- Chuyển Pháp Luân
và Tứ Diệu Ðế
- Maha Thongkham và Huỳnh Văn Niệm soạn
dịch
- dựa theo quyển "The Word of
the Buddha" của Hòa thượng Nyanatiloka
- Tái bản năm 1995 tại Sài Gòn
Mục lục
Tiểu sử Hòa thượng
Nyanatiloka
Lời Phi lộ
Nhận định của nhà Phật học A. Foucher
Phần
I. Chuyển Pháp Luân
(Pháp sư Maha Thongkham giảng)
I.1 Bố cáo Chuyển Pháp Luân
I.2 Chuyển Pháp Luân
I.3 Luận về Khổ
I.4 Luận về Nguyên nhân của Khổ
I.5 Luận về sự Khổ diệt
I.6 Luận về Con đường diệt khổ
I.7 Luận về Trung đạo
I.8 Dịch nghĩa Kinh Chuyển Pháp Luân
I.9 Ba bậc trí tuệ
Phần
II. Tứ Diệu Ðế
(Huỳnh Văn Niệm dịch theo "Word of the Buddha" của HT.
Nyanatiloka)
II.1 Khổ đế
II.2 Tập đế
II.3 Diệt đế
II.4 Ðạo Ðế
II.4.a Chánh Kiến
II.4.b Chánh Tư duy
II.4.c Chánh Ngữ
II.4.d Chánh Nghiệp
II.4.e Chánh Mạng
II.4.f Chánh Tinh tấn
II.4.g Chánh Niệm
II.4.h Chánh Ðịnh
Ghi chú: Trong phiên bản điện tử
này, chúng tôi xin mạn phép biên tập và sắp xếp lại bố cục để quý
độc giả dễ đối chiếu với bản Anh ngữ "The Word of the Buddha"
của Hòa thượng Nyanatiloka (Bình Anson, tháng 08-2001).
-ooOoo-
Dù các Ðấng Toàn Giác có xuất hiện trên thế
gian hay không, những trạng thái giả tạm (Vô Thường), khốn quẩn (Khổ não)
và chẳng có thực thể (Vô ngã) của vạn vật do nguyên nhân cấu tạo vẫn
không thay đổi. -- ANGUTTARA NIKAYA III
ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA
Trụ trì ngôi chùa Island Hermitage tại
Dodanduwa (Tích Lan), ngài có quốc tịch Đức. Trước kia, ngài là giáo sư
trường đại học Komazawa tại Tokyo, Nhật Bản, và cũng là tác giả của
nhiều sách văn phạm về tiếng Pàli.
Ngài Hoà thượng Nyanatiloka Maha
Thera thông suốt sâu rộng Phật Giáo Nguyên Thuỷ, đầy đủ đức tin, cách
đây hơn nữa thế kỷ đã rời bỏ công danh sự nghiệp xuất gia tu theo
Chánh Pháp và trở nên bậc cao tăng có tên tuổi nhất thế giới. Những
tác phẩm về Phật Giáo của Ngài rất nổi tiếng và thu hút rất nhiều
độc giả Châu Âu.
Nội dung quyển CHUYỂN PHÁP LUÂN gồm
những huấn ngữ lâu đời nhất được xem như lời dạy của chính Ðức
Phật Thích Ca Gotama đã thuyết ra cách đây hơn 2500 năm.
Ðây là lần đầu tiên Chánh Pháp
được diễn tả một cách liên tục một cách rõ ràng về những điểm
căn bản của đạo Phật hầu giúp ích cho các bậc hành giả chọn được
cây danh mộc trong đám rừng Phật Giáo phức tạp bao la trên khắp miền đông
Á.
-ooOoo-
PHI
LỘ
Cũng như nước trong biển cả chỉ có một vị
mặn mà thôi
Mùi vị duy nhất của Chánh Pháp là sự giải thoát. -- PHẬT NGÔN
Trong một Tôn Giáo, danh từ
"tín đồ" thường được sử dụng để ám chỉ khối lớn những
phần tử ngoan đạo, gia nhập cộng đồng tín ngưỡng, vì thấy, vì nghe
những hoạt động của các nhà truyền giáo, hoặc những người vào đạo
trước mình.
Nhưng trên thực tế và cũng trong
muôn một, ít ai thấu rõ mục đích cốt yếu của vị Giáo Chủ sáng lập
ra Tôn Giáo đó. Sự kiện này tạo cơ hội cho một giai cấp lợi dụng sự
mê tín của kẻ khác để thủ lợi và một giai cấp đông đảo hơn gấp
muôn lần bị người lợi dụng mà không hay biết. Nhưng khi Tôn Giáo được
bành trướng phong phú chừng nào thì giai cấp kể trên phát triển mạnh mẽ
chừng nấy.
Số lớn các nhà lãnh đạo tinh thần
ít khi nói đến những yếu tố căn bản liên quan tới Giáo lý về đường
lối cứu cánh mà thường hay đề cập đến những nghi lễ hoặc giáo điều
nhằm mục đích thu hút tín đồ vì lợi ích riêng tư của mình.
Ðạo Phật quan trọng nhất thế giới.
Khối tín đồ cũng đông đảo nhất, nên phải lâm vào tình trạnh như vầy
là lẽ tự nhiên.
Ðức Phật nói Giáo Pháp là con
đường khó đi. Trong kinh trung A Hàm (Majjhimà Nikayà). Ngài có thuyết:
"Rồi Như Lai khám phá ra chơn lý cao thâm huyền
diệu đó, rất khó lãnh hội, khó thông suốt. Nó đem lại an vui tuyệt đối,
nhưng không thể thành tựu bằng lý luận, mà chỉ có bậc hiền triết mới
thấu rõ".
Hiện nay số đông người tu Phật
chúng ta ví như kẻ đi tìm trái ngọt mà ăn. Nhưng khi vào được trong vườn
thì lại lo quan sát địa thế của miếng vườn, thưởng thức cỏ, cây,
hoa lá ... nên không tìm đâu ra trái. Chỉ có những hành giả chân thành
mong thoát khổ, mới thật tâm tìm kiếm quả ngon của đạo bằng pháp
hành Thiền Ðịnh. Vì học nhiều tin bướng mà không hành thì đạo quả
cũng chẳng thành.
Hiện nay phong trào Thiền Ðịnh
đang phát triển mạnh mẽ trong Ấn độ giáo và Phật Giáo. Nhưng hễ số
người học Thiền gia tăng thì các vị Thiền Sư cũng thêm đông đảo. Mỗi
vị bày ra một phương thức riêng về đường lối hành đạo, cho đó là
đúng quy tắc của Ðức Phật và hiện hữu nhất. Ngặt nổi chúng ta đều
là phàm nhân nên khó bề nhận định chánh tà.
Ðại đức Nyanatiloka dày công chọn
lọc, trích ra từ tạng kinh Pàli, những huấn ngữ đầu tiên của đức Thế
Tôn thuyết tại vườn Lộc Giả (Isipatana) trong thành Ba La Nại (Bénarès)
để độ 5 ông Kiều Trần Như, nhằm mục đích giải thích rõ rệt từng
chi tiết những Pháp căn bản liên quan đến Thiền Ðịnh.
Tất cả nội dung quyển "Chuyển
Pháp luân" đều chú trọng về 4 Pháp: Tứ Diệu Ðế, Thập nhị Duyên
khởi, Bát Chánh Ðạo, trong đó có pháp hành độc đáo là Tứ Niệm Xứ.
Ðặc biệt là Ðại đức Hòa thượng
Niyanatiloka đã dựa theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) để mô tả rõ rệt những
câu Phật ngôn về tứ đại, ngũ uẩn và pháp hành Tứ Niệm Xứ. Ðể cho
hành giả dễ bề kiểm soát đường lối của mình cho khỏi lầm lẫn.
Và chẳng ai có thể phủ nhận phương
pháp chánh đáng của Ðấng Thiên Nhân Sư, thầy của cả Chư Thiên và
nhân loại, là Ðức Phật Thích Ca Gotama.
Nội dung quyển Chuyển Pháp Luân
không có những tích truyện để thu hút độc giả mà chỉ gồm những
pháp quan trọng về Thiền Ðịnh nhằm đem lại lợi ích cho những ai thật
tâm muốn đi sâu vào đạo để thưởng thức mùi vị của đạo.
HUỲNH VĂN NIỆM
"Cửa vô sanh bất diệt đã rộng mở.
Những ai có mắt muốn thấy, có tai muốn nghe hãy ráng chú tâm và tin tưởng
" -- MAJJHIMA NIKAYA
-ooOoo-
NHẬN ÐỊNH CỦA NHÀ
PHẬT HỌC A. FOUCHER
"Trên thế gian có hai hạng người
vĩ đại với lý tưởng trái nghịch nhau. Một bên là kẻ mạnh đi chinh phục
đất đai bằng võ lực để bành trướng đế quốc. Một bên là số rất
ít những bậc hiền triết xây dựng Giáo lý không còn sự sợ hãi chi phối
và thấm nhuần tình thương rộng lớn. Ðó là những bậc đại hiền ví
như ngọc đèm từ xa rọi sáng con đường để giúp đoàn lữ khách dài
vô tận tìm thấy nẻo đi.
Và trong số đó có Ðức Phật
thích Ca Gotama đã xuất hiện tại trung Ấn độ cỡ 500 năm trước Công
nguyên.
Những du khách có dịp đến viếng
miền đông Á đều chứng minh rằng bậc vĩ nhân này (Ðức Phật) không
có viết lách và để lại văn tự nào cả. Nhưng một khối lượng to lớn
kinh điển hoặc được in trên giấy, khắc trên mặt đá hay viết trên lá
buôn, ghi lại những lời vàng ngọc của Ngài đã thuyết ra bằng 10 thứ
sinh ngữ: Singhalais, Miến Ðiện, Thái lan, Cao Miên, Ai Lao, Tây Tạng, Mông Cổ,
Mãn Châu, Trung Hoa, Nhật Bổn và nhiều bản dịch bằng tiếng Âu châu. Hằng
ngày vô số tín đồ các xứ đó nhiệt thành sùng bái, tụng niệm những
huấn ngữ của Ngài.
Con người đó (Ðức Phật) chẳng
có chiếc ngai vàng, nhưng đế quốc tinh thần của Ngài lan rộng hàng trăm
triệu tâm hồn.
Một con người mà miền trung Ấn
độ đã có dịp thấy đi khất thực trên đường phố lại được biểu
lộ bằng những pho tượng vàng son ngồi chễm chệ oai nghi trên ngôi điện
trang nghiêm rực rỡ, bao phủ khói hương trầm. Cho đến những người không
theo đạo Phật cũng phải công nhận đức Thích Ca Mâu Ni là một khuôn mặt
vĩ đại, vô cùng từ tốn, được khắp hoàn vũ tuyên dương.
Ai nấy đều phải cảm phục Ðức
Phật đã sáng tạo ra một Giáo lý độc đáo trên thế giới và đã xây dựng
một cộng đồng đạo đức còn rạng rỡ cho tới ngày nay."
A. FOUCHER
Chân thành cám ơn cư
sĩ Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử
Mục lục | 1.1 | 1.2 |
2.1 | 2.2
| 2.3 | 2.4