Trong cuộc sống có những sự việc xảy ra cứ bắt người ta luôn nhắc
nhở đến với tất lòng trân trọng kính ngưỡng. Cái nhớ đôi khi chỉ từ
một lẽ rất thường tình, một thoáng hương xa chợt đến chợt đi trong
cõi vô thường, mà khắc đậm nên cho đời bao ý hướng thanh cao ngời
ngợi.
Năm đó Tôi
về quê nhằm vào mùa mưa bão. Về thăm Quê mùa này thì chẳng có gì thú
vị. Nhưng là vì giỗ đầu của người bác dâu, với lại lâu lắm không có
dịp về quê, Tôi những muốn tận hưởng cái rét buốt nơi quê nhà để
được ngâm mình trong mớ áo khoát dày cộm ít khi được dùng đến.
….Bà Thượng
lui cui dọn dẹp giuờng chiếu trong căn chói lá của mình. Cái chòi
rộng chưa đầy mười mét vuông nằm trên mảnh đất của ông anh họ con
người O (Cô) ruột của Tôi, và cũng là cháu gọi bà bằng cô. Gia sản
trong nhà chỉ có chiếc giường tre, chiếc bàn con, cái bếp lò bé bé
sứt mẻ và vài vật dụng chẳng giá trị gì. cũng không có được ngọn đèn
điện như phần đông các gia đình khác trong xóm. Bà lấy mùng mền gối
vớ ra cho Tôi và bảo:_ Cô nằm đây nghỉ cho yên tịnh, chứ bên đó đám
sám ồn ào, tụi nhỏ lại ăn nhậu ca hát suốt đêm không ngủ được đâu.
Mùng mền Mệ giặt sạch cất kỹ chỉ để cho khách. Mấy người trên phố
lâu lâu về cũng thích nghỉ ở đây.
Thấy bà như
muốn đi đâu Tôi vội hỏi:_ Giờ này mà mệ còn đi đâu à?_ Lần đầu tiên
về quê, Tôi gọi mấy Mệ bằng tiếng Bà như trong miền Nam liền bị quở
ngay.
_ À! Cô cứ
ngủ đi! Mệ phải đi xuống xóm chơi với tụi nhỏ một chút, khoảng chín
mười giờ mới về ngủ được, quen rồi.
Một mệ già
gần tám mươi thích chơi với đám con nít trong xóm chài này, Tôi có
nghe mấy Ông anh họ kể lại. Hồi chiều thấy Tôi một mình thơ thẩn
trước sân nhà Bác, bà qua chơi nói chuyện rồi rủ Tôi sang liều tranh
của bà ngủ lại. Rồi bà kể chuyện cuộc đời mình cho Tôi nghe, có lẽ
thấy Tôi là nhà tu hành, bà tỏ ra thật ân cần thân mật:_ Thằng con
của mệ nếu còn tu, năm nay cũng lên tới Thượng Toạ chi rồi.
Chuyện đời
của bà là một trang tiểu thuyết buồn, như hầu hết những phụ nữ nhà
quê khác ở vào giữa thế kỷ trước. Chồng bà đi kháng chiến rồi tập
kết ra bắc, bà một nách nuôi hai con thơ và một bà mẹ chồng đau yêú.
Thời khó khăn, bà làm đủ công việc từ làm nông trồng vườn, đan lát,
đón ghe mua cá tôm đem lên phố bán để nuôi mẹ chồng nuôi con. Nhưng
rồi đứa con gái bị bịnh mất sau đó mấy năm, còn Hoàng- con trai lớn
của bà học hết cấp hai, bèn nằng nặc xin mẹ đi tu :_ Lúc ấy nó
thường lên ngôi chùa ở xóm trên làm công quả, Sư Ông trụ trì rất
thương nó. Lâu ngày thấm tương thấm chao, rồi đòi xuất gia luôn. Tôi
vì cảnh một mẹ một không nở cách xa. Thấy con quyết tâm, hơn nữa
mình cũng hiểu đạo. Con đi tu cũng là điều phước lộc cho cha mẹ.
Nghiệp duyên nó ở chùa, mình đâu ngăn cản được. Hồi đó cả mấy xóm
chài này chỉ có mỗi ngôi chùa đó mà cũng đã xưa cũ hư nát, nhưng bổn
đạo rất thuần thành, xem việc chùa như việc nhà mình vậy.
_ Đi tu rồi
Hoàng vẫn đi học văn hóa_ Hồi đó phải đi đò lên phố học. Về chùa Sư
Ông dạy thêm kinh chữ Hán. Cậu nhỏ siêng năng và học rất khá. Tôi
lúc ấy ngoài chuyện đồng áng ở nhà, mỗi ngày cũng lên xuống chùa phụ
làm công quả, mà cũng là để lo cho con mình.
Mệ chợt
ngừng lại, ánh mắt nhìn xa xăm như đang hồi tưởng lại bao chuyện đời
đã qua.
_ Chuyện cậu
Hoàng đi tu rồi thế nào hả Mệ? Tôi vội cất tiếng hỏi tiếp khi thấy
bà yên lặng hơi lâu.
_À ! Khi nó
học xong Trung Học được đâu ít năm thì Sư Ông mất. Chùa chỉ có hai
thầy trò, thế nên Hoàng được kế nghiệp trụ trì. Nó có học lại lanh
lợi giỏi giang nên việc chùa cũng không có gì đáng nói. Lúc ấy thời
sự bất ổn, cuộc sống dân cư miền biển rất khó khăn, nhưng cảnh chùa
quê vẫn yên ổn, thâm tình thầy trò bổn đạo vẫn tới lui sâu đậm. Rồi
thì đất nước thanh bình, cái buổi giao thời ấy có biết bao điều éo
le thay đổi….
Bà lại im
lặng. Cái im lặng để cố nhớ lại từng chi tiết và cũng là để che dấu
bao xúc động trong lòng. Chuyện đã lâu lắm rồi. Cũng bởi người già
thường sống với kỷ niệm nên mọi việc đối với bà dường như mới xảy
ra. Đoạn tiếp theo Tôi đã được nghe mấy Ông anh họ nói qua. Tuy vậy
tôi vẫn thích được nghe bà kể lại. Lúc mới gặp bà, Tôi có thiện cảm
ngay. Một đời người sống trong nghèo khó, mang nặng nỗi buồn riêng
tư, vậy mà nhìn bà vẫn toát lên một phong thái tự tại an nhàn, không
khắc khổ như nhiều mệ già nhà quê khác. Bà lại có lối nói chuyện dễ
thu hút người nghe. Giọng Huế miền biển mà sao vẫn nhẹ nhàng êm ái,
vậy nên đám con nít rất yêu mến thích gần gũi bà.
Giải phóng
về, điều bà chờ đợi đoàn tụ với người chồng xa cách suốt hai mươi
năm đã không thể trọn vẹn. Ông ấy về quê mang theo một bà vợ và đàn
con nheo nhóc khác. Thì thôi, thời chiến loạn và sự xa cách đằng
đẳng như vậy cũng đâu thể trách ai được. Nhưng sự tình đâu chỉ có
thế…
_ Tôi cực
khổ một đời nuôi con, lại lo cho mẹ chồng khi bà đau yếu bịnh hoạn
cho đến lúc mất đều chu toàn bổn phận dâu con mà không hề than thở
nửa lời. Vậy mà…ngày Ông trở về chẳng có lấy một lời an ủi hỏi han,
tôi cũng chẳng buồn lòng. Duyên nợ vợ chồng chỉ bấy nhiêu, tình
không còn thì nghĩa có là gì đâu. Đằng này, Ông còn lấy quyền làm
cha và quyền một cán bộ lãnh đạo, hăm doạ bắt buộc con Tôi hoàn tục…
_ Và Cậu
Hoàng phải nghe lời hở Mệ?
_ Lúc đó,
mấy thầy mấy cô còn trẻ bị giao động lắm. Thằng con Tôi cũng vậy. Ba
nó cứ dụ dỗ thôi thúc, lại hứa hẹn đủ thứ. Thế là nó xiêu lòng. Nó
hoàn tục rồi theo Ông vào Đà Nẵng mà chẳng thiết đến nỗi buồn đau
của Tôi lúc ấy.
_ Bây giờ
Cậu vẫn ở Đà Nẵng ?
_ Không !
Thời gian đầu Ông cũng lo lắng kiếm cho nó công việc. Đâu vài năm nó
lấy vợ. Hai cha con lại nãy sinh bất đồng, việc làm lại không phù
hợp. Thế là nó bỏ vào Đồng Nai. Đến bây giờ vẫn làm rẫy làm nương
vất vả lắm, con lại đông.
_ Thỉnh
thoảng Cậu có về thăm Mệ chứ?
_ Ôi! Mười
mấy năm rồi, nó không về lấy một lần. Lại cũng không thư từ thăm
hỏi. Chúng nó chẳng hề nghĩ là mình còn bà mẹ phải sống lầm lũi nơi
quê nhà, nương dựa vào bà con chòm xóm. Mà có lẽ vì không khấm khá
gì, đâu còn mặt mũi trở về gặp ai.
Bà lặng lẽ
nhìn ra cảnh trời đang sập tối. Hình như có cơn mưa bão từ ngoài
biển khơi sắp đổ bộ vào đất liền. Dông bão cuộc đời và dông bão
trong lòng người mẹ này có khi nào lặng yên. Bà khẻ thở hắt ra nói:
_ Cái số Tôi nó vậy cô ơi! Cứ xem như mình không chồng không con để
thoải mái sống với tháng ngày còn lại. Tôi bây giờ cũng chẳng lo
buồn gì nữa. Sống nhờ bà con xóm làng, chết rồi cũng nhẹ nhàng ra
đi. Ngày ngày lên chùa làm công quả, vui với đám con nít mà lòng già
thanh thản an lạc. Hôm nay gặp cô là người tu hành, Tôi chạnh nhớ
lại chuyện xưa nên nói lại chút đó thôi.
�
]
�
]
…Nửa đêm cả
làng thức giấc giữa tiếng gió rít ghê hồn từ ngoài khơi vọng lại.
Tiếp theo là mưa. Mưa như trút nước. Mưa tuôn tất cả mọi sức mạnh
của đất trời xuống ngay vùng đá sỏi trơ gan này. Cơn bão đã đổ vào
đất liền. Bà Thượng cũng trở dậy, thấp thỏm đi lại trong căn chòi.
Nơi bà ở nằm trên cao, những năm lụt lớn nước chỉ mấp mé ngoài sân,
căn chòi cũng trải qua bao mùa gió bão mà chẳng hề hấn gì. Nhưng nào
bà có quan tâm cho sự sống còn của mình đâu. Bà đang lo lắng cho mấy
đứa trẻ ở trên chùa. Ngôi chùa mà thằng con bà ngày trước từng làm
trụ trì, có một thời gian bị bỏ hoang, làng xã phải cử người lên
trông nôm hương khói. Mười mấy năm nay có thầy từ trên phố về trụ
trì, sự sinh hoạt của bổn đạo mới có sinh khí nề nếp trở lại. Thầy
có mở lớp học tình thương, để trẻ em nghèo được đến lớp. Lại có cả
lớp nội trú, dành cho bọn trẻ nơi miền biển xa xôi ở luôn tại chùa
để tiện việc học hành. Hằng ngày bà vẫn lên chùa làm công quả, phụ
với mấy cô Bảo mẫu nấu ăn và chăm sóc bọn trẻ. Lúc rảnh, bà thường
bày trò chơi và kể chuyện cho chúng nghe. Bà vốn có duyên nói chuyện
mà. Tuổi già của bà không cô độc trong nỗi quạnh hiu, mà lúc nào
cũng rộn rã tiếng cười nói. Bà vui với thôn xóm, với trẻ thơ. Cuộc
sống của bà gắn liền trong niềm tin yêu của mọi người.
Từ sáng sớm,
cư dân các vùng ven biển gồng gánh đưa nhau lên chùa tránh bão. Bà
Thượng tất bật lo cơm nước cho dòng người tỵ nạn. Thầy trụ trì thì
vận động đám trai tráng trong thôn ra ngăn đập và giúp đỡ những gia
đình còn kẹt trong mưa lũ. Người lớn thì đủ thứ chuyện để lo lắng,
còn bọn trẻ thì vô tư chạy giởn. Bà lại phải lo trông coi chúng,
nhưng bận rộn quá bà không thể chơi hay kể chuyện, nhiều đứa nghịch
ngợm cứ thích nhào ra ngoài mưa tắm, chẳng biết gì đến nguy hiểm.
Cha mẹ chúng an tâm khi gởi con lên chùa. Chùa nằm trên đồi cao, mới
xây cất lại rất chắc chắn. Mưa bão mùa này không lớn lắm, nhưng
không phải là không có những mối đe doạ rình rập.
Trưa hôm
đó…mưa đã tạnh, gió cũng bớt hoành hành. Nước ở các vùng thấp đã rút
nhanh theo dòng chảy xiết ra sông biển. Bầu trời vẫn u ám như mọi
ngày. Tôi ủ mình trong tấm chăn bông dày mà cái lạnh như từ ruột gan
toả ra. Đang nghĩ tới chuyến trở về nhà ngày maiø, tôi chợt nghe
tiếng xôn xao bên ngoài:_ Bà Thượng mất rồi, ở trên chùa ấy.
Sao lại như
thế nhỉ? Tôi vùng ngồi dậy, theo mấy ông anh họ lên chùa.
Khi người ta
đem được bà lên thì thân thể đã lạnh cứng, nhưng bà vẫn chưa chết.
Đôi mắt đờ đẩn nhìn quanh, miệng khẻ thì thào:_Mấy đứa nhỏ. Cứu mấy
đứa nhỏ.
Ai đó ghé
vào tai bà nói:_ Mấy đứa nhỏ đã được cứu lên bình yên rồi. Để tụi
con hô hấp cho bà…
_ Thôi khỏi…
như vậy là được rồi….
Thế là bà ra
đi… nhẹ nhàng không chút vướng bận. Nơi bờ ao sau chùa, tụi nhỏ chạy
ra chơi đùa sau nhiều ngày bị bó gối trong nhà, rồi nhảy xuống tắm
và bị hụt chân. Bà đi ra nhìn thấy, không chần chờ liền nhào xuống
cứu. Tuổi già sức yếu, khi kéo được hai đứa lên thì bà chới với,
nhưng còn mấy đứa nữa. Bà lướt đi trong dòng nước lạnh cóng và chảy
xiết, cố đến nơi có những bàn tay đưa lên. Lúc này mọi người chạy ra…..
Cơn mưa bão
suốt một tuần lễ rồi cũng dứt. Tôi chuẩn bị xuôi chuyến tàu trở về
Nam mang theo ít nhiều nỗi niềm hoài hương cố quận. Lúc này làng xóm
quê nhà mang một sắc buồn ảm đạm. Trận bão đã tàn phá nhiều nhà cửa
ruộng vườn, làm hư nát nhiều đoạn đường nối qua các thôn xóm. Nhưng
không khí thê lương đọng lại trong lòng mọi người ít nhiều chính là
đám ma của bà Thượng, người duy nhất bị thiệt mạng sau cơn bão. Ngôi
nhà lá xiêu vẹo, mái tranh gió đánh phần phật suốt ngày đêm vẫn còn
đó, mà bà thì vĩnh viễn không quay về nữa. Bác Tôi bảo đám tang bà
buồn và lớn nhất trong thôn từ nhiều năm nay. Không kèn trống tưng
bừng, đứa con trai phương xa cũng không quay về kịp_ Có lẽ mưa bão
đã làm trễ nãi đường xá thư tín. Người của mấy thôn đều tập trung
đến để đưa tiển bà. Cả mấy lớp học tình thương cũng để tang cho Bà.
Người ta buồn vì từ nay vắng đi tiếng nói nụ cười của bà, vắng đi sự
ân cần vồn vả lúc nào cũng sẵn lòng vì mọi người. Tiếng tụng kinh
ngân rền trong buổi chiều lặng sóng để đưa một người trở về nơi chốn
thiên thu. Ai rồi cũng phải ra đi. Nhưng hình bóng của bà dường như
vẫn còn đâu đó trong âm vang lòng người ở lại.
Mưa bão đã
qua rồi. Mọi việc rồi cũng trôi nhanh theo lẽ tuần hoàn của năm
tháng. Cánh hoa dù tàn, vẫn toả sắc hương. Đời người một khi trở về
cát bụi vẫn để lại chút hương tình cho nhân thế. Những ngày lưu lại
nơi miền quê hương đầy mưa giông gió bão này, Tôi đã cảm nhận ra
được một lẽ sống tiềm tàng bất diệt, ngay giữa dòng đời sanh diệt bể
dâu.