- LỤC ĐỘ BA
LA MẬT
- Thích Thông
Huệ
Lục độ Ba-la-mật là pháp
tu của hàng Bồ tát, được hiểu một cách khái quát là sáu phương tiện đưa
người qua bờ bên kia, tức từ bờ mê qua bờ giác. Tuy nhiên ý nghĩa “qua
bờ kia” chưa diễn đạt hết tinh tuý của từ Ba-la-mật, vì Bồ tát không chỉ
an vị tại bờ giác, mà mục đích tu hành của Bồ tát thừa là một mặt tự
hoàn thiện mình, một mặt cứu độ chúng sanh. Các ngài làm tất cả các Phật
sự nhưng không có tâm mong cầu kết quả, không chấp trước vào người làm,
vào phương tiện làm và vào chúng sinh là đối tượng của việc làm. Đây là
đạo đức vô hành, là tam luân không tịch, là vô sở cầu vô sở đắc.
Ba-la-mật cũng là mật
hạnh, đại hạnh của Bồ tát. Nếu dùng bố thí độ xan tham, trì giới độ phá
giới.... thì còn hạn chế trong việc đối trị; ở đây, lục độ với tinh thần
Ba-la-mật có sự hài hòa giữa trí tuệ, từ bi và hùng lực. Bằng trí tuệ,
Bồ tát thấy tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do mê muội không
nhận ra, nên mãi tạo nghiệp và trầm luân trong sanh tử. Vì thế, Bồ tát
phát khởi lòng từ bi, nguyện độ tận chúng sinh trong ba cỏi sáu đường.
Có từ bi, các ngài sẽ có đủ hùng lực, thi thiết mọi phương tiện quyền
xảo tùy căn cơ giáo hóa chúng sinh, dù bao nghịch cảnh vẫn không thối
chí.
Ba-la-mật còn có nghĩa
là cứu cánh, rốt ráo. Mục đích cuối cùng của đời tu, cũng như bản hoài
của chư Phật đối với tất cả chúng sanh, là nhận ra và hằng sống với bản
tâm thanh tịnh thường nhiên của chính mình. Đó là Phật tánh, chân tâm,
bản lai diện mục... Nhận ra tánh giác là chánh nhân thành Phật, hằng
sống trọn vẹn với tánh giác là viên mãn Phật quả.
Lục độ
Ba-la-mật gồm 6 phương tiện:
1- Bố thí Ba-la-mật
2- Trì giới Ba-la-mật
3- Nhẫn nhục Ba-la-mật
4- Tinh tấn Ba-la-mật
5- Thiền định Ba-la-mật
6- Trí huệ Ba-la-mật
1- Bố thí
Ba-la-mật
Hiểu theo sự bố thì là
chia sẻ, ban cho, cung cấp; gồm 3 loại: Tài thí, pháp thí và vô úy
thí. Tài thí là bố thí tài sản vật chất (ngoại tài) hoặc công
lao, thân mạng của chính mình (nội tài). Pháp thí là dùng lời
khuyên răn về đạo đức làm người, khiến ngưới bỏ ác hướng thiện, hoặc
dùng chánh pháp hướng dẫn người tu hành để được giác ngộ giải thoát. Tài
thí giúp người đỡ phần khốn khó về thân trong một thời gian nhất định;
trong khi tóm lược một pháp yếu, con người có thể áp dụng suốt đời tu,
nên pháp thí có thể mang đến sự bình ổn nội tâm trong thời gian lâu dài.
Người bố thí tài chỉ có một khả năng nào đó để đáp ứng một phần nhu cầu
của người nhận; còn người giảng được một đoạn kinh hay, thì dù số người
nghe đông bao nhiêu cũng đều có phần lợi lạc. Lại nữa, tài thí chỉ có
giá trị nhất thời, trong lúc pháp thí giúp vĩnh thoát sinh tử nên giá
trị vô hạn. Như vậy, so với tài thí thì pháp thí thù thắng hơn rất
nhiều, nhưng người bố thí phải có trình độ về đạo học và biết cách thu
phục nhân tâm.
Vô úy thí là
giúp người biết sợ hãi bằng lời nói hay việc làm. Từ những điều sợ hãi
nhỏ nhặt như sợ côn trùng, sợ bóng đen... Đến những nổi khiếp đảm đối
với thiên tai, chiến tranh, bịnh tật, chết chóc... những lời an ủi động
viên hoặc hành động bảo bộc vỗ về sẽ làm con người cảm thấy bình an hơn.
Thậm chí lúc sắp lâm chung, nếu được nghe kinh kệ, nghe niệm hồng danh
chư Phật hoặc được hướng dẫn về những điều cần làm khi bước qua bên kia
cửa tử, người sắp mất có thể yên tâm ra đi với một cận tử nghiệp thiện
lành.
Hiểu theo lý bố thí
nghĩa là buông xả. Kinh Kim- Cang, Đức Phật dạy : “Bồ tát đối với pháp
không nên có chỗ trụ mà làm việc bố thí... Nếu Bồ tát bố thí chẳng trụ
tướng thì phước đức không thể nghĩ bàn”. Khi tiếp xúc với mọi cảnh mọi
duyên mà tâm không dính mắc, không khởi niệm phân biệt phê phán, làm tất
cả các việc vì người khác mà không trụ tướng, đó là hoàn toàn buông xả
phù hợp với ý nghĩa sâu xa của bố thí Ba-la-mật.
Như thế, bố thí
Ba-la-mật vừa làm lợi cho mình vừa có ích cho người. Đối với người, đây
là một nghệ thuật sống, giúp người bớt khốn khổ, bớt sợ hãi lo âu, đem
đến niềm an ủi, sự ấm áp của tình người. Không chỉ có tài sản mới bố thí
được, mà một lời nói hay, một việc làm nhỏ, một nụ cười vui… phát xuất
từ tâm chân thành thiết tha đều mang nhiều lợi lạc. Mọi công đức đều
xuất phát từ tâm ý, tâm càng thanh tịnh, càng bớt ngã chấp thì kết quả
của việc làm càng lớn lao. Đối với mình, càng bố thí ta càng giảm được
lòng tham, càng có niềm vui khi việc làm có ích cho cộng đồng. Tiến thêm
một bước, thực hiện hạnh buông xả, ta có thể tự tại an nhiên trước mọi
thăng trầm vinh nhục của cuộc sống. Hình ảnh các thiền sư “đói đến thì
ăn, mệt ngủ khò” và khi hết duyên, ngồi kiết già thị tịch trước các môn
đệ, là những hình ảnh sáng ngời của sự tự tại đối với sinh và tử.
2.- Trì giới
Ba-la-mật
Theo tinh thần Bồ tát
Đại Thừa, trì giới có ba trình độ: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện
pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới.
Nhiếp luật nghi giới
là nghiêm trì giới luật, gìn giữ oai nghi, thu nhiếp thân tâm thì ngưòi
khác dễ sinh lòng quí kính, từ đó dễ cảm hoá thu phục họ. Đây là các Bồ
tát thuận hạnh, dùng thân giáo làm lợi ích cho người; nhưng nhờ giữ
oai nghi tịnh hạnh mà chính mình cũng dễ thăng tiến trên đường tu.
Nhiếp thiện pháp
giới là vận dụng nhiều phương tiện giúp đỡ người khốn khó nhằm chinh
phục tâm người, sau đó giáo hoá người biết tu hành.Việc làm này chủ yếu
là tha lợi, đòi hỏi Bồ tát phải có nhiều khả năng và kiến thức trên
nhiều phương diện. Ngũ minh là một dòi hỏi đúng đắn để Bồ tát có nhiều
cơ hội giúp đời giúp người, nhất là trong thời đại khoa học công nghệ
ngày nay: Nội minh là giáo điễn nhà Phật; Ngoại minh là kiến thức thế
gian; Y Phương minh là hiểu biết về y khoa để bảo vệ sức khoẻ cho người;
Công xảo minh là hiểu biết về các nghề nghiệp từ thủ công đến khoa hoc
kỹ thuật; và Thanh minh là ngoại ngữ để dễ giao tiếp với người nước
ngoài.
Đỉnh cao của hạnh Trì
giới là Nhiêu ích hữu tình giới, Bồ tát nguyện dùng chánh pháp
hoá độ tất cả chúng sinh cùng khắp pháp giới. Bằng trí tuệ, Bồ tát biết
rõ mọi hàm linh đều có chủng tử giác ngộ. Đây là hạt giống có sẵn; nếu
gặp điều kiện thuận lợi, hạt giống sẽ nảy mầm thành cây, đơm hoa kết quả.
Nếu chưa đủ điều kiện, hạt giống ở dạng tiềm ẩn, nhưng chưa bao giờ mất.
Đại nguyên của Bồ tát là khơi dậy những hạt giống đang ngủ ngầm và tạo
điều kiện để chúng đâm chồi nảy lộc. Kinh thường diễn tả cảnh các vị Bồ
tát đến nơi pháp hội của Đức Phật, vị nào cũng có quyến thuộc đi theo.
Quyến thuộc ấy là những chúng sinh hữu duyên được Bồ tát giáo hoá từ
nhiều kiếp. Bồ tát hành hạnh nhiêu ích càng nhiều, quyến thuộc của Ngài
càng đông đảo.
Để mang đầy đủ ý nghĩa
Ba-la-mật, ba hình thức trì giới nói trên phải phù hợp tinh thần tam
luân không tịch; Bồ tát làm lợi ích cho người nhưng không chấp ngã
và chấp các pháp là thật có, nên không thấy thật có mình là người làm,
thật có việc đang làm và thật có chúng sinh là đối tượng của việc làm
ấy.
3- Nhẫn nhục
Ba-la-mật
Theo nghĩa hẹp, nhẫn
nhục là nhịn chịu mọi nhục nhã và mọi khó khăn trở ngại, và vượt qua
chúng một cách bình ổn. Nhà Phật gọi những chướng duyên làm ngăn trở sự
tiến tu là ma chướng, gồm ngoại ma (trở ngại do người khác hoặc hoàn
cảnh bên ngoài gây ra) và nội ma (trở ngại từ chính thân tâm mình)
Theo nghiã rộng, nhẫn
nhục là không sanh tâm khởi niệm khi tiếp duyên xúc cảm, mà đỉnh cao là
Vô sanh nhẫn hay Vô sanh pháp nhẫn. Trước tất cả pháp, dù thấy nghe hiểu
biết mọi sự nhưng tâm Bồ tát không xao động, không chấp trước. Do tâm
không nên các pháp đều không, dù là pháp thế gian hay pháp xuất thế. Đây
là ý nghĩa của Vô tâm trong nhà Thiền, nhẫn nhục xứng theo tự tánh nên
phù hợp với Ba-la-mật.
Ngày xưa, các vị Tổ Sư
thường tạo nhưng nghịch duyên để thử thách một số môn đệ có khả năng đảm
đương việc lớn. Ngài Linh Hựu lúc được thầy giao trọng trách về núi Qui
để phát huy tông phong, không được Thầy cho một thứ tài sản vật chất gì,
chỉ một thân một mình trên núi hoang đầy thú dữ. Hàng ngày Ngài chỉ uống
nước suối ăn quả rừng, ròng rã suốt bảy năm, khi cơ duyên đến mới hoằng
truyền chánh pháp, để sau này dưới pháp hội của ngài là cả ngàn môn đệ.
Đây là ý nghĩa thâm trầm cùa sự tu hành không ngại khó khổ, nhẫn nhục
trước mọi sóng gió gian lao.Cho nên, trong nhà Thiền thường có chủ
trương hơi kì lạ: không sợ thất bại mà lại sợ thành công dễ dàng. Cây
mọc nơi đất khô cằn, nếu lớn lên được thì có lõi rất cứng chắc. Cây mọc
nơi đất đai phì nhiêu được vun bón tưới tẩm thường xuyên lại dễ đỗ ngã
khi có giông bão.Cũng vậy, một người trải qua nhiều gian khổ thử thách
mà vươn lên là người đáng tin cậy, có thể giao trọng trách ; còn người
nào muốn nương nhờ thầy thường ỷ lại, đến khi gặp một trở ngại nhỏ cũng
có thể thối tâm Bồ Đề. Vả lại, khi có nhiều thuận duyên, người tu dễ có
ảo tưởng là đường tu rất suông sẻ, tu là để thụ hưởng, cuộc đời tu luôn
luôn an vui đầy đủ, điều này có hại hơn có lợi cho công phu hành trì.
4- Tinh tấn Ba la
mật
Tinh là chuyên ròng,
không xen tạp; Tấn là siêng năng tiến tới. Việc học và hành đạo của Bồ
tát phải tinh chuyên và cần mẫn, đó là tinh tấn. Nhưng tinh tấn thế nào
mới đúng với tinh thần Ba la mật ?
Thiền sư Huyền Giác
trong Chứnng Đạo Ca có câu: “sá gì tinh tấn hướng ngoài khoe” như
là lời nhắc nhở. Chúng ta tu trước tiên là cho bản thân, nhưng có tính
cách âm thầm chứ không phải khoe khoang cho người khác thấy. Nếu nơi chỗ
đông đảo ta làm vẻ tinh tấn tu hành, oai nghi phép tắc; khi không có ai
lại chểnh mảng trong công phu, đó là chấp tướng, giả trang và đầy bản
ngã, như thế, chưa phải thật sự là tinh tấn.
Các bậc Thanh văn,
Duyên Giác cũng tinh tấn công phu, nhưng đến quả vị ấy là xem như đạt
mục đích. Thật sự, các vị chỉ mới ở Hóa thành chứ chưa phải là Bảo sở.
Có thể nói, tinh tấn Ba-la-mật là ý nghĩa tu hành của một Bồ tát đang đi
trên đường thành tựu quả vị cao tột, tức là Phật quả.
Tinh tấn được ví như
nhiên liệu của xe. Thân năm uẩn là chiếc xe, người tu dùng nó để đi đến
đích. Nếu xe tốt, người lái giỏi mà không có nhiên liệu thì xe cũng
không chạy được. Tinh tấn là điều kiện cần thiết hỗ trợ cho việc tu
hành. Trong suốt cuộc đời, chúng ta gặp biết bao nhiêu lần thất bại cũng
như biết mấy lúc thành công? Nhưng nếu thành công ta không sanh tâm kêu
mạn, lúc thất bại ta không thối chí ngã lòng, thì dù nhanh hay chậm, ta
đã có tiến bộ. Đọc lịch sử Đức Phật Thích Ca,Chúng ta thấy rõ rằng, nhờ
tinh tấn tu hành mà ngài thành Phật cách đây hơn hai ngàn năm trăm măm;
trong khi đức Di Lặc tu đồng thời với Ngài, không tinh cần bằng Ngài nên
bây giờ vẫn là Bồ Tát ở cung trời Đâu Suất.
Mặt khác, tinh tấn phải
thường xuyên. Nước mềm đá cứng, nhưng nước chảy thường xuyên sẽ làm đá
mòn; giọt nước tinh tấn thường xuyên nhỏ trên tản đá vô minh sẽ soi
thủng được đá. Muốn có lửa phải cọ sát hai khúc cây liên tục, cây nóng
dần lên mới phát tia lửa. Một Thiền sư có bài kệ:
Trong cây vốn có lửa
Tia lửa lại sáng lòa
Nếu bảo cây không lửa
Cọ sát sao lại ra?
Trong chúng ta vốn có
lửa trí tuệ, phải tinh tấn cọ sát liên tục, lửa trí huệ ấy mới phát
sinh. Nếu có lúc quá ư siêng năng, nhưng có khi lại bê trễ, thì sự tu
hành khó đạt kết quả mong muốn. Chúng ta không cần phải có hình thức
sinh hoạt gì đặc biệt hoặc tỏ vẻ khác đời, chỉ cần sống và tu một cách
bình thường, không biếng nhác lười mỏi trong công phu, đều đặn ngày này
qua ngày khác, như thế là hợp lẽ đạo.
Tinh tấn còn có nghĩa
là năng lực của nội tâm và dùng năng lực ấy để phục vụ cho người khác.
Thế nào là năng lực của nội tâm? Khác với người thế gian cần cù làm ăn
học hành nhưng có xu hướng theo ngoại dục và chú trọng đến nhu cầu vật
chất; người tu, một mặt phải giữ gìn sức khỏe thể chất, nhưng quan trọng
hơn là phải giữ sức khoẻ tinh thần, nghĩa là làm sao để tâm không bị
quay cuồng theo ngũ dục, ngày càng có sự an lạc và tăng trưởng trí tuệ.
Được như thế, người tu mới có thể giúp đỡ mọi người một cách tích cực và
có hiệu quả. Ý nghĩa của việc tu hành Bồ tát đạo là vừa làm lợi ích cho
người, đồng thời cũng được lợi ích cho mình. Giữa Bồ tát và chúng sanh
có sự liên hệ chặt chẽ và hai chiều : Nhờ Bồ tát mà chúng sanh bớt khổ,
biết đường hướng tu hành; nhờ chúng sanh mà Bồ tát tự hoàn thiện mình
khi làm việc phụng sự và giáo hóa.
Tinh tấn thường xuyên
liên tục cần có sự hỗ trợ của ý chí và nghị lực mạnh mẽ. Trên đường tu,
không phải lúc nào mọi người cũng cư xử tốt đẹp, mọi việc cũng êm xuôi
như ý. “Phật cao một thước, ma cao một trượng”. Khi mới sơ phát
tâm, nội lực còn kém thì ít bị ma chướng. Chúng ta tu càng tiến thì ngũ
dục lục trần càng công phá mãnh liệt, nghịch duyên càng kéo đến liên
miên. Nếu không có ý chí kim cương và nghị lực vững mạnh, người tu khó
có thể vượt qua những chướng ngại trùng điệp ấy. Đối với Bồ tát, chướng
duyên là thắng duyên, vì chúng củng cố và phát triển nghị lực, hùng lực
cho các Ngài, giúp các Ngài tiến nhanh hơn trên đường đạo. Đề-Bà-Đạt-Đa
được Đức Phật gọi là Thiện hữu tri thức bậc nhất của Ngài, cũng chính vì
lý do này.
5- Thiền định
Ba-la-mật
Trong 49 ngày đêm ngồi
dưới cội cây Tất- bát-la nên dòng sông Ni-liên-thuyền, đức Phật nhờ
thiền định mà dứt sạch mối manh sinh tử, chứng quả vô thượng Bồ Đề.
Những vị đệ tử của Ngài cũng nhờ thiền định thành A-la-hán, không còn
luân hồi trong ba cõi. Bồ tát thệ nguyện vĩnh kiếp ở trong trần lao giáo
hóa chúng sanh, cũng phải nhờ thiền định để không bị nhiễm nhơ trần tục.
Điều này cho thấy, thiền định là cốt lõi, là sức sống của Đạo Phật, là
căn bản của công phu hành trì trong mọi tông phái.
Nội dung của thiền định
là sự bình ổn nội tâm, không quay cuồng theo trần cảnh. Lục Tổ Huệ Năng
trong kinh Pháp Bảo Đàn định nghĩa về thiền định như sau: “Ngoại ly
tướng vi thiền, nội bất loại vi định”. Thiền là bên ngoài không dính
mắc vào các pháp, định là nội tâm không còn vọng tưởng lăng xăng. Thiền
định không chỉ ở trong tư thế ngồi, mà ở bất cứ mọi nơi mọi lúc, nên là
một thực tại bất ly thế gian. Trong thời đại văn minh khoa học mà tiện
nghi vật chất được xem như nhu cầu thiết yếu, cuộc sống hối hả tranh đua
làm con người ngày càng bị căng thẳng thần kinh, càng mất đi sự bình an
cần thiết cho sức khỏe tinh thần. Bệnh tật của tinh thần kéo theo bệnh
tật về thể chất, và thiền định chính là phương thuốc hữu hiệu có thể
điều trị những bệnh về thân và tâm ấy.
Thiền định giữ tâm
ngươi tu bình thản an nhiên trước phong ba bão táp của cuộc đời. Đặc
biệt đối với bát phong [ Tám tình huống thường xảy ra trong cuộc sống,
ví như tám ngọn gió: lợi (thu được tài sản), suy (hao tài
tốn của), hủy ( bị phỉ bán), dự (được ca tụng), xưng
(được khen tặng), cơ (bị chê bai), khổ và lạc (khổ và
vui).] được xem như là thước đo định lực của người tu, nếu có thể bất
động như gió thổi qua màn lưới thì mới là người đạt đạo. Cũng nhờ thiền
định mà Bồ tát hững hờ với mọi cám dỗ lạc thú thế gian, nên làm tất cả
phật sự mà không vướng vào danh lợi tài sắc. Từ đó, Bồ tát hít thở được
không khí tự do đích thực phát xuất từ tâm thanh tịnh của chính mình.
Tiến thêm một bước,
thiền định là phương tiện cho trí tuệ vô thượng phát sinh. Có những lúc
toạ thiền, tâm hoàn toàn rỗng rang vắng lặng, người tu nhận ra từ trong
cõi miền sâu xa của tâm thức, có một năng lực vận hành. Đây là cái BIẾT
một cách trực tiếp và thấu thể về tất cả các pháp, biết không qua ý thức
phân biệt nhị nguyên, khởi đầu của TRÍ VÔ SƯ, đỉnh cao của cuộc đời tu
hành. Tất cả giáo pháp của ĐỨC PHẬT đều lưu xuất từ trí tuệ này, nên khi
Bồ tát có một trình độ tâm linh khả dĩ, thì sự giáo hóa của các Ngài sẽ
đem lại lợi ích lớn cho quần sanh. Nhưng thiền định như thế nào mới khế
hợp với tinh thần Ba-la- mật?
Thiền định Ba-la-mật
là Bồ tát không chấp vào cảnh giới chứng ngộ. Nhà Thiền có câu “Gặp
Phật giết Phật, gặp ma giết ma” để nhắc nhở người tu không được chấp
trước, trú trước và nhiễm trước vào những cảnh giới sở chứng, vì đó chỉ
là do tâm biến hiện. Bồ tát luôn học và tu theo tinh thần vô sở cầu vô
sở đắc, nên không có niệm ưa thích Niết Bàn hay chán ghét địa ngục, nhờ
vậy mới hoàn thành hạnh nguyện độ sanh.
6- Trí huệ
Ba-la-mật
Đạo Phật là đạo giác
ngộ, Đức Phật là bậc giác ngộ vô thượng, nên tất cả những người con Phật
đều xem giác ngộ là sự nghiệp chung thân. Dù đang công phu theo pháp môn
nào, người tu cũng đặt trí tuệ lên hàng đầu. Bồ tát tu theo Lục Độ thì
chi phần thứ sáu tức Trí huệ Ba-la-mật cũng là chổ y cứ của năm chi phần
trên.
Trí huệ Ba-la-mật, còn
gọi là Bát nhã Ba-la-mật, là trí huệ của một bậc Bồ tát đã quán triệt
chân tướng của vạn pháp. Nhờ trí huệ cứu cánh cùng tột này, Bồ tát thiết
lập nhiều phương tiện, tuỳ căn cơ trình độ và sở thích của chúng sanh để
giáo hóa họ một cách hiệu quả.
Có ba cấp độ Bát nhã:
1- Văn tự Bát
nhã: Đây là giai đoạn đầu dành cho người sơ cơ, nhưng rất cần
thiết và được xem là bước căn bản. Chúng ta học trên kinh sách, hiểu lời
Phật dạy, sau đó suy gẫm và đối chiếu từ bản thân ta đến các pháp bên
ngoài. Trí huệ phát sinh từ đọc và nghe giảng (văn huệ) sau đó phân tích
suy luận để hiểu thấu vấn đề (tư huệ) là vốn liếng đầu tiên của một Bồ
tát trên bước đường hoằng hóa lợi sanh sau này. Do vậy, trong Tứ hoằng
thệ nguyện có câu “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” là ý nghĩa
thu gom kiến thức, để tự hoàn thiện mình và để tự có khả năng giúp đỡ
giáo dục cho người.
2- Quán chiếu Bát
nhã: Bồ tát quán tự tại khi hành sâu Bát nhã Ba-la-mật, Ngài soi
thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ nạn. Chúng ta tu theo
Ngài, gia công quán chiếu để thấy rõ thân tâm này do các duyên hợp lại.
Đủ duyên thì thành, hết duyên lại trả về hư không, nên nó không có thực
thể. Như vậy, tự tánh của thân tâm ta là không, nhờ duyên hợp lại nên
tạm có. Thân ta như vậy, thân người khác cũng như vậy; cho đến tất cả
cáp pháp thế gian và xuất thế, tự tánh đều là KHÔNG. Vào giai đoạn này,
vẫn còn phân biệt tâm năng quán và cảnh sở quán, nên chưa phải là rốt
ráo.
3- Thực tướng bát
nhã: Bồ tát quán triệt tự tánh Không của tất cả pháp không phải
bằng ý thức tư duy suy luận, mà do trí tuệ bát nhã thấu rõ đương thể tức
không. Ở đây không còn phân biệt Ta-Người năng sở, mà cả hai đều hòa
nhập, viên dung trong trạng thái nhất như. Bồ tát thâm nhập chân lý
tuyệt đối, không phải ở một thế giới nào đó xa xôi, ở một thời khắc nào
đó của tương tai không với tới, mà ngay thế giới trần tục. Ngay mảnh đất
thực tại nhận chân được thực tướng của vũ trụ vạn pháp. Đây chính là trí
huệ Ba-la-mật.
Kinh Pháp Hoa có bài
kệ:
Chư Pháp
tùng bổn lai
Thường tự
tịch diệt tướng
Phật tử
hành đạo dĩ
Lai thế đắc
tác Phật
Tạm dịch:
Các Pháp
xưa đến nay
Tướng
thường tự vắng lặng
Phật tử
hành đạo rồi
Đời sau
được làm Phật
Bằng trí huệ thực chứng
Pháp thân, Bồ tát thấy rõ tất cả các Pháp xưa nay, tướng của chúng
thường tự vắng lặng. Tướng ở đây là thực tướng vô tướng, vì khi tiếp
duyên xúc cảnh, Bồ tát không khởi niệm phân biệt chia chẻ, chủ thể và
đối tượng nhận thức không hai. Mọi cảnh vẫn sống động vẫn lưu chuyển,
nhưng tâm hoàn toàn thanh tịnh nên tất cả pháp đều là Phật pháp. Bằng
trí giác, Bồ tát nhận ra thực tại nhiệm mầu nghìn đời cũng chỉ trong một
sát na, tại đây và bây giờ. Lìa sóng không thể có nước, lìa bỏ
trần tục không thể thấy được Niết Bàn. Tư tưởng vút cao của Bồ tát Đại
thừa là tinh thần bất nhị, đem đến sinh khí cho cuộc đời vì Bồ tát không
hề xa lánh cỏi trần để tìm cầu giải thoát. Bồ tát nguyện vĩnh kiếp hòa
quang đồng trần để tự thanh lọc mình và để cứu độ chúng sanh. Vẫn biết
có lúc Bồ tát phải ở yên một nơi vắng vẻ, nhưng đó là thời gian củng cố
và phát triển đạo lực, trang bị những khả năng cần thiết cho công việc
giáo hóa sau này. Khi đã đủ nhân duyên, Bồ tát vận dụng trí huệ
Ba-la-mật làm mọi Phật sự, trí huệ Ba-la-mật soi rọi bản thân để hoàn
thành sự nghiệp tự lợi- lợi tha, cuối cùng viên mãn Phật quả.
***
Lục độ Ba-la-mật vừa là
pháp tu vừa làm nên tinh thể của một vị Bồ tát. Trên đường tu Bồ tát
hạnh- hành Bồ tát đạo, vị ấy phải có đủ đại trí, đại bi, đại từ, đại
nguyện: Trên cầu Phật đạo, đạt giác ngộ tối thượng; dưới hóa độ tất cả
chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nhờ trì giới, tinh tấn và thiền
định, Bồ tát phát khởi trí huệ, thấu triệt bình đẳng tánh nơi
muôn sự muôn vật, thấy mình và mọi loài chúng sanh không hai không khác.
Bằng trí huệ, Bồ tát có khả năng xuất chúng về mọi phương diện, đồng
thời phát khởi lòng từ bi, do vậy có thể nhẫn nhục để hành hạnh bố thí.
Do làm tất cả hạnh nguyện với tinh thần Ba-la-mật, nên viên dung giữa
mình và người, không có tâm mong cầu sở hữu. Vì nhân vô vi nên đạt quả
cứu cánh, phương pháp tu của các Ngài vừa làm lợi ích cho mình, vừa giúp
được cho người một cách trọn vẹn. Kính ngưỡng nhân cách vĩ đại của Bồ
tát, chúng ta cũng nguyện noi gương các Ngài, vượt qua mọi khó khăn gian
khổ để tiếp bước trên con đường Đức Phật đã đi và đã đến đích./.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/lucdobalamat.htm