan Nhà Nước,
tổ chức tư nhân; khi ta nghĩ đến những stress mà từ đó cuộc sống vũ
bão hiện đại sẽ làm nảy sinh những anh
điên, chị khùng, có trong tay không chỉ hơi độc sarin (theo Seaquist,
chiến lược gia ở Bộ Quốc Phòng Mỹ: "một xí nghiệp hóa dược
cũng có khả năng chế tạo vũ khí sinh học"), và rồi đây cả những
trái mìn siêu nhỏ tự tái sinh và v.v…. Cho nên…, nhưng còn quá hẹp hòi
và lạc quan, Warren Christopher cảnh cáo: "Nếu chúng ta không tìm ra được
biện pháp nào đó để các nhóm sắc tộc khác
nhau có thể chung sống trong một đất nước… thì chúng ta sẽ có
5000 quốc gia, so với trên 100 như chúng ta hiện có". Biện pháp nào? Hơn
nữa rõ ràng Ngoại Trưởng Mỹ mới chỉ xem xét mặt chính trị của vấn
đề. Bao quát hơn, trong cuộc gặp mặt giữa các cựu nguyên thủ quốc gia
ở Colorado Springs, tháng 10-1995, cố Tổng Thống Pháp F. Mitterand nhận định: “Điều tuyệt đối cần cấp là năm 2000 phải
định ra được các quyền của những nhóm thiểu số… Nếu không chúng
ta sẽ chứng kiến sự tan rã và phân hủy rộng lớn, mà không ai
còn đứng ngoài được nữa".
Và quan trọng hơn, cấp bách hơn và trực tiếp liên quan tới
cuộc hội thảo này, khi ta nghĩ đến những giáo
phái Davidiens, Hamas, “Đền Thờ Mặt Trời”, Aum Shinrikyo… đang mọc lên
như nấm khắp mọi hang cùng ngõ hẻm. Giáo phái… Tôn Giáo… Tại sao vậy
và ý nghĩa gì?
**
Nói đến Tôn Giáo…, trước hết
và một cách phổ biến, đó là niềm
tin vào sự hiện hữu của Đấng Thượng Đế được
quan niệm qua hình tượng và tính cách con người lý tưởng hóa cực
điểm. Đấng Thượng Đế, với tư cách ấy, “buộc”
phải sáng tạo ra toàn bộ cái vũ trụ hiện thực này, và "buộc"
phải có quyền lực tuyệt đối lên bất kỳ cái gì nằm trong vũ trụ ấy.
Đồng thời, về sự hiện hữu của Linh Hồn như
một sở thuộc của mỗi cá nhân, đặc trưng hóa cá nhân ấy và tồn
tại vĩnh hằng.
Niềm tin này được trình bày lại và chi tiết hóa cho các
mặt tâm linh và thế tục trong một hệ thống
giáo điều nối tiếp nhau ít nhiều logic, bởi những tổ chức xã hội,
một số rất nhanh chóng trở thành những thế lực xã hội hùng mạnh mà
các tâm sở tham, mạn, sân, tật, san, phẫn, biên kiến, kiến thủ… nổi
trội hơn nhiều lần các tâm sở tàm, quý, tinh tiến, vô tham, vô sân, bất
hại, hành xả… mặc dù họ vẫn luôn luôn nhắc nhở, đòi hỏi các tín
đồ phải trì giới nghiêm khắc, mà giới thì ở tôn giáo nào cũng vậy,
đều ít nhiều đồng nghĩa với các tâm sở thiện,
cũng là các biện pháp phòng ngừa, khống chế Ngũ Dục.
Là đồng minh rất gần gũi, có thể
gọi là nguồn dự trữ chiến lược của tôn giáo, mặc dù vẫn thường
xuyên bị tôn giáo chối bỏ, hất hủi một cách hết sực khinh bỉ và Cực
Kỳ Phi lý (!), mê tín dị đoan cũng tự định
nghĩa trên niềm tin và sự hiện hữu của các sức mạnh siêu tự
nhiên, những hữu thể siêu tự nhiên theo nghĩa không thể, về phía con người,
tùy ý tri giác trực tiếp bằng các giác quan hoặc những công cụ khuếch
đại, nhưng lại có thể gây nên những tác động vào sự sống còn của
mỗi người thông qua những thủ pháp mà trình tự nhân quả không nằm
trong tri thức duy lý khoa học. Niềm tin loại này rất phổ biến trong nhân
loại tuy có nồng độ rất khác nhau và không được "chủ thuyết hóa"
bởi một lực xã hội nào và nhất là thường không bày tỏ một quan điểm
cụ thể về một Thượng Đế “có tên họ",
hình như bởi vì đó là tàn dư của giai đoạn vật linh luận và phiếm thần
luận.
Sự đăng quang của Lý Trí Hướng
Ngoại lên ngôi thống trị Trí Tuệ đã thực hiện được trong 300 năm qua
những kỳ tích chói lọi của Khoa Học và Kỹ Thuật, đã xây dựng được những xã hội công dân dân chủ và tự
do, những phẩm chất xứng đáng nhất của con người với tư cách sinh vật
xã hội; cả hai tổng hợp vào nửa sau của thế kỷ 20, trong xã hội tiêu
thụ, lúc đầu như một thành công bất khả phản bác của những tư tưởng
Ánh Sáng, rồi rất nhanh như những hiểm họa tiềm phục mà chính những tư
tưởng ấy phải trả giá.
Và trước hết, tất cả đều có
ý nghĩa, đều có tác dụng đẩy lùi Thượng Đế, và cùng với
Ngài, "đẩy lùi các tôn giáo vào bóng tối". Tình hình là như vậy,
và không thể khác được; vài tiếng nói lẻ tẻ từ Pascal đến Einstein, từ Schopenhauer đến Bergson, lại là
tiếng nói của Thế Trí Biện Thông (trừ Pascal) không thể vực tôn giáo
khỏi sự tàn lụi của nó, bởi vì:
- Trên mặt Lý: Tôn giáo phải có Thượng Đế,
Thượng Đế là Đấng Sáng Tạo, Sáng Tạo là sáng tạo trong thời
gian, có nghĩa là Thượng Đế tồn tại trong thời gian, và người ta tự hỏi,
trước thời điểm bắt đầu Sáng Tạo, Ngài
làm gì? Thượng Đế có quyền lực tuyệt đối lên
Vạn Vật – lên vạn vật là lên vạn vật trong không gian, có nghĩa là Thượng Đế tồn tại trong không gian và người ta tự hỏi,
trước thời điểm Sáng Tạo, Ngài ở đâu? Chưa kể quyền lực dựa trên
phán xét, sự triền phược vào một thể vô định hình là Thị Phi! là
Thiện Ác!
- Trên mặt Sự: Bằng những lập luận có đằng sau nó cả loạt thực
nghiệm chính xác và chặt chẽ, có đằng trước nó
sức mạnh của chính những lập luận ấy vật chất hóa, khoa học đã buộc
tôn giáo phải từ bỏ, chí ít phải hiệu chỉnh hết giáo điều này đến
giáo điều khác mà ngày xưa nó đã dại dột chi tiết hóa và khẳng
quyết quá sớm. Đồng thời trước những vấn nạn
nóng bỏng của nhân loại, tư duy duy lý khoa học đã đẩy nhiều tôn giáo
vào thế lấn bấn, lúng túng, như hiện thân của sự bất lực và
vô năng, giữa giải pháp và giáo điều. Ngoài ra, vì Dân Chủ và Tự Do
không hề kiêng nể, dè mặt bất kỳ ai, dù Thánh hay Phàm, vậy mà tôn
giáo nào cũng đều muốn quảng bá đạo học của
mình, mở rộng quần chúng tín đồ, do đó phải được tổ chức chặt chẽ,
khoa học (!) do đó phải có một hệ thống lãnh đạo quan liêu, do đó…
thôi thì… cho nên… Và trong cả trăm, cả ngàn những tệ hại, tạm
nói cái bé nhất mà Krisnamurti đã phát hiện từ lâu "Ngày nay may ra Phật
Giáo chỉ còn tồn tại ở những nơi không có bóng dáng Thượng Đế".
Cho nên từ Friedrich Nietzsche (1844-1900) Thượng Đế đã chết, và cách nay vài ba thập kỷ, người ta đã tính chuyện thành lập khoa Thần Học
về cái Chết của Thượng Đế. Dĩ nhiên cùng với Ngài, cả tôn giáo vốn
lấy Ngài làm lý do tồn tại. Và như vậy tất cả đều quá hợp lý! Có điều… Lý Trí Khoa Học chưa hề
bao giờ vét cạn được hiện thực nhân sinh và vũ trụ. Cho nên…
và Chứng cớ là…
Trong vài ba thập kỷ qua, nhân loại đã chứng kiến vụ bội
thu của hàng vạn, hàng chục vạn những giáo phái trong các nước đang dẫn đầu nền văn minh hiện đại, tức là văn minh
khoa học, duy lý và vật chất chủ nghĩa. Có những giáo phái đã trở thành nguy hiểm cho an toàn và ổn
định của cả một quốc gia; có những giáo phái
đã tiến lên chiếm vị trí trọng yếu về mặt ảnh hưởng và quyền
lực đối với xã hội. Aum Shinrikyo làm nảy sinh vấn đề an ninh không chỉ trong phạm vi một đất nước; và
Ikeda, người cầm đầu giáo phái Soka Gakkai được
đánh giá là nhân vật có thế lực nhất ở Nhật: tổ chức Cứu Rỗi
Toàn Thống đang thách thức sự sống còn của Nhà Nước Algérie… Cạnh
đó, cả một quốc gia, cả một khu vực nữa, Iran, Iraq, Khối Hồi Giáo,
Khối Nho Giáo,…. Đã 10 năm rồi, bản án tử hình
vẫn lủng lẳng trên đầu người công dân của nước Anh Salmon Rushdie như
một cái tát vào mặt nền Văn Minh Đương Đại,
Duy Lý và Pháp Trị; và việc trục xuất Talisman Nasrin ra khỏi tổ quốc
của bà dù sao cũng phải được xem như dấu hiệu
của sự đồng thanh tương ứng. Và tuy phải đạo hơn và ôn hòa hơn,
Lý Quang Diệu hay Mohamed Matin có ý nghĩa gì nếu không phải cũng là những
manh nha… Cho nên ở nhiều nơi trong thế giới Văn
Minh đương đại, người ta, những nhà khoa học hay những người có tư duy khoa học, đang phải xem xét rất nghiêm túc một
vấn đề rất khẩn trương: “Sự Phục Thù của Chúa” đang thị hiện vào
những năm cuối của thế kỷ này và chắc chắn sẽ được thi hành
ác liệt và tàn bạo hơn nhiều.
Không phải là nhà khoa học, cũng không phải là người có
tư duy khoa học, chúng tôi cũng không thấy trong những hiện tượng trên, dấu
hiệu cho sự phục thù của Chúa; chỉ thấy ở đó dấu hiệu, dù đôi
lúc và đôi nơi, có nhuốm sắc màu ảm đạm, cho
khuynh hướng đi về tâm linh của nhân loại. Thực ra, đợi chi cho đến những
năm này! Ngay từ đầu thế kỷ 20, Charles Lancelin đã tiên đoán
"Khoa Học Huyền Bí sẽ là khoa học của thế kỷ 20". Và rồi trước
khi "thế kỷ 21 là Thế Kỷ Tâm Linh", George Velgel đã thông báo:
"Phi thế tục hóa thế giới là một trong những hiện tượng xã hội
nổi bật của thế kỷ 20".
Chứng cớ, đó là sự kiện,
và thế đã quá đủ. Tuy nhiên chúng ta có thể "bàn chơi" về Tại
Sao và Thế Nào vậy.
- Nếu Khoa Học một mặt cứ khư
khư tinh thần quyết định luận của Vật Lý Newton và tinh thần bài
trung của logic Aristote mà, hoặc chính vì thế vẫn, hoặc không vì thế
không, tiếp tục tiến lên đánh đâu thắng đó
trên khắp các trận địa của hiện thực nhân sinh thì quả thực
tôn giáo còn phải ấp a, ấp úng, gãi đầu gãi tai tự bào chữa cho quyền
sống của nó trước tòa án của Trí Tuệ Nhân Loại như nó từng làm thế
từ thời Phục Hưng đến đầu thế kỷ 20. Song, từ
thuyết Tương Đối trở lại nay, người ta không còn tìm đâu ra được cái thái độ tự chủ đầy ngạo mạn của
Laplace, trái lại, dễ dàng nhận ra ở khắp nơi, hoặc một R. Feynman
"Khoa học chẳng cho ta biết cái gì hết…, chẳng chứng minh cái gì hết",
hoặc một D. Hilbert "Trong Toán học, người ta không biết người ta
đang nói cái gì và những điều người ta nói có
đúng không”, hoặc một A. Zadeh, hoặc một Heisenberg… nhất là
Heisenberg: Nguyên Lý Bất Định giáng một đòn
chí tử vào quyền độc tôn của Khoa Học với tư cách những phán quyết
sắt thép và đơn trị. Nói cách khác, chính khoa học
thế kỷ 20 đã thu hẹp vương quốc của Tất Yếu bằng sự thừa nhận đế
quốc của Ngẫu Nhiên. Cũng là tự thu hẹp quyền lực và oai phong của
chính nó và mặc nhiên cho phép mọi khả năng cơ hội
hiện thực. Từ đó cái Vô Lý của Tôn Giáo không còn là một luận
cứ đủ để phản bát quyền tồn tại của Tôn
Giáo.
Lại càng như vậy, cái Vô Lý của Thượng Đế. Ngược lại
là đằng khác. Chính Khoa Học đôi lúc không khỏi…
“Ôi! Thời oanh liệt.. ôi Feuerbach, ôi Karl Marx…”. Chẳng hạn, gần đây
nhất, góp phần vào một bản hợp tấu bắt đầu cũng đã lâu rồi,
nhà bác học nổi tiếng thế giới Trịnh Xuân Thuận rất tin vào sự hiện
hữu của Thượng Đế chỉ bởi vì, dựa vào tính toán của ông và các đồng
nghiệp, vũ trụ này đã được tạo dựng theo một chương trình được thi công chính xác đến từng một phần tỷ tỷ
giây. Để đảm bảo được sự chính xác kinh khủng này – kinh khủng đối
với ai? một giây mà đã là ngắn à? "Một satna bao gồm toàn bộ
thời gian từ vô thỉ đến vô chung” - phải có một
Đấng Thượng Đế đứng ra chủ trì chứ không thể mặc nhiên giao
phó cho Ngẫu Nhiên được. Thì ra nhà bác học rất tài năng và đạo đức ấy, vốn sợ Ngẫu Nhiên như nước sợ Chân
Không, tin rằng Thượng Đế có thực vì Ngài rất giỏi, giỏi bằng
Con Người: chẳng phải cái gọi là chính xác đến một phần tỷ tỷ tỷ
ấy chính là sản phẩm của Con Người, thậm chí của một số người nào
đó hay sao? Mà những người này thì quá thật đến nỗi câu hỏi
"Tôi là Ai?" trở thành quá lố đối với
họ! Thêm nữa chẳng phải chính Trịnh Xuân Thuận đã khẳng định ngay trên
bìa cuốn sách: Và Con Người đã tạo ra Vũ Trụ! - Thế kỷ 20 là thế kỷ
của thông tin, của giao lưu và kỹ thuật trắc nghiệm. Chính trong tình
hình này mà nhiều hiện tượng mới gần gần đây
thôi còn bị Khoa Học, và những người theo đuôi nó, đáng chú ý nhất là Tôn Giáo, ném thẳng
tay vào sọt rác của mê tín dị đoan mà không cần xem xét thật giả gì hết,
giờ đây lại được lôi ra, rồi kiểm tra, rồi
đo đạc, rồi thí nghiệm, và cuối cùng trong nhiều trường hợp
người ta buộc phải rụt rè công nhận "khoa học chưa giải thích được"
thay vì nói thẳng ra và ít ngu xuẩn hơn "nằm ngoài logic khoa học."
Từ đó, người bạn đồng minh
trung thành, tuy thường bị rẻ rúng, của tôn giáo, dần dần ngẩng cao đầu,
nói năng đàng hoàng với thiên hạ, tuy nhiều lúc, do tự ti lâu năm
lại thêm ít học, cứ tự làm mình lố bịch bằng cách vay mượn dăm ba
chiếc lá nho khoa học rất rẻ tiền. Cũng có nghĩa là Tôn Giáo giờ đây đã hiểu ra hoặc phải hiểu ra rằng nó không
cần quá rụt rè, khúm núm trước Khoa Học nữa mà cần hiên ngang hơn, tự
tin hơn, đứng vững hai chân trên mảnh đất của nó.
- Thế kỷ 20, trong toàn bộ nền văn minh nhân loại
đến lúc đó, là đỉnh cao nhất của những thành tích kỳ vĩ mà
Khoa Học và Kỹ Thuật đã thực hiện trên hiện
thực cũng đủ làm các tôn giáo phải kính nể, đồng thời cũng là đỉnh
cao của biết bao nhiêu cái… chúng tôi đã sơ sơ nói qua một vài
chi tiết. Và thế kỷ ấy, kiêu mạn là thế, lại đang sắp kết thức trong hồi chuông róng rả báo tin
Chúa đang trở lại, Chúa tái sinh, và kinh khủng hơn hết, Chúa… phục
thù!
Chúng ta vừa bàn chơi ba động lực của khuynh hướng
về tâm linh nhưng có một sự kiện không phải là nói chơi, đó là Tôn
Giáo, bất kỳ tôn giáo nào, không hề tham gia tí nào vào sự hình thành bất
kỳ một động lực nào trong ba động lực trên, bất kỳ… kể cả Phật
Giáo. Mặc dù cả ba động lực ấy đều tìm được
đáp án, vượt quá cả nội dung mà con người hiện đại đặt ra cho chúng
trong kinh luận của Nhà Phật.
**
Trong tất cả các tôn giáo, các hệ tư tưởng duy tâm, duy
nhất chỉ có Đạo Phật đã làm được điều cực kỳ vĩ đại, đủ vô hiệu hóa mọi
thách thức của Trí Tuệ Con Người trong mọi thời đại, trước mắt
trong thế kỷ 21, ngay cả với mọi giả định về sự phát triển không thể
hình dung được của Khoa Học và Kỹ Thuật, ấy là Đạo Phật đã phủ định:
Thượng Đế như nguyên nhân đầu tiên của Tồn Tại
Và Linh Hồn như sở thuộc cá nhân, như lý do cho tín ngưỡng
và tu tập.
Mỗi nền Văn Minh đều hình
dung Thượng Đế trong một mô hình riêng, có tính đặc thù về các
mặt truyền thống, dân tộc, địa lý, lịch sử,
… Thượng Đế Brahma hay Ishvara của người Ấn Độ, Đức Thích Ca tuy có
thừa nhận chức năng coi sóc vũ trụ của Ngài, cái vũ trụ trong tri
kiến của chúng sinh trong cõi Ta Bà, nhưng Đức Phật
không đánh giá Ngài cao lắm, vẫn xếp Ngài vào giỏ Lục Đạo liên
tục rỉ chảy vào vòng Luân Hồi; chính bản thân Thượng Đế này cũng tự
phản tỉnh tính hạn chế của mình nên Ngài vẫn thường xuyên đến nghe Đức Phật thuyết pháp. Vậy ai đóng vai Thượng
Đế Toàn Năng Toàn Tri bây giờ?
Mặc dù Đức Thích Ca đã
nói trắng ra, không úp mở, vòng vo, bóng gió: "Thiên thượng, thiên hạ
duy Ngã độc tôn" mặc dù cái tài tính toán chính xác và sắp xếp chi
li trong vòng 10-43 giây sau bức tường
Planck chẳng ăn nhằm gì so với "Như
Lai… cho đến giọt nước ở ngoài hằng sa thế giới, cũng biết số
mục, không rời nơi đạo trường mà hiện
khắp cả Mười Phương Thế Giới",
"Thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận ;
Trên đầu một mảnh lông hiện ra các cõi nước, ngồi
trong một hạt bụi mà chuyển Đại Pháp Luân"
nhưng Đức Phật lại không tự cho
mình cái tư cách sáng thế, không phải vì Người, thái Tử Sidartha,
dòng họ Gautama, con của Quốc Vương Suddhodana, mới sinh ra vào năm… nào
có ăn nhằm gì với tuổi của vũ trụ ít nhất là 15 tỷ năm; đơn giản chỉ bởi vì…
Đối trước cái vũ trụ quan
sát được này (l’univers observable) – mà theo một giả thuyết
thiên văn hiện đại về vũ trụ muôn thể (univers
multiples) chỉ là một thứ bọt bèo (bulle) mất tăm trong một cái
siêu vũ bọt bèo (bulle méta-univers), cái này đến
lượt nó lại mất tăm trong… và cứ thế vô tận - Đức Phật có cái tư
cách bình đẳng với bất kỳ một chúng sinh nào; nghĩa là một bộ phận?
một thành phần? một mô hình thu nhỏ của Vũ Trụ. Không, toàn những câu
chuyện trẻ con vì nó vẫn không giải quyết được
vấn đề nguyên nhân, vần đề phát sinh. Ấy vậy mà và trái lại,
Đức Phật, và cùng với Ngài mỗi người chúng ta, đều có cái Tư Cách
SÁNG THẾ: "Núi sông, thế giới, và hư không đều là vật trong
CHÂN TÂM hiện ra… Các ông thấy có núi, có sông, có thế giới, có chúng
sinh vì các ông đều Mang Bệnh Nhặm Mắt (tức là Vô Minh ) từ vô thỉ…
Toàn thể các chúng sinh trong Mười Phương Thế
Giới đều do Vô Minh Vọng Động từ vô thỉ nên cùng Vọng Tưởng
có thế giới như thế, có chúng sinh như thế hiện ra".
Hãy tạm tưởng tượng con mắt của chúng ta có thể
xuyên sâu vào cấu trúc nguyên tử của vạn pháp thì ta dễ hình dung, dễ
tiếp cận tính chân lý tuyệt vời của khẳng định cực kỳ phi lý trên
(!). Nhưng Đức Phật đâu thèm dừng lại ở
mức nguyên tử, hay hạt quarks, hay gì gì đi nữa: "Cái giới hạn về sắc tướng đến Hạt Lân Hư là
cùng tột. Nếu có thể làm phân rã hạt lân hư này một lần nữa thì sẽ
có Hư Không". Rõ ràng: "Tính của SẮC là CHÂN KHÔNG".
Cái Chân Không xuất hiện thay thế cho sự tiêu
vong của Lân Hư như lượng tử của vật chất, và ta không khỏi liên tưởng
đến thí nghiệm bắn phá hạt cơ bản mới đây
nhất làm mất tiêu vật chất trong Trường Chân Không Vật Lý. Mà Vật
Chất chính là Không Gian, vì ngày nay Không Gian không còn được quan niệm
như cái Chứa trống rỗng mà như tính cách của vật chất: Vật Chất tạo
ra Không Gian chứ không phải Không Gian chứa vật chất.
Thế còn Thời Gian thì sao? Cái thành phần cấu tạo
thứ hai của Vũ Trụ? Chẳng phải Đức Phật vẫn
nói đến Luân Hồi, đến Nhân Duyên, đến Quả Báo… và tất cả đều tất
yếu diễn ra trong thời gian chứ còn trong cái gì khác nữa: "Ta
nói thuyết nhân duyên là đúng về phần sự tướng chỉ các pháp trong thế
gian mà nói, chứ không phải chỉ do Lý Tính Tuyệt Đối vậy".
iống như chúng ta đang sống
nhởn nhơ trên Trái Đất này với giờ, với phút, với giây, có cái
chính xác của vàng ròng, nhưng nếu ta rời khỏi Trái Đất với tốc độ gần bằng tốc độ tuyệt đối, hoặc
lọt vào hố đen, hoặc vọt ra hố trắng… Đại khái các pháp trong thế
gian và Lý Tính Tuyệt Đối khác nhau như vậy. Nhưng còn Tam Thế Chư Phật?
Ông Duy Ma Cật đã đỡ lời Đức Thích Ca: "Do văn tự thế tục ghi chép nên nói có ba đời chứ chẳng
phải Bồ Đề (tức là Trí Tuệ Tối Thượng)
có Đời Đã Qua, Đời Sẽ Tới và Đời Hiện Nay”.
Tóm lại, qua ống kính Võ Phân Biệt của
Trí Viên Thành Thực trên Vương Quốc của Chân Đế: "Cả cái Tự
Nhiên ấy, cả cái Nhân Duyên ấy đều do CHÂN TÂM
vọng động ra cả” Mà Chân Tâm thì ai chẳng có, ai chẳng là
chính Nó: "Cái CHÂN TÂM CỦA ÔNG, sao ông không tự nhận lấy, lại
cần ta chỉ CHÂN TÂM cho nữa?"
Nó có dáng dấp của Linh Hồn mà thoát khỏi
cái Vô Lý cực lớn là tính Cá Ngã vĩnh hằng. Còn Vọng Động? Đã là chuyện ảo, chuyện huyễn, như một
giấc mơ, sao còn phải quá bận tâm đến Tại Sao hay Thế Nào, như ông
Phú Lâu Na: "Chân Tâm bản nhiên thanh tịnh, vân hà hốt nhiên sinh sơn
hà, đại địa?”.
Vậy là? bởi vì khoa học lý thuyết đang ngày càng,
và không thể làm khác được, dấn bước trên con đường hóa giải hai
thành tố cơ bản và duy nhất của Tồn Tại là Không Gian và Thời Gian,
cho nên, không phải chỉ riêng cho thế kỷ 21 mà cho muôn đời sau này, Đạo Phật đã đem lại câu trả lời không bao giờ có
thể vượt quá cho những câu hỏi về bản thể, về vũ trụ. Nhưng Con
Người, nhưng chính chúng ta đang sống đây, có những nhu cầu trực tiếp,
với những vấn đề cấp bách, trước những hiểm nguy gần kề mà
phần trên chúng tôi đã điểm sơ sơ, tất cả còn khẩn thiết hơn, hiện
thực hơn nhiều lần những vấn đề vũ trụ luận
hay bản thể luận. Đạo Phật tuyệt vời thật, nhưng là tuyệt vời
trong thế giới siêu việt cái cõi đời tầm thường mà quá thật này. Vậy
nó có ích gì cho con người tầm thường và quá thực là chúng ta đây
không?
Cái Vĩ Đại thứ hai của Đạo
Phật là những đối sách rất thực dụng của
nó cho con nguời trên Tục Đế, dựa trên mặt thứ hai, mặt Vọng của
CHÂN TÂM: "Tính của KHÔNG là CHÂN SẮC".
Nếu chúng ta chưa vượt
được trường hấp dẫn của những chủng tử hữu lậu đã huấn tập
mà còn bị câu thúc bởi cấu tạo sinh lý, bởi
phân tử ADN, bởi tri thức đã học hỏi, bởi cảnh quan văn hóa, lịch sử…
nghĩa là bởi Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Não Trược, Chúng
Sinh Trược…Nếu chúng ta vẫn tin rằng ta là cái Có Thật trước nhất,
đối trước cái Có Thật khác là Thế Giới và Chúng Sinh thù địch nhiều hơn thân thiện, thì Đạo Phật còn chỉ
ra một cái Có Thật không kém, đó là luận Nhân Quả, luật Luân Hồi. Đây
là một răn đe, hoặc một động viên cho con người đang hướng thân, khẩu,
ý của mình vào con đường Thập Ác hay Thập Thiện. Thiên Đường và
Địa Ngục đều có thật hết, với những ai tin rằng
có thật cái Ngũ Dục mà họ gắn bó và hành động và suy nghĩ dưới
sức đẩy của sáu Căn Bản Phiền Não hay 21
Thiện Tâm Sở.
Tất nhiên Tôn Giáo nào cũng đều khuyên người ta làm
ta làm điều thiện, tránh điều ác với một
phần thưởng Thiên Đường hay một trừng phạt Địa
Ngục mà chỉ Thượng Đế mới quyết định, và quyết định một lần là
xong hẳn cho mỗi người. Đạo Phật cũng chỉ rõ những gì đang chờ đợi con người thiện và ác, những gì
ấy không do sự áp đặt hay ban phát của ai hết mà chỉ đến với họ từ
chính bản thân họ, và đến trên rất nhiều quốc độ - tam thiên Đại
thiên thế giới – và đến dưới mười dạng
sinh tồn: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh, Atula, Nhân, Thiên, Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát, Phật, trong một vòng tròn bất tuyệt cho sáu loại đầu. Như vậy, lời dạy của Đức Phật, rất
phù hợp với phương hướng suy nghĩ của nhân loại văn minh vừa thừa nhận
tính tất yếu, vừa thừa nhận tính tự do: con người không phải chỉ là
một con rối trong tay của một cái Nghiệp như một tiền định mà
còn là quyền tự do lựa chọn hoặc dừng Nghiệp hoặc chuyển Nghiệp.
Nhưng những hiện tượng này có thật không? Con người
hiện đại có nhiều biện pháp trắc nghiệm, và Đức
Phật đã chỉ ra một phương thức ngày càng chinh phục được Trí Tuệ Nhân Loại, đó là Tọa Thiền.
Chúng tôi không đề cập ở
đây những lợi ích của Tọa Thiền cho đời sống hiện sinh mà ai cũng đã
biết cả, cũng không đề cập tới hiệu lực của Tọa Thiền đối với
sự thủ đắc các quyền năng siêu việt quy luật vật lý học mà ta
dễ phải công nhận; chúng tôi chỉ muốn lướt
nhanh cái tính năng giác ngộ từng phần mà Tọa Thiền đem lại cho hành giả
về vấn đề cốt tử của con người, tức là vấn đề “Tôi là Ai”, từ
đó Thế Giới này là gì, từ đó, sao lại
khác được, chí ít một cuộc sống hòa bình, thăng tiến tâm linh
trên Trái Đất này, bởi vì chúng tôi tin tưởng sắt đá rằng qua Tọa Thiền chúng ta sẽ từng bước thể
nghiệm được, sinh nghiệm được nhận định bất hủ của ngài
Milarepa: "Hai ngụy thuyết căn bản của tư
tưởng con người: Tin vào thực tại của những gì chỉ thuộc về
Hiện Tượng và tin vào sự hiện hữu của Bản Ngã".
Chúng tôi nghĩ rằng sự
tiến hóa thế tục của Nhân Loại sẽ được đo và chỉ được đo bằng
một loại thước, cái thước của Dân Chủ và Tự Do. Những phẩm chất
ấy vốn dĩ lại nằm trong Đạo Phật nhiều hơn bất kỳ một hệ tư tưởng
nào mà con người đã và sẽ nghĩ ra.
Đức Phật, mặc dù tất cả những vinh danh Thế Tôn, Thiên Nhân Sư, Điều Ngự Trượng Phu, Vô Thượng, Chính Biến Giác Tri,
… vẫn khẳng định: “Ta là một vị Phật đã thành, các người
là những vị Phật sẽ thành",
thành ở đâu? "Ta thành Phật trong Tâm Chúng
Sinh".
Khi Ngài còn tại thế và đi truyền pháp, Ngài thường
dùng "phương tiện" để giáo độ, từ đó
ngay cả những lời dạy của Ngài cũng không được Ngài gán cho cái ý nghĩa
của giáo huấn tuyệt đối: "Pháp của ta như bè để qua sông. Khi đã qua được sông rồi còn dùng
bè làm gì nữa". Như vậy Pháp của Phật chỉ có tác dụng của một
gợi ý: "Các người hãy tự thắp đuốc lên mà đi, mồi lửa vào
Chính Pháp của ta".
Tinh thần Dân Chủ và Tự Do của Đạo Phật thực
là vô địch, cho nên một người vốn chưa có danh vị Bồ Tát hay A La Hán, hay Thanh Văn, Duyên Giác, thậm chí
cũng chẳng có địa vị trong giáo đoàn tăng lữ như các ông A Nan, Ca Diếp,
Ưu Ba Ly,… mà vẫn có cái tư cách thuyết pháp cho tứ chúng, cho cả Bồ
Tát, cả A La Hán, ngang bằng với Đức Phật, đó là Ngài cư sĩ áo
trắng Duy Ma Cật. Mà Ngài lại toàn thuyết những pháp trái ngược với
những lời dạy có tính kinh điển của Đức Thế
Tôn, tỷ như: "Nếu Bồ Tát thi hành những việc trái đạo, đó là Bồ Tát thông đạt Đạo Phật”. Thông
đạt đến mức: "Chẳng lìa dâm, nô,…; chẳng cắt si, ái…; chẳng thấy Phật, chẳng nghe Pháp; sáu sư
ngoại đạo là thầy, kết bạn với chúng ma; chê Phật, khinh Pháp,
chẳng nhập chúng Tăng".
Chúng tôi không bàn đến
ở đây tinh thần tương đối luận của Ngài Duy Ma Cật, chỉ lưu ý rằng
trong Tục Đế vốn có tính tương đối, mặc dù vậy Đạo Phật không hề
là vương quốc của tùy tiện, hay chủ nghĩa hư vô: "Tuy hành
lẽ Không, nhưng trồng các cội lành, tuy hành lẽ Vô Tướng nhưng độ các
chúng sinh, tuy hành lẽ Vô Tác nhưng thị hiện thụ lấy thân sống, tuy
hành lẽ Vô Khởi nhưng khởi tất cả các nết lành".
Với loại sơ cơ, lưỡi gươm luân hồi nhân quả
lúc nào cũng lủng lẳng trên đầu họ như một
răn đe; với loại lợi căn, Tọa Thiền có tác dụng của ánh sáng soi rọi
phương tiện thiện xảo. Có lẽ vì chưa thấy rõ hiệu năng tuyệt đối của Tọa Thiền như phương pháp tu
luyện cơ sở trên nguyên lý bao quát "Tam Giới Duy Tâm, Vạn Pháp Duy Thức"
và phương pháp truyền đạo theo tinh thần “phương
tiện” cho từng đối tượng và trình độ, cho nên một con người
(hết sức đáng kính) như Giáo Hoàng John Paul II vẫn tự cho phép mình phát
biểu một nhận định rất đáng tiếc về đạo
Phật.
Không ai cứu được con người,
kể cả Đức Phật, ngoại trừ chính bản thân họ. Tương lai của Nhân Loại
trong thế kỷ 21 sẽ ra sao? Đạo Phật chỉ là một gợi ý, dù có
tính tối ưu vì phù hợp sát nhất với đường
hướng tiến hóa của Trí Tuệ Nhân Loại, nhưng nó vẫn chẳng phải là một
đảm bảo tuyết đối. Lại càng như vậy khi…
**
Thực sự, trên những tiêu chí "khoa học", chúng
tôi không đủ tư cách và hiểu biết để bàn về Đạo Phật trong hiện
trạng và phương hướng triển vọng trong tương lai trên phạm vi thế giới.
Ngay cả trên phạm vị quốc gia! Nhưng với tư cách một kẻ thất phu
thành thực có đôi chút ý thức về "vũ trụ giai phận sự" và đã
thấy, đã nghe, đã sống, chúng tôi vẫn mạnh dạn trình bày đôi điều suy nghĩ nông cạn và nhận xét phiến diện
về tình hình Phật Giáo Việt Nam.
Trong vài thập kỷ qua, đất nước này đã trải qua
nhiều biến động, cuốn hút một tôn giáo đứng
ngoài tục giới như Phật Giáo vào dòng thác cuồng nộ của nó và
do đó gây nên những phân biệt không đáng có
trong nội bộ Phật Giáo vốn, trong cứu cánh, chỉ quan tâm đến cái khổ
làm người theo nghĩa luân hồi và nhìn nhận vũ trụ này chỉ như một
trò huyễn hóa "Bồ Tát quán chúng sinh như một vị ảo sư nhìn thấy
người ảo hóa của mình".
Căn cứ trên thực tiễn
hành xử của giới tăng ni, chúng tôi được gặp
không nhiều lắm các vị tu hành thấm nhuần cái yếu nghĩa đó của Đạo
Phật, đủ không để mình sa đà vào những hoạt động thế tục và
phù hoa không liên quan gì đến mục đích cứu độ
của Phật Giáo. Từ đó, một hậu quả trực tiếp, gần như tất yếu,
là hiện tượng trì giới thiếu nghiêm khắc khá phổ biến trong hàng ngũ
Tăng Già. Mặc dù, trên mặt đời, trì giới là tư cách, là danh dự, là
"quyền hành nghề" của người tu hành, cũng là của toàn thể
Giáo Hội; trên mặt đạo, trì giới là yêu cầu số một, có tính bản thể
cho Định, Tuệ hiện thực hóa, đặng tiến tới Cứu
Cánh của Đạo. Vì vậy việc đầu tiên phải làm cho mọi Giáo Hội
Phật Giáo hay Hội Phật giáo, danh xưng là gì đi nữa, là phải thanh lọc
triệt để hàng ngũ tăng ni trên tiêu chuẩn trì giới, thay vì nói quá nhiều
đến những vấn đề chung cục chỉ có tác dụng
tha hóa người tu hành trên cả hai lĩnh vực Lý và Sự.
Ngay cả những vấn đề nội
bộ, tức là liên quan đến Tiểu Thừa và Đại Thừa. Chúng tôi nghĩ
rằng nếu như bằng cỗ xe nhỏ mỗi cá nhân nhà tu hành có khả năng hiện thực để đi đến những cấp bậc nào đó chỉ
của thế giới hiện tượng thôi, chưa dám nói đến Niết Bán, Tịnh Thổ
chi cả, trên những nẻo đường của Thiền Định, là điều có thể quan
niệm được, hình dung được trên cơ sở thực nghiệm, thì chúng
tôi lại thấy yêu cầu và bản nguyện chở thật nhiều người trên cỗ
xe thật lớn đế cùng đến Niết Bàn thật vui là một tham vọng thật cao
mà thật tế chưa có một Hội Phật Giáo nào đã làm được, dù cho trên
những tiêu chí thật đơn giản, thật sơ lược của lý thuyết. Cho nên,
thay vì quá lắm lời tự đề cao cái tư cách Đại
Thừa, và dựa vào một số lời lẽ trong trong Kinh Luận mà miệt thị
đạo hữu Tiểu Thừa của mình, các Hội Phật Giáo nên dành thì giờ và
sức lực vào cố gắng làm giảm nhẹ những đau khổ tầm thường của
con người thế tục bằng cách thường xuyên thực thi hạnh Bố Thí trong cả
ba nội dung Tài, Pháp và Vô Úy, bắt đầu bằng sự phản tỉnh của bản
thân trên các "thuộc tính nhân thể" là Tham, Giải Đãi và Úy của
chính mình. Chính ở đây sẽ được đánh giá bởi
Nhân Loại thế tục, mà Hội Phật Giáo nào cũng cần đến, vai trò
và vị trí của Phật Giáo trong những bước tiến hóa của văn minh nhân
loại.
Một phương tiện cực kỳ hữu hiệu liên quan đến
hiệu lực của Pháp Thí mà tiếc thay cho đến nay
các Hội Phật Giáo đều đã bỏ qua, đều đã không biết quan tâm đúng mức
trong thực tiễn nhân sinh đương đại. Nếu ở nước Ấn Độ cổ vào thời
đại Đức Phật tại thế, mọi người đều tin mà không đặt vấn đề
gì về tính hiện thực của các hiện tượng siêu tự nhiên và các
quyền năng huyền bí thì thật quá tự nhiên, quá hữu lý, quá hợp đạo việc Đức Phật cấm các môn đồ của mình
thi triển thần thông và xếp vào loại tà giáo tất cả những môn phái tu
hành chỉ nhằm sở đắc những quyền năng khuynh
đảo con người và sự vật. Nhưng vào thời đại chúng ta đang sống đây, trong tinh thần duy lý
và dưới sức ép của Khoa Học và Kỹ Thuật, người ta dễ dàng phản
bác những chuyện trên, xem đó chỉ là di lụy của một thời bán khai, ấu
trĩ, với sự đồng tình của không ít tăng ni, Phật tử quá ngây thơ mà
cứ tưởng mình khoa học và hiện đại, thì chính những việc đó lại
là những bằng cứ bất khả kháng cho các luận
thuyết Duy Tâm trong đó Đạo Phật đứng hàng đầu.
Vì vậy Giáo Hội Phật Giáo phải nghiêm túc nghiên cứu,
sưu tầm các hiện tượng thần bí, lấy đó làm căn cứ sơ đẳng, làm phương tiện thiện xảo để giáo hóa hàng sơ cơ khoa học và duy
lý những luận thuyết cao siêu cũng là siêu thực, phi lý trong Kinh Luận Phật
Giáo; phải dành vị trí đặc biệt cho Mật Tông, Thiên Thai Tông… không
kém gì Thiền Tông, Tịnh Độ Tông…; phải hỗ trợ
tích cực Mật Tông để tông phái này làm tròn được sứ mệnh của vị Hộ Pháp đối trước những đợt
tấn công ác liệt của Khoa Học, Kỹ Thuật, của tinh thần duy lý, vật chất,
thay vì các nhà thuyết giảng Phật Giáo mải mê mô phỏng những phương
pháp luận trong thế kỷ trước của các bộ môn khoa học xã hội Phương
Tây, cứ tưởng làm như vậy là trang bị được cho mình cái diện mạo hiện
đại hấp dẫn lắm.
Mặt khác, kho tàng Kinh Luận Phật Giáo chứa đựng đến vô hạn những giáo huấn mà các lý thuyết
khoa học hiện đại và những phát hiện thực nghiệm mới nhất có thể được dùng làm những minh họa
ít nhiều thành công, đây phải là một phương hướng hoạt động mà Hội
Phật Giáo cần đặt ra cho các Phật Tử đang làm
công tác khoa học ở ngoài đời, thay vì Hội Phật Giáo hớn hở chộp lấy
như một bằng cớ chứng minh giúp, như một chất liệu trang trí hộ cho bản
thân họ, thay vì lo cử các tăng ni ưu tú vào các trường cao cấp thế tục
để mang về cho H?i những Sở Tri Chướng Phương Tây rồi ra chỉ có cái
ý nghĩa của việc "nuôi ong tay áo".
Tạm thời cuối cùng, những không phải là dưới cùng,
các tông phái Phật Giáo cần phải hiểu bản thân mình như sự thị hiện
của Phật Giáo trên một phương diện của cái "hiện thực huyễn
hóa" có nhiều cấp độ này, thay vì công kích nhau loạn xạ, miệt thị
nhau bằng những luận điểm nhiều khi rất hẹp hòi, tầm thường, thậm
chí cả ngu xuẩn nữa. Các tông phái Phật Giáo thật sự phải coi nhau là
những vị Bồ Tát có sứ mệnh khác nhau trong những quốc độ khác nhau,
khác nhau như các ngài Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, Long
Thụ, A Nan, Ca Diếp… đối trước những chúng
sinh khác nhau, không bao giờ được phép tự coi mình là người thừa
kế duy nhất của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Một lần nữa, xin cho phép chúng tôi tự giới thiệu
chỉ là một thứ Phật tử dân dã, đã thành thực, ít ra trong một lúc bộc
phát của vài ba thiện tâm sở từ cái tâm chúng sinh của mình, bày tỏ đôi
ba ý nghĩ và nhận xét mà chắc rằng rồi ra có nhiều cơ may được Giáo
Hội Phật Giáo quan phương dành cho những lời phê phán không thương tiếc,
mà chư tôn đức và chư thiện hữu trí thức trong hội thảo này đã dành
cho một sự chú ý nhỏ nhoi nào đó, mà chúng tôi xin ghi nhận như một ân
thưởng quá quý báu và chúng tôi chỉ biết đáp lại bằng tấm lòng
thành thực.
20.02.1996
Mục lục | Dẫn Nhập | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 1 8 | 19 |