- Ăn mặn ăn chay
- Cư sĩ Chính Trực
Trong cuộc sống
hằng ngày của chúng ta, vấn đề mọi người thường lưu tâm hàng đầu
chính là việc ăn uống. Nếu con người không cần phải ăn uống, chắc là
trên đời không có chuyện đấu tranh giành giựt, không có chiến tranh xâm
lăng, vì quyền lợi của dân tộc mạnh, cuộc sống của nhân loại sẽ
thái bình, an ninh, vui tươi, hạnh phúc. Ðó là phạm vi chung của nhân loại.
Riêng trong đạo Phật, cũng việc ăn uống, có một vấn đề, nội dung phức
tạp, thường gây thắc mắc, tranh luận đúng sai, nên hay không nên, cho
khá nhiều người. Ðó là: Ăn Mặn và Ăn Chay.
Ăn mặn là từ ngữ chỉ việc ăn uống
thông thường, bình thường, thường nhựt của bất cứ người nào trên
thế gian, không quan hệ với bất cứ phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng
nào. Nói một cách khác: Ăn mặn có nghĩa là ăn tất cả các loại thực
phẩm có thể ăn được, trên trái đất này, bao gồm thịt động vật, trứng,
sữa, và các loại thực vật, rau cải trái cây.
Ăn chay là từ ngữ có nhiều nghĩa
khác nhau, tùy theo phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng. Có nhiều nơi, ăn
chay có nghĩa là: không ăn thịt heo, hay cữ thịt bò. Có nhiều nơi, ăn
chay có nghĩa là: không ăn các loại thịt động vật, sống trên mặt đất,
nhưng có thể ăn các loại sinh vật, sống ở dưới nước. Ăn chay có hai
lý do chính: Một là, vì lý do phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng; hai là,
vì lý do sức khỏe.
Trong phạm vi đạo Phật, nói một
cách đơn giản, ăn chay có nghĩa là: ăn tất cả các thức ăn, thực phẩm
không có liên quan đến mạng sống của chúng sinh. Bài viết này có mục
đích tìm hiểu vấn đề ăn mặn và ăn chay, trong phạm vi đạo Phật, mà
thôi.
* * *
theo các nhà dinh dưỡng học, muốn có một cuộc sống đầy
đủ sức khỏe, muốn có đủ năng lực hoạt động trong cuộc đời, chúng
ta phải lưu tâm đến việc ăn uống điều độ, và đầy đủ chất dinh
dưỡng. Sách có câu: "Tinh thần minh mẩn trong thân thể tráng kiện".
Chúng ta thường được chỉ dẫn, nên theo một chế độ ăn uống thích hợp,
với bao nhiêu phân lượng chất đạm, chất xơ, chất bột, chất béo, chất
ngọt, chất khoáng, chất vôi, chất sắt, chất nước, và các loại sinh tố,
trong một ngày, để cơ thể có đủ năng lượng hoạt động, một cách tốt
đẹp, và sống lâu trăm tuổi, một cách khỏe mạnh.
Theo các báo cáo khoa học, rau cải,
ngũ cốc, hoa quả, thực vật, cũng đầy đủ chất dinh dưỡng cho sức khỏe,
cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, trong đời sống của con người. Các người
ăn chay vẫn sống khỏe sống thọ, không khác những người ăn mặn. Trong
số các thú vật, như con voi, con tê giác, con trâu, con bò, con ngựa, là những
con thú ăn thực vật, thảo mộc, nhưng rất khỏe mạnh, không khác các
loài thú ăn thịt sống, như sư tử, cọp, gấu, beo. Ăn chay còn có ích lợi
cho sức khỏe, như dễ tiêu hóa hơn, ít gây bệnh tật hơn. Trên thế giới
ngày nay, tây phương cũng như đông phương, số người ăn chay, vì lý do sức
khỏe, ngày càng nhiều hơn, theo khuyến khích của giới y sĩ, và số người
ăn chay, vì lý do tín ngưỡng, cũng gia tăng nhiều hơn.
Những người phát tâm ăn chay, vì
lòng từ bi, không cứ phải là người theo đạo Phật, thường cảm thấy
an vui lợi lạc, và nhẹ nhàng hơn, dễ cảm thông với các loài sinh vật
khác, và yêu mến thiên nhiên hơn, cảm nhận được vũ trụ vạn vật đều
đồng nhứt thể. Những người ăn chay, vì lý do sức khỏe, cũng như lý
do tâm linh, thường hiền lành hơn, ít náo động hơn, tâm tánh dễ dãi hơn,
nhưng vẫn sinh hoạt bình thường, như bao nhiêu người khác. Những người
chung quanh thường cảm thấy an tâm hơn, khi sống gần gũi người ăn chay.
Những con thú chỉ ăn thực vật thảo mộc, không bao giờ sát hại các
sinh vật khác, không gây sợ hãi cho các loài vật sống gần bên.
Tại sao chúng ta nên ăn chay?
Như trên chúng ta đã biết, ngoài những
ích lợi về phương diện sức khỏe thể chất, ăn chay trong đạo Phật có
mục đích cốt yếu là: "Tránh nghiệp sát sinh và trưởng dưỡng tâm
từ bi". Chứ không phải ăn chay để được thành Phật, để đạt
niết bàn, rước lên thiên đàng, chết về tây phương! Càng không phải
ăn chay để đem khoe khoang, khắp cả xóm làng, rằng mình từ bi không ai bằng,
rủa xả dè bỉu, phỉ báng tàn mạt những người chưa biết tại sao nên
ăn chay, hoặc những người chưa thể ăn chay vì nhiều lý do khác nhau. Con
người có trí tuệ đến với đạo Phật vì Chánh Pháp vi diệu thậm
thâm, có thể giúp đỡ con người giác ngộ, thoát ly sanh tử luân hồi,
thanh tịnh hóa tâm trí, thân an tâm lạc, đạt được cuộc sống an lạc và
hạnh phúc hiện đời, chứ không phải đạo Phật đơn thuần chỉ là đạo
ăn chay.
Thực vậy, vì con người không có
tâm từ bi thực sự, con người còn ám hại con người, con người còn ganh
tỵ đố kị con người, con người còn muốn thấy người khác đọa địa
ngục vì không theo tôn giáo mình, không cùng môn phái, không cùng pháp tu,
không đồng quan điểm với mình về một vấn đề nào đó, làm sao có thể
biết nghĩ đến việc ban vui cứu khổ muôn loài. Thói thường, kẻ mạnh
hiếp đáp kẻ yếu, người có thế lực chèn ép người cô thế, kẻ giàu
tiền lắm của đàn áp người nghèo khó khốn cùng, cá lớn nuốt cá bé,
lấy thịt đè người, khinh người sơ cơ, nằm mơ cực lạc, xuyên tạc người
hiền, làm tiền đồng đạo, làm sao thế gian này có hòa bình, an vui, lợi
lạc cho được.
Người tự nguyện phát tâm ăn chay là
người có tâm từ bi vô lượng, coi muôn loài như bản thân mình, không
thích giết hại một sinh vật nào, không muốn nhìn thấy một sinh vật
nào đau khổ, để thỏa mãn dục vọng của con người. Ăn chay còn giúp
cho các sinh vật, thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng, sống bị giam cầm
khốn khổ, đầy đọa trong địa ngục trần gian, chờ ngày giờ chết đớn
đau. Trong cuộc sống hằng ngày, người Phật Tử phải căn cứ trên hạnh
từ bi, bình đẳng và lợi tha, trong mỗi hành động, lời nói và ý nghĩ.
Cổ nhân có nói: "Nhứt thiết chúng sinh vô sát nghiệp, hà sầu thế
giới động đao binh". Nghĩa là: Nếu tất cả chúng sinh không sát hại
lẫn nhau, thì lo gì thế giới có chiến tranh.
Lòng từ bi của những người ăn
chay, biết thương yêu loài người, lan rộng đến các loài sinh vật. Họ
hiểu biết rằng các loài sinh vật đều ham sống sợ chết, đều bình đẳng
trước sự đau khổ, khi bị sát hại, cũng như loài người, không khác. Chứ
không phải, người ăn chay chỉ vì lý do sức khỏe, không thể ăn thịt
được, hoặc ăn chay với tâm mong cầu được sống lâu hơn, được lên
thiên đàng, được về cực lạc. Tại sao vậy? Bởi vì, con trâu con bò,
con lừa con ngựa, cũng là ăn chay, chỉ biết ăn cỏ, không ăn thịt được,
nhưng, đời sống của chúng, khốn khổ khốn nạn, biết là bao nhiêu.
Cũng không phải ăn chay để thỏa mãn
mục đích cầu danh: muốn được mọi người, tán thưởng khen mình, như là
một bậc, bồ tát tại thế, đã thọ bồ tát giới, hành bồ tát đạo,
bao nhiêu người khác, chỉ là kẻ xạo, vì không ăn chay, hay cỡ như mình.
Người ăn chay trường khinh khi người ăn chay kỳ, người ăn chay kỳ khi dể
người chưa biết ăn chay. Tâm của những người như vậy chưa thanh tịnh,
còn quá loạn động, lăng xăng lộn xộn, còn thích hơn thua, mua danh kiếm
tiếng, khiến người không ưa, ngay trong đồng đạo, đồng môn đồng bào,
cả với đồng loại, làm sao người đó, có thể gặp Phật, có thể
thành Phật?
Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ
Năng có dạy:
"Muốn học đạo Vô Thượng Bồ
Ðề, chẳng nên khinh dể hàng sơ học. Có kẻ dưới bực thấp mà thường
phát sinh trí tuệ rất cao,cũng có người trên bực cao mà thường chôn lấp
lý trí của mình. Nếu khinh dể người, ắt có tội vô lượng vô
biên".
Trên thế gian này, không ai hơn ai cả!
Tất cả mọi người với chư Phật bình đẳng, không khác, con người chỉ
khác ở chỗ mê ngộ không đồng, nghiệp báo khác nhau, cho nên hình tướng
bên ngoài của con người khác nhau. Ðây mới chính là ý nghĩa của lời Ðức
Phật dạy trong Kinh Hoa Nghiêm: "Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật
Tánh". Nghĩa là: Tất cả chúng sanh đều có tánh giác, còn gọi là
Phật Tánh. Phật và chúng sanh tánh thường rỗng lặng, chính là nghĩa như
vậy. Người nào có tâm cố chấp, bất cứ thứ gì xảy đến, đều gây
phiền não khổ đau, đến khi họ thức tỉnh, xả bỏ tâm cố chấp, tức
nhiên họ được giác ngộ, giải thoát khỏi những phiền não khổ đau, sống
được trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc, mặc dù cảnh đời vẫn tiếp
tục còn nhiều bất trắc, sóng gió, và thăng trầm.
Có những người đem tâm từ bi chan
rải cho những loài vật nhỏ nhít, như côn trùng gián kiến ruồi muỗi,
không dám sát hại chúng, hoặc những loài vật lớn hơn, như gà vịt heo
bò, không dám ăn thịt chúng, cho nên họ ăn chay trường và sống chung với
gián kiến ruồi muỗi, hoặc xua đuổi chúng sang nhà kế bên! Thế nhưng đối
với, những người chung quanh, gần như vợ chồng, ông bà cha mẹ, anh em
con cháu, xa hơn một chút, hàng xóm láng giềng, đồng nghiệp đồng môn,
nói chung đồng loại, nhân loại loài người, một câu lỡ lời, thì họ
nhứt định, không chịu bỏ qua, thứ tha lỗi người. Họ rất sẵn sàng,
thưa gửi kiện tụng, vu khống cáo gian, đặt điều thêm bớt, bới bèo ra
bọ, vạch lá tìm sâu, làm cho người khác, te tua tơi tả, tan tành hoa lá,
khốn khổ khốn nạn, họ mới thỏa mãn, hả dạ hài lòng, mới thiệt vừa
ý! Một câu nói của họ đủ khiến cho người khác chóng mặt nhức đầu,
xức dầu cù là, hoặc là cạo gió, ngất xỉu hụt hơi, có người hết thở!
Cũng có những người, tại gia tại
chùa, sợ tội sát sinh, những khi có bệnh, không dám uống thuốc, không
dùng thuốc thoa, dù ở ngoài da, sợ diệt vi trùng, bởi vì quan niệm, bệnh
là quả báo, tất cả mọi người, phải trả cho xong, cầu mong cực lạc.
Thậm chí phản đối, đủ thứ các việc, phá rừng làm rẫy, làm ruộng
trừ sâu, phá hoại mùa màng, họ liền kết án, hủy hoại môi sinh, chiếm
đoạt môi trường, côn trùng thú dữ, không chỗ nương thân! Họ đâu biết
rằng: chính ngay trong miệng, biết bao vi trùng, ngay trong ly nước, bao nhiêu
vi khuẩn! Chính bởi vì thế, có những tà giáo, không cho sang máu, khi nằm
trị bệnh, đành để bệnh nhân, chịu chết chứ sao!
Cũng có những người, tại gia tại
chùa, không dám trừ khử, gián kiến bọ chuột, còn đem thêm đồ, để
cho chúng ăn, sợ chúng đói chết, kẻo mà tội nghiệp, nhưng họ không hề,
giúp bất cứ ai, dù rằng người đó, đang gặp khốn khó, khốn khổ khốn
nạn, dù là người thân, hoặc là kẻ sơ, dù là người thương, hoặc là
kẻ thù! Có rất nhiều người, ở nhà ở chùa, không dám trừ khử, gián
kiến ruồi muỗi, sợ bị mang tội, nhưng rất sẵn sàng, loại bỏ đồng
môn, khai trừ đồng đạo, ám hại đồng bào, cào nhà đồng nghiệp, chỉ
vì đồng tiền, hoặc vì họ không, hài lòng vừa ý, về một vấn đề, dù
lớn dù nhỏ, một cách tàn nhẫn, không biết tiếc thương, hoặc chỉ vì
tâm, ganh tị đố kỵ, mà thôi.
Một ngọn đèn bình thường, được
gọi là hữu dụng, khi tỏa ánh sáng ở gần trước, sau đó lan ra xa mới
phải. Cũng vậy, tấm lòng từ bi thực sự phải được những người ở
gần chung quanh cảm nhận trước, sau mới đến những người ở xa, còn dư
nữa mới chan rãi đến những loài chúng sinh khác. Tuy nhiên, có những người
tỏ vẻ bác ái, tự xưng vì lòng từ bi, tự nhận bạn của thú vật, cổ
động khuyến khích người khác ăn chay, để tránh sát sinh hại vật, những
con vật vô tội đáng thương, một cách thiết tha cảm động, nhưng cũng
đồng thời, rủa xả thậm tệ, dai dẳng dằng dai, những người ăn mặn,
chưa ăn chay được, bất kể lý do. Những con người đó, vẫn biết vẫn
nhớ, lời Ðức Phật dạy: "Tất cả chúng sanh đều có Phật
Tánh", nhưng chỉ tôn trọng, Phật Tánh của các con vật, còn con người
nào làm mích lòng, không đồng quan điểm, không cùng pháp tu, họ rất sẵn
sàng, mạt sát miệt thị, lên án phỉ báng, không tiếc lời nào. Tấm
lòng từ bi của những người như vậy, chắc cần phải được xét lại!
Ngày xưa, khi Ðức Phật còn tại thế,
có một người đến dâng bát cơm cúng dường, bởi vì nghe nói, cúng dường
một bậc đạo sư như Ðức Phật, được vô lượng phước báu. Ðức Phật
bèn hỏi: Mẹ của ngươi ăn cơm chưa? Người đó đáp: Dạ chưa. Ðức Phật
dạy người đó mang bát cơm về, dâng cho mẹ ăn no lòng trước đã, mới
đúng đạo làm người. Ở các nước tây phương, văn minh tiến bộ, có những
hội bảo vệ súc vật, sẵn sàng đòi hỏi luật pháp phạt tù thật nặng
một con người, nếu người đó đánh đập một con vật, như chó mèo chẳng
hạn. Có người ăn xin, nghèo khổ rách rưới, ngồi ở vỉa hè, suốt cả
ngày trời, thời tiết giá băng, có ông đi qua, có bà đi lại, nhưng chẳng
một ai, cho một đồng xu. Ngay ngày hôm sau, người ăn xin đó, dẫn con chó
nhỏ, để nằm bên cạnh, liền nhận được ngay, nhiều tiền bố thí, từ
nơi những người, mến thương súc vật, kiểu Y2K, thế kỷ 21!
* *
Trong đạo Phật, nói chung, có hai hệ
phái: hệ phái nguyên thủy và hệ phái phát triển. Hệ phái nguyên thủy,
còn gọi là nam tông, chủ trương giữ y nguyên truyền thống Phật giáo, từ
thời nguyên thủy, cho nên quý sư là các vị khất sĩ, mang bình bát đi khất
thực, thiên hạ bố thí cúng dường vật thực gì, các ngài dùng như vậy,
không chọn lựa. Các ngài vẫn khỏe mạnh, tinh tấn tu hành, và đạt đạo
chứng đạo. Ðó là hệ phái truyền từ miền nam nước Ấn Ðộ, sang
Tích Lan, Thái Lan, Miến Ðiện, Ai Lao, Cao Miên. Phật giáo ở các quốc gia
này đều là quốc giáo.
Còn hệ phái phát triển, còn gọi
là bắc tông, truyền từ miền bắc nước Ấn Ðộ, sang Tây Tạng, Trung
Hoa, Việt Nam, Triều Tiên và Nhựt Bổn. Khi Phật giáo du nhập vào các quốc
gia này, tùy thuận văn hóa sở tại, nên dễ dàng hội nhập một cách hòa
bình, và phát triển một cách nhanh chóng trong lòng các dân tộc đó, biến
thành Phật giáo địa phương, đem lại an lạc và hạnh phúc cho người dân
bản xứ. Chẳng hạn như: Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Việt Nam, Phật
giáo Tây Tạng, Phật giáo Triều Tiên, Phật giáo Nhựt Bổn, đều có những
nét đặc thù, riêng của từng nơi. Ở các quốc gia này, chỉ trừ Việt
Nam có cả hai hệ phái cùng du nhập vào, chư Tăng Ni không đi khất thực,
trụ xứ tại một tu viện, hay một ngôi chùa, tự lo việc ăn uống. Cho nên
các ngài ăn chay, chỉ nhận cúng dường và dùng các thức ăn, không có
liên quan đến mạng sống của các sinh vật. Các ngài vẫn khỏe mạnh,
tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo.
Ðiều đó chứng tỏ rằng, vấn đề
ăn uống nói chung, ăn chay hay ăn mặn nói riêng, không phải thực sự là vấn
đề tối quan trọng trong đạo Phật, cũng không phải là vấn đề trực
tiếp liên quan đến sự tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo.
- Ðiều quan trọng trong đạo Phật chính là:
- Tâm trí có dính mắc hay không dính mắc cảnh trần.
- Nếu tâm không dính mắc, chính là tâm thanh tịnh vậy.
Chư Tổ có dạy: "Ðối cảnh
vô tâm, mạc vấn thiền".
Nghĩa là: Con người sống trên đời,
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, thường xuyên tiếp xúc với các hình ảnh,
âm thinh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm và ký ức. Khi con người tiếp xúc
với các trần cảnh như vậy, dính mắc tức là: khởi tâm niệm thương
hay ghét, khởi tâm niệm ưa thích hay tức giận, khởi tâm niệm khen hay
chê, đều gọi là loạn tâm, là vọng tâm. Không khởi các tâm niệm phân
biệt như vậy, gọi là định tâm, hay tâm thiền định. Tức là: Khi đối
trước các cảnh trên trần đời, người nào không khởi tâm niệm lăng
xăng lộn xộn, gọi là vô tâm, thì chính người đó sống trong cảnh giới
thiền định. Ðây là cốt tủy, là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
Là những người hướng dẫn hàng Phật
Tử tại gia, chư vị Tôn Ðức Tăng Ni giữ gìn giới luật một cách
nghiêm ngặt, tránh phạm sát giới, không muốn sát sinh, nên phải ăn chay,
tuyệt đối không dùng các thức ăn có liên quan đến mạng sống của các
sinh vật, để trưởng dưỡng tâm từ bi. Tâm từ bi là điều kiện hàng
đầu của người tiến tu theo đạo Phật.
Còn đối với hàng Phật Tử tại
gia, người nào phát tâm ăn chay trường được, thì thực là đáng quý, đáng
trân trọng. Ðó là nhân duyên tốt để tiến tu trên đường đạo, rất
đáng khuyến khích. Tuy nhiên, đối với những người, không ăn chay trường,
lý do hoàn cảnh, vì lý do sức khỏe, cũng đừng cố chấp, gây thêm rắc
rối, ở trong gia đạo, có thể ăn chay, vài ngày trong tháng, mục đích, nhắc
nhở chính mình, phải luôn luôn nhớ, những lời Phật dạy, áp dụng hằng
ngày, tu tâm dưỡng tánh, cũng thực rất tốt. Tự nhắc nhở mình: tu là
phải hiền, phải có lòng từ bi, đối với tất cả mọi loài chúng sinh,
bắt đầu từ loài người cho đến loài vật, bắt đầu từ người thân
cận, cho đến người ở phương xa, mới là phải đạo vậy.
Người nào chưa thể ăn chay được
theo nghĩa đen, vì lý do sức khỏe, vì lý do hoàn cảnh, hay vì bất cứ lý
do nào, có thể "ăn chay" qua ba nghiệp thân khẩu ý. Nghĩa là: thân
không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, miệng không nói dối,
không nói lời dua nịnh, không đâm bị thóc thọc bị gạo, không nói lời
thô tục độc ác, ý không nghĩ cách vu oan giá họa, không lập mưu thưa gửi
kiện tụng người, để kiếm tiền bồi thường, không tham tiền bất
chánh bất nhân, không tức giận thù oán người, không chứa chấp lòng
ganh tị đố kỵ người khác. Nói chung, không ăn chay được bằng phương
tiện vật chất, người Phật Tử tại gia nên cố gắng, giữ gìn thân khẩu
ý, cho được thanh tịnh, trong bất cứ thời điểm nào, tại bất cứ nơi
đâu. Ðó chính là tu tâm dưỡng tánh vậy.
* *
Giữ giới không sát sinh, trong ngũ giới
của người Phật Tử tại gia, trước tiên và trên hết, có nghĩa là:
không làm tổn hại mạng sống của con người. Ðối với người Phật Tử
xuất gia, thọ nhiều giới luật hơn, dĩ nhiên giới không sát sinh có nhiều
điều kiện nghiêm ngặt hơn. Sau đó, đối với các sinh vật khác, người
Phật Tử tại gia giữ được bao nhiêu, tốt bấy nhiêu, trong hoàn cảnh thực
tế của cuộc sống văn minh tiến bộ. Vì phép vệ sinh chung, chúng ta
không nên ích kỷ, sợ mang tội cho riêng mình, không dám trừ khử gián kiến
ruồi muỗi chuột sâu bọ, để chúng sống chung, gây thành bệnh dịch cho
cộng đồng, cho xã hội, cho nhân loại, tổn hại nhiều nhân mạng, còn đáng
tội nghiệp hơn. Giết hại con người, gây khổ đau cho người khác, lợi
mình hại người, là điều quan trọng nhứt, cần phải nên tránh, để khỏi
tạo tội tạo nghiệp.
Giữ giới không sát sinh còn có nghĩa
là không làm tổn hại đến thanh danh, đời sống và hạnh phúc gia đình của
người khác. Chẳng hạn như có, người vì tâm tham, sai khiến thúc đẩy,
âm mưu kiện tụng, người khác ra tòa, bằng những thủ đoạn, sâu hiểm
ác độc, đặt điều thêm bớt, vu khống cáo gian, giả tạo thương tật,
làm bộ khùng điên, liên miên thưa kiện, gây cảnh tù tội, cho bao người
khác, tan nát gia cang, mục đích đòi tiền, bồi thường thiệt hại, có
khi đòi tới, vài ba triệu bạc. Những việc như vậy, làm hại cuộc đời,
bao nhiêu người khác, gây nên biết bao, khổ đau phiền não, suốt cả cuộc
đời, còn lại của họ, tội nghiệp này còn nặng hơn là sát sinh hại vật.
Ðó chính là tội sát sinh: những người bị mưu hại, không chết liền tại
chỗ, mà chết cả cuộc đời!
Khi dám ra tay lấy mạng người khác,
chắc chắn con người có tâm tham lam tiền bạc của cải quá lớn, hoặc
có tâm sân hận tức giận quá độ, hoặc có tâm si mê quá sâu dầy, cho
nên con người tạo nên tội nghiệp hết sức lớn lao, nặng nề. Khi nỡ
ra tay sát hại một con vật lớn cũng vậy, như giết trâu bò heo chó làm
thịt, hay săn bắn thú rừng, giết voi cọp beo gấu nai, để tiêu khiển,
để lột da, để lấy ngà, con người tạo thêm nghiệp báo hết sức lớn
lao, n宧 nề, không khác. Tại sao vậy? Bởi vì muốn
giết người, hay sát hại con thú lớn, người đó đã có chủ ý, đã có
kế hoạch, đã chuẩn bị kỹ lưỡng, đã dự mưu tính toán, cho nên tâm của
người đó bị vẩn đục nặng nề, con người lún sâu trong vòng tội lỗi.
Tôn trọng và bảo vệ đời sống của con người, của mọi loài chúng
sanh, là nguyên tắc thực tế nhứt, là động cơ hữu hiệu nhứt, để tôn
trọng và bảo vệ đời sống của chính mình.
Làm tổn hại mạng sống của người
khác, làm tổn hại an ninh hạnh phúc của người khác, làm tổn hại thanh
danh của người khác, tức là tổn hại tâm từ bi của chính mình. Làm tổn
hại sinh mạng của chúng sinh, tội nghiệp nặng nhẹ, tùy theo tâm của con
người lúc đó. Thí dụ như vì phép vệ sinh, hay vì vô tình, hoặc vì bị
cắn đau bất ngờ, con người đập chết con muỗi, tội nghiệp không nặng
bằng những người đi câu cá để tiêu khiển, vứt cá lên bờ, chết ngộp
đầy dẫy, hoặc những người vừa giết côn trùng, vừa nguyền rủa
chúng, trên vỉa hè, ngoài đường phố. Thí dụ như vô ý đạp chết một
con trùng, tội nghiệp không nặng bằng một đứa bé cầm roi, đánh cho đến
chết một con gà bị đem treo ngược, một cách nhanh nhứt, để lãnh giải
thưởng, trong một cuộc thi đua giết gà, do người lớn tổ chức để mua
vui!
Hơn thế nữa, người biết tu tâm dưỡng
tánh, không bao giờ gây đau khổ cho bất cứ ai, dù là người thân hay kẻ
thù, qua các hành động đánh đập, hãm hại, hoặc không bao giờ gây não
loạn cho người khác, qua việc thưa gửi kiện tụng, vu khống cáo gian, hoặc
không bao giờ gây tổn hại thanh danh và hạnh phúc gia đình người khác,
qua những lời nói ác độc có chủ ý, đặt điều thêm bớt, có nói
không, không nói có, ngậm máu phun người, kết án bừa bải, bóp méo sự
thực, xuyên tạc ngụy biện, xiên xỏ xỏ xiên, tranh cãi liên miên, lợi
mình hại người, khen mình khinh người, người khác sống chết, đau khổ
thế nào, thì cũng mặc kệ!
Những người có bàn thờ Phật,
dù tại chùa hay tại gia, dù có ăn chay trường hay ăn chay kỳ, dù có thọ
bồ tát giới hay tu bát quan trai giới, tu thập thiện giới, nhưng tâm
không thanh tịnh: vẫn còn tiếp tục những hành động, những lời nói,
và những ý nghĩ, lợi mình hại người, vẫn muốn người khác chết để
mình sống, vẫn muốn người khác nhục để mình vinh, vẫn muốn người
khác thua để mình thắng, vẫn muốn xài tiền của người khác, qua các thủ
đoạn, như thưa gửi kiện tụng, sang đoạt phần hùn, tiếm dụng tác quyền,
giựt hụi quịt nợ, vẫn muốn lợi dụng lòng tốt của mọi người, để
sung sướng tấm thân, không cần làm lụng vất vả, kẻ hầu người hạ,
thì thực là uổng công vô ích, chẳng ích lợi gì cho việc trở về nguồn
cội, cho việc thoát ly sanh tử luân hồi, cho việc dứt trừ phiền não khổ
đau!
Trong kinh sách có câu:
- Sân si nghiệp chướng không chừa.
- Bo bo mà giữ tương dưa làm gì?
Nghĩa là: Người nào vẫn tiếp tục
tạo nghiệp chướng, tâm tham lam, tâm sân hận, tâm si mê, vẫn còn y
nguyên, như vậy, thờ Phật tại chùa hay tại gia, ăn chay lễ lạy, tụng
kinh bái sám, phỏng có ích lợi gì đâu chứ? Thậm chí, có người còn
vào chùa lạy Phật, van vái ăn chay ba tháng, cúng chút tiền lẻ, hùn chút
phước làm việc phước thiện, với tâm cầu xin thắng một vụ kiện, cầu
xin trúng mối lợi to lớn, phen này kiếm được vài ba triệu đô la, tạ
ơn tượng Phật chút đỉnh sau!
Trong sách cũng có câu: Ăn mặn nói
ngay. Ăn chay nói dối.
Câu này có thể giải thích nhiều
nghĩa khác nhau. Trước hết, câu này ngụ ý: trong trường hợp người ăn
chay mà còn phạm lỗi nói dối, tức là giới thứ tư trong ngũ giới của
người Phật Tử tại gia, thì không bằng người ăn mặn. Người ăn mặn
chẳng hề khoe mình biết tu hành gì hết, nhưng họ nghĩ sao nói vậy, tâm
khẩu nhứt như, nói ngay thẳng, không xiên xỏ, không móc họng, không mỉa
mai, không đãi bôi, không màu mè, không nịnh bợ, không có chuyện:
- Miệng thì nói tiếng nam mô.
- Trong lòng chứa cả một bồ dao găm.
Nhẹ nhàng hơn, câu này có nghĩa là:
người ăn mặn khi ăn thịt cá, thì họ nói là ăn thịt cá, một cách ngay
thẳng rõ ràng. Còn người ăn chay thường thích trổ tài nấu nướng, bằng
cách làm các món ăn bằng vật liệu chay, nhưng tên gọi và hình thức giống
y như món mặn. Chẳng hạn như người ăn chay nói: tôi ăn thịt quay bánh hỏi,
nhưng thực ra, món thịt quay chay đó được làm bằng bột mì với tàu hủ
ky, ăn với bánh hỏi. Những món chay nhưng có tên món mặn cũng là đề tài
thảo luận, từ xưa đến nay, trong vấn đề ăn mặn và ăn chay, nhiều khi
quá đáng đến chỗ hý luận.
Tuy nhiên, câu này không có nghĩa xác
định rằng: người ăn mặn luôn luôn nói ngay, còn người ăn chay luôn
luôn nói dối. Tại sao vậy? Bởi vì chuyện nói ngay hay nói dối, tùy theo
người, tùy theo cảnh, tùy theo tâm trạng, chứ không tùy theo chuyện ăn mặn
hay ăn chay.
* *
Trong kinh sách, Ðức Phật dạy, có
ba trường hợp phạm tội tạo nghiệp như nhau. Ðó là: "tự tác,
giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ". Nghĩa là: tự tay mình làm thịt
sinh vật sống, để ăn cho hạp khẩu vị, hoặc mở miệng sai bảo, chỉ vẻ
cách làm thịt sinh vật sống, để người khác làm, cho mình ăn được
ngon miệng, hoặc thấy biết người khác làm thịt sinh vật sống, để đãi
mình ăn, mà mình vẫn thấy khoái khẩu, vui vẻ, tất cả đều tội nghiệp
như nhau, không khác. Tại sao vậy? Bởi vì trong ba trường hợp trên, tâm của
con người loạn động như nhau.
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật có dạy:
"Mục đích cứu kính của
người tu theo đạo Phật, muốn được giác ngộ và giải thoát khỏi vòng
sanh tử luân hồi, muốn được vãng sinh tây phương cực lạc, chính là phải
đạt được: cảnh giới nhứt tâm bất loạn".
Trong Kinh Ðịa Tạng, và Kinh Thủy
Sám, các hình ảnh chúng sinh bị đọa cảnh giới địa ngục thường được
nhắc đến: nào là nằm giường sắt nóng, nào là bỏ vào chảo dầu sôi,
nào là nhốt trong phòng bốn vách đều bằng sắt có lửa nóng, nào là xe
bằng sắt cán dẹp nát thây, nào là bị đâm, bị cắt da, bị xẻo thịt,
bị cắt lưỡi, bị chặt đầu, bị moi óc, bị uống dầu sôi, nuốt hòn
sắt nóng.
Ngày nay, chúng ta có thể thấy những
hình ảnh đó hiện tiền, trên truyền hình, qua các chương trình dạy nấu
ăn, hay qua các màn ăn uống, trong nhà bếp tại gia, hay bếp của các nhà
hàng, trong khi các con vật vẫn còn sống nhăn: như cá bị bỏ nằm trên chảo
chiên, hoặc bị bỏ vào chảo dầu sôi, như cua bị đâm vào bụng, rồi bị
bỏ vào nồi nước luộc, như tôm sống bị dao cắt làm hai, như sò ốc bị
nướng trên lò, như khỉ bị mổ óc ăn sống. Những con vật đó ngo ngoe
giẫy giụa trên tấm thớt, dưới con dao phay, hoặc bò lăn bò càng trên chảo
nóng, hoặc vùng vẫy trong nồi nước sôi, hoặc bị cột trói cứng ngắc,
chịu đớn đau vô cùng tận! Thực là cảnh tượng địa ngục ở trần
gian, vô cùng khủng khiếp, mà những người có tâm từ bi không thể nào
đành chứng kiến!
Dĩ nhiên, người Phật Tử chân
chánh tuyệt đối không bao giờ nên bày đặt cách ăn uống cầu kỳ quái
dị, vui thú trên sự đau đớn rên la của các sinh vật còn sống, ngay tại
bàn tiệc, như bậc vua chúa, trưởng giả giàu sang, thường hay hưởng thụ.
Chúng ta nên biết rằng những vị vua chúa, hay các nhà giàu sang quyền
quý, là những người có rất nhiều phước báo, từ nhiều đời nhiều kiếp
trước, nên đời này kiếp này mới được như vậy. Phước báo ví như
tiền tiết kiệm dành dụm từ trước, không biết làm việc thiện tạo
thêm phước, lại tiêu xài phung phí nhiều quá, cũng có ngày cạn hết. Cho
nên khi hưởng hết phước báo, vì trong kiếp này, không biết tu tâm dưỡng
tánh, lại còn tạo tội nghiệp như vậy, cuộc đời của họ sẽ kết thúc
hết sức bi thảm. Chúng ta đọc sách báo xưa nay thường thấy các vị vua
chúa, bị ám sát chết, bị lật đổ không chỗ chôn thân, các nhà giàu
sang quyền quý, khánh tận tài sản, đến nỗi phải quyên sinh, kết thúc mạng
sống của chính mình, các vị hoàng gia hoàng tử, công chúa quận nương, bị
tai nạn thảm khốc, chết không toàn thây, ở trên xa lộ, hoặc dưới biển
sâu. Chúng ta là những người thực sự kém phước báo hơn các vị đó
nhiều lắm lắm, chớ nên tạo thêm tội nghiệp, bằng cách này hay cách
khác.
* *
Chư Tổ có dạy:
- "Tu mà không học là tu mù.
- Học mà không tu là đãy sách".
Nghĩa là người phát tâm tu mà không
chịu tìm học kinh điển, và không thấu hiểu lời Ðức Phật dạy trong
các kinh điển đó, chỉ biết đem kinh điển ra tụng, rồi lạy từng chữ,
và đếm bao nhiêu lần, để dâng sớ kể công với Ðức Phật, và van xin
Ðức Phật từ bi rước về cực lạc, cho được sung sướng hơn, hoặc chỉ
biết lo chuyện hình thức, chuyện vật chất, chẳng hạn như là chuyện
ăn uống, ăn mặn hay ăn chay, rồi tranh chấp đúng sai, rồi cãi cọ hơn
thua, rồi tự hào tự mãn, như vậy gọi là tu mù. Tại sao vậy? Bởi vì
càng tu kiểu đó, tâm của những người như vậy càng loạn động, càng
mù tịt, càng u tối, càng thêm phiền não mà thôi, chẳng tiến bộ gì, chẳng
ích lợi gì.
Những người tu mù, thường hay hảnh
diện, về chuyện ăn chay, khi dể ăn mặn, cho rằng ăn mặn, mang nghiệp rất
nặng, phải đọa địa ngục, còn mình niết bàn, thiên đàng cực lạc! Những
người tu mù, hiểu rằng chúng sanh, ở trong sáu cõi, cùng khắp pháp giới,
đều là bình đẳng, nhưng lại rủa xả, một cách tàn mạt, những người
không cùng, quan điểm với mình! Những người tu mù, tỏ ra thương xót,
con bò con heo, nhưng, có người ví von, như heo như bò, họ nhẫn không nổi,
tam bành lục tặc, như hỏa diệm sơn, bởi vì, họ không hề biết: "y
nghĩa bất y ngữ", nghĩa là làm sao!
Trái lại, những người chỉ thích
tìm hiểu kinh điển, đọc thực nhiều sách đủ loại, nội điển ngoại
điển: Thế học Triết học, Phật học Thiền học, Thần học Tâm lý học,
cho thỏa mãn lòng tò mò, tăng thêm kiến thức, để đem tranh cãi, lý luận
đôi co, bắt khoan bắt nhặt, bắt bẻ vặn vẹo, mà lại không chịu, tu
tâm dưỡng tánh, phản quan tự kỷ, không xét lỗi mình, chỉ thấy lỗi người,
không chịu thực hành, lời Ðức Phật dạy, hằng ngày hằng giờ, trọn
không lợi gì. Cũng ví dụ như, nhân viên đếm tiền, ở tại ngân hàng,
hay chú mục đồng, đếm trâu cho chủ, quanh đi quẩn lại, quanh năm suốt
tháng, tiền cũng chẳng có, trâu cũng chẳng được. Như vậy, có khác nào
cái đãy hay cái tủ đựng sách, hoặc cái tàng kinh các mà thôi.
Dù cho có người, ăn chay từ nhỏ,
ở luôn trong chùa, nhưng không biết tu, theo pháp môn nào, chỉ biết tụng
kinh, như thợ tụng đám, rầm rầm rào rào, gõ mõ lóc cóc, cầu an cầu
siêu, ê a lên xuống, như hát cải lương, nhưng chẳng hiểu gì, hoặc hiểu
một phần, nương theo văn tự, hiểu theo nghĩa đen, đọc đâu hiểu đó,
chẳng chịu suy tư, tự cho là đủ, tăng thêm ngã mạn, khinh khi mọi người,
trọn chẳng công đức, đôi khi còn khiến, người mới phát tâm, đâm ra
chán nản. Tại sao vậy? Bởi vì, họ chỉ thích lập chùa to, tạo pho tượng
lớn, nhưng không Chánh Pháp, giảng dạy cho người, như vậy khác chi, người
đời ham thích, nhà cao cửa rộng, chẳng đem lợi gì, đến cho bá tánh, chỉ
tạo thêm tội, thêm nghiệp mà thôi.
Thí dụ như là: con bò ăn cỏ, không
thể ăn thịt, dù sống hay chín, con cọp ăn thịt, không thể ăn cỏ. Những
người ăn chay từ nhỏ, không ngửi được mùi thịt cá, đành tiếp tục
ăn chay, như vậy có gì hay đâu? Ðó chỉ là nghiệp báo mà thôi. Những người
có thể, chọn lựa mặn chay, phát tâm ăn chay, tu tâm dưỡng tánh, mới là
đáng quí. Nếu những vị có duyên lành ăn chay từ nhỏ, lại biết tu tâm
dưỡng tánh, biết cầu học Chánh Pháp, biết tự lợi lợi tha, biết tự
giác giác tha, vì mình vì người, với tâm khiêm tốn, thương xót chúng
sanh, đang bị trầm luân, sanh tử luân hồi, gắng công tu tập, công phu thiền
định, bản tâm thanh tịnh, có ngày đại ngộ, hoằng dương Chánh Pháp, cứu
khổ chúng sanh, muôn loài ích lợi. Ðó chính là những bậc chân tu thực học,
những bậc cao tăng thạc đức, là cây to bóng mát trong chốn thiền lâm,
là nơi nương tựa cho hàng tứ chúng vậy.
Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, Ðức Phật
có dạy:
- Tuy tụng ngàn chương cú. Không hiểu nghĩa ích gì.
- Ðâu bằng hiểu một câu. Nghe xong liền ngộ đạo.
- Dù tụng ngàn muôn câu. Không rõ nghĩa ích gì.
- Chỉ thông suốt một nghĩa. Nghe qua liền đạt đạo.
Thực vậy, mục đích cứu kính của
đạo Phật, không phải chỉ là những buổi lễ cầu an, cầu siêu, cầu
đoàn tụ, cầu đủ thứ chuyện trên trần đời, xong rồi tính lời tính
lỗ. Cũng không phải chỉ là những hình thức bên ngoài như: đi chùa lễ
Phật, hái lộc đầu xuân, mỗi năm một lần, ăn chay thọ giới, tụng
kinh bái sám, mỗi tháng hai lần, lập chùa thiệt to, tạo tượng thiệt lớn,
cho có vẻ linh thiêng huyền bí, mà chẳng hiểu làm như vậy có ý nghĩa gì,
bởi không chịu tìm học Chánh Pháp, chỉ tăng thêm chấp ngã và chấp
pháp mà thôi.
Tất cả những sự tướng kể trên,
không phải là không cần thiết, không phải là không nên làm, không phải
là vô bổ vô ích, một cách hoàn toàn. Nhưng, như vậy vẫn chưa phải là
đủ, chưa phải là cứu kính, chưa phải là cốt tủy của đạo Phật.
Ðó chỉ là cái vỏ bên ngoài, là vòng rào bên ngoài, dành cho những người
mới bắt đầu đến với đạo Phật. Những người thờ Phật nhiều đời,
hoặc phát tâm tu theo đạo Phật lâu rồi, làm việc chùa nhiều năm rồi,
mà vẫn dừng lại ở những hình thức bên ngoài như vậy, và chịu thỏa
mãn, thì chẳng ích lợi gì, chẳng tiến bộ gì.
Mục đích cứu kính của đạo
Phật là giúp đỡ con người đạt được giác ngộ và giải thoát khỏi
vòng sanh tử luân hồi, chứ không phải chỉ có những lễ nghi này và những
nghi lễ kia như vậy mà thôi.
Nhưng con người cần giác ngộ điều
gì? Theo đạo Phật, con người cần giác ngộ: cuộc đời là vô thường,
biến đổi luôn luôn, tâm tánh là vô thường, nay vầy mai khác, tấm thân
là giả tạm, nay còn mai mất, chỉ tồn tại hơn kém một trăm năm mà
thôi. Cho nên phải hiểu biết sâu luật nhân quả, mới có thể gìn giữ bản
tâm thanh tịnh, chuyên làm các việc thiện, chuyên nói các việc hiền,
chuyên nghĩ các việc lành, tránh làm các điều ác, tránh nói các điều dữ,
tránh nghĩ các điều bất thiện, tránh gây phiền não khổ đau cho người
khác, chẳng hạn như: sát sinh hại vật, lường gạt trộm cắp, phá hoại
gia cang, nói lời độc ác, chia rẽ người khác, vu khống cáo gian, thưa gửi
kiện tụng, ăn gian nói dối, lợi mình hại người, đòi tiền bồi thường,
vài ba triệu bạc, lòng tham không đáy, có ngày trở lại, hại chính nơi mình.
Hiểu biết sâu luật nhân quả, con người cố gắng làm bất cứ điều
thiện nào, dù nhỏ dù lớn, để tạo thêm phước báu, hầu giảm bớt
nghiệp báo, đã tạo trước đây, qua các dạng như: được nhiều may mắn,
quới nhơn giúp đỡ, gặp người tốt bụng, tai qua nạn khỏi, chuyện lớn
hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Chứ khấn vái, van xin, cầu nguyện, thực
ra chẳng có ích gì, có được gì đâu?
Tại sao như vậy? Bởi vì, chư Phật
hay các vị thánh thần thiêng liêng, đâu có làm chuyện bất công, thỏa
mãn lời van xin cầu khẩn của những kẻ còn gây tội tạo nghiệp, còn
gây đau khổ cho người khác, dù bằng hành động, lời nói hay ý nghĩ,
chưa chịu tu tâm dưỡng tánh, làm sao xứng đáng được hưởng những điều
cầu khẩn van xin đó. Hơn nữa, cứu kính của đạo Phật là chỉ dạy con
người giác ngộ "bản tâm thanh tịnh" của chính mình, sẵn có xưa
nay.
Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức
Phật có dạy:
- Tất cả chúng sinh đều có bản tâm thanh tịnh.
- Chúng sinh chẳng nhận thấy được, vì bị vô minh
che lấp.
Nghĩa là: Con người ai ai cũng có bản
tâm thanh tịnh. Chỉ vì lòng tham lam của cải tiền bạc, tham đến bạc
triệu đô la, chứ chẳng phải ít ỏi gì, hoặc chỉ vì lòng sân hận tự
ái cao độ, hoặc chỉ vì lòng si mê cố chấp, cho nên con người mới tạo
tội tạo nghiệp, làm cho tâm trí loạn động, thường xuyên bất an, điên
đảo loạn cuồng, để rồi trôi lăn vào vòng sanh tử luân hồi, đã muôn
kiếp trước, và sẽ tiếp tục trôi lăn, muôn kiếp về sau, nếu như không
biết, nếu như không chịu, dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Với số tiền
nho nhỏ, quyền lợi không đáng kể, con người còn có thể tỉnh thức,
có thể dừng được nghiệp, có thể dẹp lòng tham, không thưa kiện người
khác, không gây não loạn người, và gia đình của họ. Nhưng khi kiện
thưa, đòi tiền bồi thường, vài triệu đô la, con người thành ma, tối tăm
mặt mũi, liều mạng đưa chân, hết biết lẽ phải, nhắm mắt làm càng,
tới đâu cũng được, địa ngục chẳng ngán, súc sinh chẳng sợ, ngạ quỉ
chẳng sao, miễn là thu vào, một số tiền to, cho sướng cái đã, bất cứ
chuyện gì, hạ hồi phân giải. Mãnh lực của đồng đô la quả thực là
vạn năng, thượng đế chẳng bằng, đã lôi kéo không biết bao nhiêu
chúng sinh u mê, vào vòng tội nghiệp, từ xưa đến nay!
Chúng ta là người tỉnh thức, đang
tu học Chánh Pháp, đang muốn trở về nguồn cội, đang muốn chuyển hóa
cuộc đời của mình, đang muốn thoát ly sanh tử luân hồi, càng phải nên
hết sức cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng!
Muốn được gặp Phật, phải
bỏ tâm ma. Thực là đơn giản, không tìm đâu xa, nhưng không dễ làm. Khi
con người biết dừng nghiệp và chuyển nghiệp, tức là con người được
giải thoát khỏi sự trói buộc của nghiệp chướng. Ðó mới chính là mục
đích cứu kính của đạo Phật. Khi đã hiểu biết được chân lý đó rồi,
con người thấy được hướng đi của người Phật Tử chân chánh, biết
tu tâm dưỡng tánh, ăn chay hay ăn mặn, không còn là vấn đề nữa!
Có ông Liêm Sứ, ở xứ Hồng Châu,
đến hỏi Thiền sư, Mã Tổ Ðạo Nhất: Uống rượu ăn thịt, nên hay
không nên? Ngài Mã Tổ đáp: Uống rượu ăn thịt, là "lộc" của
ngài. Không uống rượu ăn thịt là "phước" của ngài! Có phước
mới hưởng lộc. Có phước mới trường thọ. Ðó là: "Phước, Lộc,
Thọ". Không có phước, sao được hưởng lộc, sao được trường
thọ?
Ngày xưa, vào đời nhà Trần, khi
Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mời vào cung điện dự tiệc thịnh
soạn, Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ ngồi vào bàn tiệc, vừa ăn món chay vừa
ăn món mặn, không quan tâm lựa chọn. Hoàng Thái Hậu thấy vậy, ngạc
nhiên hỏi: Hoàng huynh thiền định, mà ăn cá thịt, thành Phật sao được?
Tuệ Trung Thượng Sĩ cười đáp: "Phật là Phật, huynh là huynh. Huynh
chẳng cần làm Phật, Phật chẳng cần làm huynh. Thái Hậu há chẳng nghe cổ
đức nói: Văn Thù là Văn Thù, Giải Thoát là Giải Thoát, đó sao?".
Hoàng Thái Hậu nghe qua liền giác ngộ.
Theo sử sách ghi, chúng ta được biết,
Tuệ Trung Thượng Sĩ là một vị Cư Sĩ, vào đời nhà Trần, ở nước ta.
Ngài vốn là một vị tướng lãnh, một quan đại thần trong triều, sau khi
ngộ đạo, Ngài liền từ quan, tỉnh tu tại gia, giảng dạy đạo lý cho những
người hữu duyên, tầm sư học đạo, từ hàng vua chúa, quan quyền trưởng
giả, cho đến thứ dân. Ngài là con cả của Khâm Minh Từ Thiện An Sinh Vương
Trần Liễu, và là thầy dạy đạo của Hoàng Ðế Trần Nhân Tôn. Hoàng Ðế
Trần Nhân Tôn hai lần đại thắng quân Mông Cổ, giữ yên bờ cõi, sau
này nhường ngôi, đi tu trên núi Yên Tử, đạt đạo trở thành Sơ Tổ Trúc
Lâm, tức là Ðiều Ngự Giác Hoàng. Những điều luận bàn đạo lý huyền
diệu của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ được các bậc thạc đức thiền môn
rất kính trọng. Ðiều chúng ta cần lưu ý nơi đây là: trình độ tu tập
giác ngộ của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đã vượt khỏi tam giới, đã
thoát khỏi thế giới hiện tượng tương đối, chúng ta không thể so sánh
được!
Câu chuyện này ngụ ý: Việc tu tâm
dưỡng tánh mới thực sự là điều quan trọng, và nhằm mục đích đả
phá quan niệm sai lầm cho rằng: ăn chay sẽ thành Phật, ăn chay sẽ lên
thiên đàng, ăn chay sẽ về niết bàn, còn ăn mặn sẽ đọa địa ngục!
* * *
tóm lại, vấn đề ăn mặn và ăn chay còn khá nhiều khía
cạnh tế nhị khác, trong phạm vi hạn hẹp và nông cạn, bài viết này
không thể bao gồm hết tất cả các phương diện, một cách hoàn toàn được.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đã có một khái niệm khá rõ ràng về vấn đề này,
có thể áp dụng vào trong đời sống thực tế hằng ngày. Cổ nhân có dạy:
"Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn". Nghĩa là:
Con người sanh ra, trên trái đất này, ngoài chuyện ăn uống, để giữ mạng
sống, bồi dưỡng sức khỏe, chúng ta còn nhiều, chuyện khác để làm,
đem lại ích lợi, cho người cho đời, và chính bản thân.
Trong đạo Phật, vấn đề ăn uống
không phải là chuyện quan trọng hàng đầu. Dù ăn mặn hay ăn chay, cần nên
giản dị, không nên cầu kỳ, dành nhiều thời giờ, cho những việc làm,
ích lợi bản thân, đối với tâm linh, đời sống tinh thần. Chính chuyện
tu tâm dưỡng tánh mới đáng làm chúng ta bận tâm thực hành hằng ngày.
Chuyện ăn uống thuộc về phạm vi thể chất, bồi bổ cho tấm thâm tứ
đại giả tạm này, để làm phương tiện cho việc tinh tấn tu tâm dưỡng
tánh, cho đến ngày giác ngộ và giải thoát.
Chư Tổ có dạy:
- "Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên". Hoặc:
- "Cơ lai khiết phạn, khốn lai thùy".
- Nghĩa là: "Ðói đến thì ăn, mệt ngủ khò".
Lúc mình đói bụng, một củ khoai nhỏ,
cũng tạm ấm lòng. Khi ăn quá no, căng bụng tràn họng, lúc đó món nào,
dù mặn hay chay, cũng chẳng còn ngon.
Sách có câu: "No mất ngon, giận
mất khôn". Con người muốn sống một cuộc đời an nhàn tự tại,
không nên chú tâm, không nên lệ thuộc quá nhiều về sự ăn uống. Một
người chỉ biết ăn chay, tụng niệm suốt đời, không tìm biết mục đích
cứu kính của đạo Phật, quả thực là phí phạm cả kiếp sống này. Việc
học hiểu để phát triển trí tuệ, và thực hành Chánh Pháp, ngay trên cuộc
đời, tại thế gian này, cho đến khi được viên mãn, mới thực sự là
việc quan trọng của người Phật Tử, tại gia và xuất gia. Ðó mới là mục
đích cứu kính của đạo Phật, ăn uống chỉ là một phương tiện, trong
bao nhiêu phương tiện khác, mà thôi.
Một thực tế khác về vấn đề ăn
mặn và ăn chay chúng ta cần nên hiểu biết. Ðó là các thứ nông phẩm
dùng để ăn chay như: cơm gạo, rau cải, hoa quả, trái cây, thu hoạch được
sau khi trải qua quá trình: trồng trọt, tưới nước, bón phân và trừ khử
các loại sâu rầy phá hoại mùa màng. Nghĩa là các nông gia phải lao động
khổ nhọc và phải sát trùng, để mùa màng được tươi tốt, thu hoạch
được cao, tăng gia sản xuất. Khi dùng các nông phẩm đó, để gọi là
ăn chay, tránh nghiệp sát sinh, trưởng dưỡng tâm từ bi, tu tâm dưỡng tánh,
chúng ta đã không tránh được sát giới, một cách hoàn toàn, dù không trực
tiếp, cũng là gián tiếp, cũng chịu cộng nghiệp, với các nông gia. Cho
nên, người Phật Tử tại gia hay xuất gia, mỗi khi thọ thực, cần phát
tâm từ bi, thương xót những người chưa thể ăn chay được, vì bất cứ
lý do gì, hoặc là các nông gia phải phạm sát giới, để làm nên các
nông phẩm chúng ta đang dùng, bằng cách tự đọc lời cầu nguyện trước
khi ăn, để hồi hướng phước báu ăn chay, hay công đức trì giới của
mình, đến tất cả chúng sinh, trong khắp pháp giới. Hoặc chúng ta chắp
tay cầu nguyện cho tất cả chúng sinh, ít ra cũng đều có những bữa cơm
đạm bạc như mình vậy.
Bài viết này tìm hiểu vấn đề ăn
mặn và ăn chay, trong phạm vi đạo Phật, nhằm mục đích khuyến khích,
tán thán việc ăn chay đúng Chánh Pháp, trưởng dưỡng tâm từ bi, chú trọng
việc tu tâm dưỡng tánh, để đạt được giác ngộ và giải thoát, mà
thôi.
Ðể kết thúc bài viết này, có bài
kệ như sau:
- Như ăn chay suốt đời
- Nhưng tâm không thanh tịnh
- Không hiểu biết Chánh Pháp
- Khác chi bò ăn cỏ.
- Cư-sĩ Chính-Trực (Toronto-Canada)
- 302 - 2 DORADO COURT, TORONTO, ONTARIO M3M 2E8, CANADA
http://www.buddhismtoday.com/viet/anchay/006-anchay.htm