- Kiến Thức Căn Bản Phật Giáo
- TT. Thích Bảo Lạc
CHƯƠNG
5: CÁCH XƯNG HÔ
2.- Hòa Thượng Là Gì ? Ai
Được Tôn Xưng Danh Hiệu Nầy ?
Hòa-Thượng (the most venerable) dịch là "lực
sanh" nghĩa là nhờ đời sống tâm linh thanh tịnh của vị đó khiến
cho đạo lực của giới tử (người theo học) được phát sanh.
Hòa-Thượng còn có nghĩa là "thân giáo sư"
tức là thầy gần gũi nhất của mình để học hỏi, vì thế cũng có nghĩa
là "y học" tức là người mình nương tựa để học đạo. Hòa-Thượng
còn là người chứng minh tối cao trong hội đồng truyền giới Tỳ-kheo, Bồ-Tát...
Những Tăng sĩ nào mới được tôn xưng là
Hòa-Thượng ?
Trong Phật giáo vốn không có giai cấp, tuy
nhiên, trong khi truyền giới để làm tăng sự trang nghiêm cho buổi lễ cũng
như gây được cho người thọ giới một ấn tượng tốt và đặc biệt
khó quên trong đời tu học nên phải cung thỉnh một vị Hòa-Thượng lớn
tuổi chứng minh. Hòa-Thượng phải là người đã thọ giới Tỳ-kheo và
có an cư kiết hạ từ 20 năm trở lên. Những tăng sĩ tuy đã thọ giới Tỳ-kheo,
nhưng không sống theo tăng đoàn tu học mỗi năm 3 tháng vào mùa mưa để
tinh chuyên giới hạnh thì không đủ tư cách để tôn xưng Hòa-Thượng. Hòa-Thượng
khác với Thượng-Tọa ở tuổi đạo và tuổi đời, vì nhiều kinh nghiệm
tu hành và giới đức tinh nghiêm hơn.
Ở trong một xã hội vô trật tự thì giới nhà
tu cũng nảy sinh ra một hiện tượng mới là những Hòa-Thượng trông có vẽ
luộm thuộm thiếu tư cách, thiếu tác phong đạo đức như phá giới và tự
xưng là bậc thánh có thể làm được phép nầy phép nọ để làm thay đổi
dược hoàn cảnh hay các hiện tượng thiên nhiên. Người tăng sĩ chân
chánh tu hành không cần đề cao về mình như thế. Giá trị đạo đức và
tư cách sống là thước đo đúng đắn nhất về một người. Kẻ giả
danh đạo đức và cao ngạo, tự tỏ ra khinh khi mọi người để lừa bịp
sự dễ tin của quần chúng, sẽ bị gán cho nhiều danh từ không mấy tốt
đẹp.
Người Phật tử chân chánh phải phân biệt rõ
ràng để khỏi nhầm lẫn khi xưng hô các thầy lãnh đạo tinh thần một cách
quá đáng.
3.- Đại Đức Phải Đủ Những
Đức Tánh Gì ?
Đại-Đức (Reverend, Reverand) là người xuất gia
tu hành đã thọ đủ 250 giới Tỳ-kheo và tuổi từ 20 trở lên. Ở trong đạo,
vị ấy là người đã thông suốt được kinh luật, có khả năng ứng dụng
Phật Pháp trong quần chúng một cách linh động.
Như vậy, danh từ Đại-Đức chỉ người có cả
phước lẫn huệ dầy đủ, xứng đáng nhận lãnh vai trò lãnh đạo tinh thần
cho hàng Phật tử tại gia.
Khi Phật còn tại thế, các Tỳ-kheo cũng xưng Phật
là Đại-Đức Thế-Tôn hay bạch Đại-Đức ... mỗi khi có việc cần thưa
thỉnh. Vì danh từ Đại-Đức Thế-Tôn dùng để gọi chung cho các đức Phật
về đời quá khứ, nên cũng còn có nghĩa là mẫu người đáng kính và đáng
tôn trọng. Đại-Đức dùng để tôn xưng các giáo sĩ, các nữ tu thuộc
các tôn giáo khác mà không riêng gì Phật giáo. Ví dụ : La Reverende Mère
superieure : Đức Mẹ bề trên.
Với ý nghĩa cao đẹp đó, nếu những tu sĩ tuổi
đời tuy cao, nhưng khi vào đạo chưa thọ giới Tỳ-kheo cũng như chưa có
khả năng thâm hiểu về đạo Phật thì chưa đủ tư cách Đại-Đức được.
Tuy nhiên, việc tôn xưng còn tùy thói quen ở mỗi nơi như ở một số những
ngôi chùa không mấy đông Tăng chúng, thầy Bổn-Sư thu nhận đệ tử xuất
gia có khả năng về trình độ học thức ngoài đời, đã lớn tuổi có
tác phong đứng đắn cũng được bổn đạo chùa tôn kính vào hàng Đại-Đức.
Thật ra cách xưng hô trong Phật giáo không mang
tính cách chức vị, quyền uy như các phẩm trật ngoài đời. Trong Phật giáo
còn một tính cách hết sức dân chủ là chúng Tỳ-kheo tự tôn trọng nhau
về tuổi đạo hơn tuổi đời, như trường hợp vị lớn tuổi hơn nhưng
thọ giới Tỳ-kheo sau người nhỏ tuổi cũng phải kính vị nhỏ tuổi kia
như người đi trước, bậc đàn anh.
Khi dùng cách xưng hô đối với nhà lãnh đạo
tinh thần các tôn giáo, chúng ta phải thật thận trọng để khỏi phải hạ
mình cách quá đáng và nhiều khi tạo cho người đối tượng một vách ngăn
cách biệt !
4.- Hãy Phân Biệt Chú Tiểu, Điệu
Hoặc Ông Đạo ?
Chú tiểu, điệu hay ông đạo là những danh từ
mà người tín đồ Phật tử thường dùng để gọi những Tăng sinh mới
xuất gia ở trong giai đoạn bắt đầu thực hành Phật giáo.
Miền Bắc Trung Nam có một số từ khác biệt
nhau, dĩ nhiên chỉ có người trong cùng một miền mới biết rành mà thôi.
Chú tiểu là danh từ người miền Bắc hay dùng để gọi các chú bé mới
xuất gia vào chùa tu, đầu đã cạo tóc nhưng còn chừa lại một chỏm
tóc dài ở phía trước, còn điệu là tiếng của người miền Trung để gọi
chú bé vừa mới tập sự học Phật. Trong khi đó, ông đạo là tiếng được
dùng ở miền Nam cũng chỉ cho người mới xuất gia vào ở chùa. Chú tiểu
là thời kỳ chưa phải làm việc gì nặng nhọc cả, ngay cả giới luật cũng
chỉ có mới thọ 5 giới như người tu tại gia mà thôi. Trường hợp các
em bé ở chùa lâu năm, cho tới khi thọ giới Sa-di, tín đồ bổn đạo vẫn
gọi là điệu hoặc chú tiểu như thường, vì quen miệng và thân thiết chăng
! Ở miền Bắc còn có danh từ "Sư Bác" để gọi các tăng sinh đã
thọ giới Sa-di và đã lớn tuổi. Thay vì gọi Đại-Đức hay Thầy, còn
danh từ ông Đạo của người miền Nam gọi trong thời kỳ mà thầy tăng còn
tuổi nhỏ, mới thọ 10 giới Sa-di thật đàng hoàng và đúng nghĩa.
Một vài khác biệt về cách xưng hô đối với
người tăng sĩ trẻ tuổi là như vậy, trên thực tế ngày nay mọi người
đều hiểu được ý nghĩa và cả cách dùng nữa.
Biết được thói quen của mỗi nơi, chúng ta mới
dùng đúng cách và chính xác được những danh từ trong Phật giáo rất phổ
thông nầy.
Cả ba cách xưng hô trên cũng đều nằm trong cùng
một ý nghĩa, do thói quen của mỗi nơi mà tên gọi có khác.
5.- Đệ Tử Là Gì ?
Đệ tử là người học trò, người nhỏ tuổi
hơn tự xưng với người lớn tuổi và những bậc thầy dẫn đạo có đủ
tư cách chỉ dẫn cho mọi việc để học hỏi.
Trong Phật giáo, danh từ đệ tử được dùng chỉ
tất cả mọi người theo học hỏi giáo lý giải thoát và tôn xưng đức
Phật là bậc thầy sáng suốt, kẻ chỉ đạo đúng đắn để nương theo.
Ở các bài Sám Nguyện thường hay mở đầu bằng tiếng đệ tử như :
Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội ác bởi lầm mê.
Đắng trong sanh tử đã bao lần,
Nay đến trước đài vô thượng giác ...
Hoặc : Đệ tử hôm nay gặp ngày Khánh-Đản,
hay : Đệ tử kính lạy đức Phật Thích-Ca v.v...
Như thế, chữ đệ tử mang một ý nghĩa bao quát
và có hàm ý rằng y như pháp mà thành tựu được việc tu hành của kẻ
khao khát muốn tìm về chân lý của Đức Phật. Đức Phật có đủ mọi
đức tính : Từ bi, bình đẳng, bao dung ... đáng để cho chúng ta nương
theo học hỏi, cũng như người học trò quý mến thầy và tự nhận mình
là đệ tử. Không những trong phạm vi Phật giáo tiếng đệ tử được dùng
mà ngay trong các lãnh vực sinh hoặc ngoài đời cũng vẫn áp dụng nói một
cách tự nhiên.
Các nhà mô phạm, những bậc thánh nhân, các
giáo chủ của tôn giáo là thước đo giá trị đạo đức cho đời sống
tinh thần đúng đắn nhất mà người theo học là kẻ đến sau, như là học
trò vậy.
6.- Nam Mô Có Nghĩa Là Gì ? Và Tại
Sao Trước Danh Hiệu Phật VÀ Bồ Tát Đều Có Tiếng Nầy ?
Nam-mô vốn là tiếng Phạn đã quen dùng trong giới
Phật tử và trở nên phổ thông nên ít có ai để ý tìm hiểu ý nghĩa. Mỗi
khi chúng ta niệm chữ Nam-mô, thiết tưởng nên biết rõ để việc làm nầy
thêm phần lợi ích thiết thực.
Nam-mô tiếng Trung-Hoa dịch ra thành sáu nghĩa
như : Cứu ngã, độ ngã, quy mạng, đảnh lễ, sám hối, độ thoát ; tức
là chúng ta đang sa ngã vào cõi đời trần tục phải cầu chư Phật, Bồ-Tát
cứu độ ra khỏi cảnh khổ, sự mê lầm để nhờ đó ta nương về với
các đấng giác ngộ, học theo hạnh từ bi và nguyện với lòng thành lễ lạy
cầu được phước đức cho chính ta và những người liên hệ. Vì tin tưởng
vào sự nhiệm mầu ấy, chúng ta thành kính, nguyện đem lòng thành hướng
về với chư Phật, Bồ-Tát để học hỏi, nương tựa theo những lời giáo
huấn sáng suốt làm kim chỉ nam cho việc tu hành hầu xây dựng một đời
sống tốt đẹp. Do đó, khi đi đường, lúc vào chùa gặp một vị Tăng
Ni, chúng ta thường chắp tay niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật. Người đối diện
cũng đáp lễ lại bằng câu niệm ấy. Cách chào hỏi của người Phật tử,
thay vì bắt tay như người Tây-phương mỗi khi gặp nhau, lại dùng câu niệm
Phật, thật đầy đủ ý nghĩa.
Nói khác hơn, Nam-mô là tiếng xưng hô dùng cho
Phật, Bồ-Tát và các bậc tu hành đã giác ngộ để tỏ ra cung kính, tán
dương mà người học Phật luôn luôn có tâm niệm muốn noi dấu chân Phật.
7.- Cho Biết Tứ Hoằng Thệ Nguyện
Là Gì ?
Tứ hoằng thệ nguyện là bốn lời phát nguyện
rộng lớn của người Phật tử để cầu cho tất cả chúng sanh đạt đến
đạo Vô-thượng Bồ-đề.
Bốn điều thệ nguyện đó như sau :
- Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ : Chúng sanh
có muôn loài, xin thề nguyện cứu độ tất cả.
- Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn : Phiền
não không cùng tận xin nguyện đều dứt sạch.
- Pháp môn vô lượng thệ nguyện học : Các
pháp môn có nhiều và sâu rộng như biển cả mênh mông nhưng người tu học
nguyện học hỏi để đạt tình thấu lý.
- Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành : Cầu
mong tu hành đạt đến giác ngộ, giải thoát an vui.
Đây là phần tụng trước khi hồi hướng (trong
các khóa lễ kỳ an hay kỳ siêu) và người hành trì nguyện đem tất cả
phước lành đã tạo được, hướng về tất cả nhân loại chúng sanh,
mong cho đều được hạnh phúc, an vui. Xin gợi ý, bốn lời phát nguyện
nên dịch sang vần để dễ dàng thuộc và nhớn lúc tụng đọc :
Chúng sanh độ khắp xa gần
Não phiền rũ sạch lòng trần nhẹ lâng
Pháp mầu số lượng chuyên tâm
Đạo Phật vô thượng thậm thâm nguyện
thành.
Kinh điển của Phật giáo rất nhiều không kể
xiết, mỗi lời, mỗi câu đều mang một ý nghĩa rất sâu sắc. Khi đã hiểu
được trọng vẹn mạch ý của cả bài, lúc tụng đọc chúng ta mới thấy
được lý thú.
8.- Thất Chúng Trong Phật Giáo
Là Thế Nào ?
Đệ tử của Phật gồm 2 thành phần là xuất
gia và tại gia mà trong đó còn chia ra thành bảy chúng khác nhau.
Đoàn thể xuất gia gồm có 5 chúng và Phật tử
tại gia có 2 chúng như sau :
Xuất gia gồm : Sa-di (nam giới thọ 10 giới căn
bản) Sa-di-ni (nữ giới), Tỳ-kheo (nam giới thọ 250 giới và phải trên 20
tuổi), Tỳ-kheo-ni (nữ giới 348 giới) và Thức-xoa-ma-na (nữ giới xuất
gia phải thọ 6 giới Thức-xoa trước khi thọ giới Tỳ-kheo-ni). Còn thành
phần của Phật tử tại gia có 2 chúng là Ưu-bà-tắc hay Cận-sự-nam, tức
nam giới Phật tử thực hành Phật giáo tại gia và Ưu-bà-di hay Cận-sự-nữ
hoặc thiện nữ nhơn, để chỉ cho người Phật tử đã quy y Tam-Bảo và
giữ năm giới cấm. Tuy nhiên, gọi 6 chúng đệ tử Phật cũng không sai vì
giới Thức-xoa-ma-na chỉ dự bị cho giới Tỳ-kheo của bên Ni mà thôi. Dù
tu tại gia hay xuất gia, người Phật tử vẫn làm được việc Phật sự.
Hai thành phần đệ tử của Phật bày hợp nhau lại để chung sức chung lòng
phát triển ngôi nhà Phật giáo. Một đời vua Asoka của Ấn-Độ sau Phật
Niết-Bàn 300 năm, vua Trần-Thánh-Tông của Việt-Nam ... là những vị Bồ-Tát
hiện thân cư sĩ tu tại gia đã tạo nên cho Phật giáo những công trình thật
vĩ đại, đáng ghi nhớ đời đời. Do đó, việc duy trì và phát triển Phật
giáo là vai trò của người xuất gia và bổn phận của người Phật tử tại
gia.
Người tu sĩ hay cư sĩ Phật tử cũng đều là
đệ tử của Phật nên việc hợp lực nhau để làm việc Phật sự thì
không còn lãnh vực tại gia hay xuất gia mà tùy thuộc vào khả năng, thiện
chí và phương tiện thực hiện.
9.- Hãy Giải Thích Ý Nghĩa Của
Cổng Tam Quan Chùa ?
Ở những ngôi chùa cổ phía trước chánh điện,
nơi mặt tiền, cách một cái sân, nơi lối ra vào có một cửa chính chia
ra làm 3 lối đi gọi là cửa tam quan.
Tam quan là 3 cửa hay 3 lối đi dẫn vào phía bên
trong chùa. Chính giữa rộng, hai lối đi hai bên thường hẹp, chỉ đủ cho
một người vào lọt. Cổng chỉnh thường đóng kín lại, mỗi khi có lễ
lạc gì lớn mới được mở ra để cho khách vào chùa chiêm bái.
Ngày xưa, những ngôi quốc tự do nhà nước lập
ra, cổng chính dành riêng cho các quan chức cao và vua chúa mỗi khi đến lễ
Phật, còn dân chúng và hàng quan lại cấp nhỏ chỉ được phép vào chùa
bằng lối đi hai bên cổng mà thôi.
Những ngôi chùa lớn có lối kiến trúc cổng
tam quan cũng đồ sộ để cho được cân xứng, mỹ thuật. Những ngày thường
nhật cửa tam quan thường đóng và chỉ mở một cổng bên phía tay phải
để cho khách vào ra lễ Phật, ngoạn cảnh. Cổng chùa không lập quá xa với
chánh điện thờ Phật, nghĩa là tùy theo phạm vi rộng hẹp của mỗi nơi
và cổng tam quan chỉ cách điện Phật một cái sân thôi. Những ngôi chùa
ở trên núi cao, cũng có lối kiến trúc cổng tam quan gần với chánh điện
mà không quá xa, cách biệt ở dưới chân núi.
Ngày nay, việc xây chùa và cổng chùa không còn
giữ được theo lối kiến trúc thuần túy mỹ thuật cổ điển nữa mà đã
bị pha trộn theo đủ lối, đủ kiểu Âu Á lẫn lộn. Do đó danh từ cổng
tam quan không còn mấy thông dụng cũng như ít có người biết đến, như
trường hợp những ngôi chùa trong các đô thị theo hình thức mới nầy.
Nếp sinh hoạt tăng viện thay đổi cho phù hợp
với thời đại, nhưng hình thức cổ điển của cổng chùa và mái chùa tượng
trưng cho dân tộc tính cần được duy trì thì hay hơn cả.
10.- Mười Hiệu Xưng Tán
Đức Phật Gồm Có Những gì ?
Phật thường đầy đủ phước đức, tướng mạo
trang nghiêm với 80 vẽ đẹp và 32 tướng tốt, xứng đáng là bậc thầy của
nhân loại. Mười hiệu xưng tán đức Phật là : 1- Như-Lai, 2- Ứng-cúng,
3- Chánh-biến-tri, 4- Minh-hạnh-túc, 5- Thiện-thệ, 6- Thế-gian-giải, 7-
Vô-thượng-sĩ, 8- Điều-ngự-trượng-phu, 9- Thiên-nhơn-sư, 10- Phật, Thế-Tôn.
Tại sao phải dùng 10 hiệu khác nhau để xưng tán
đức Phật ? Đức Phật ra đời vì muốn chỉ bày cho chúng sanh tìm thấy
Phật tánh của mình do công phu tu tập để đạt đến giác ngộ hoàn toàn
như Phật. Như hoa sen trong bùn lầy mà vẫn có mùi thơm ngào ngạt. Đức
Phật cũng như thế, dù ở trong cõi đời khổ đau mà vẫn giác ngộ nên
đáng ca tụng là bậc thầy của cả trời và người. Chữ Như-Lai có nghĩa
là thừa cái đạo như thật để chứng quả Chánh-đẳng Chánh-giác nên gọi
là Như-Lai. Ứng-cúng tiếng Phạn là A-la-ha tức là thọ nhận của trời
và của người cúng dường. Chánh-biến-tri là giác ngộ. Minh-hạnh-túc là
do tu tập ở túc mạng nhiều đời mà tỏ ngộ. Thiện-thệ dịch là
Tu-già-đa tức là lấy trí huệ sáng suốt chứng được Niết-Bàn. Thế-gian-giải
dịch là Lộ-già-bị tức giải bày rõ về pháp "Hữu" và
"Vô" ở thế gian. Vô-thượng-sĩ, tiếng Phạn gọi là A-nậu-đa-la
tức giải thoát mọi ràng buộc. Điều-ngự-trượng-phu : Điều phục mọi
ý niệm xấu ác dũng mãnh không sợ sệt. Vì Đức Phật là bậc thầy soi
đường cho cả trời và người và hiệu sau cùng để tán tụng bậc trí
giác toàn vẹn được đời chiêm ngưỡng.
Ở bài kinh sám hối có 10 hiệu Như-Lai để tán
dương công đức tu hành của Đức Phật và người học Phật nguyện học
hành theo các công đức lành ấy.
11.- Lục Độ Là Những GÌ ?
Lục độ hay 6 pháp độ được người qua khỏi
bể sanh tử mà hàng Bồ-Tát chọn làm pháp môn tu tập là :
- Bố thí : Ban cho kẻ khác niềm an lạc. Không cứ
cho đồ vật mới gọi cho mà có thể cho cả lời nói, cử chỉ để an ủi
người cô thế, tức là ta đã thực hiện được hạnh bố thí rồi.
- Trì giới : Giữ gìn giới cấm, trước là để
răn mình làm điều phi pháp, sau để làm gương cho người khác noi
theo.
- Nhẫn nhục : Nhịn chịu mọi nghịch cảnh
không có nghĩa là người dại dột mà để thể hiện sức cố gắng của
người mà tâm địa đã đạt được một trình độ cao mới thực hiện nổi.
- Tinh tấn : Tiến tới không lùi sụt hay ngừng
nghỉ khi bắt tay vào làm một việc gì khó khăn.
- Thiền định : Dùng con mắt quan sát, suy tư
trong yên tịnh và lắng lòng để gạn lộc phiền não nơi tâm.
- Trí huệ : Là sự nhận thức đúng, suy đoán
lanh lợi, như con dao sắt cạnh của mỗi người dùng cắt mọi ràng buộc,
chi phối trong đời sống nội tâm. Trí huệ cũng còn là sự nghiệp hành
đạo của người tu hành (duy huệ thị nghiệp).
Người nào thực hành đúng theo phép 6 độ một
cách trọn vẹn tức là thể hiện được phần não hạnh Bồ-tát trong đời
nầy.
12.- Tứ Vô Lượng Tâm Là Gì
?
Bồ-Tát tu hành pháp bố thí trong 6 độ (bố-thí,
trì-giới, tinh-tấn, nhẫn-nhục, thiền-định, trí-huệ) và Tứ-vô-lượng-tâm
là một trong muôn hạnh lành.
Tứ-vô-lượng-tâm là tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ,
tâm-xả, tức là lòng quảng đại, thương xót, vui thuận và tha thứ là bốn
yếu tố cần thiết làm tư lương cho việc tu tập tâm từ bi thường gắn
liền với nhau, nhưng trong ý nghĩ có sự khác biệt rất xa. Vì cái tâm rộng
khắp không lường có thể làm Phật, Thánh Hiền, ma quỷ cũng từ đó
phát sanh. Để diễn tả cái tâm, cổ nhân có tác bốn câu thơ như vầy :
Tam điểm như tinh tượng
Hoành câu tợ nguyệt tà
Phi mao tùng thử đắc
Tác Phật giả do tha.
Dịch :
Ba chấm như vì sao
Cong vòng vành trăng khuyết
Lông sừng từ đây đội
Làm Phật cũng do tâm.
Tâm tạo ra sơn hà đại địa, thế giới muôn
loài, cho nên người tu cần phải vận dụng hết lòng ngay thật của mình
vào việc tu niệm để giúp đỡ cho kẻ khác. Đây là hạnh nguyện độ
sanh mà hàng Bồ-tát thường xả thân làm việc thiện.
Bốn thứ tâm lành rộng lớn chỉ có được khi
nào người Phật tử biết hy sinh cả thân mạng để làm việc lợi ích
cho kẻ khác mới có được.
13.- Chùa Và Tự Viện Khác Nhau
Ra Sao ?
Chùa là tiếng rất phổ thông ai cũng biết cả.
Chùa do chữ Tự (pagoda hay temple) có từ thế kỷ thứ 2 thứ 3 Tây-lịch.
Các ngài Ca-Diếp Ma-Đằng và Trúc-Pháp-Lan từ Ấn-Độ qua Giao-Châu ở Hồng-Lô
tự dịch kinh Tượng-Đầu-Báo-Nghiệp Sai-Biệt và kinh Tứ-Thập-Nhị-Chương.
Chùa và Tự Viện khác nhau ra sao ? Cho tới nay cả
2 danh từ đều được dùng lẫn lộn, ít có ai phân biệt được chỗ khác
nhau. Tuy nhiên, hiểu theo văn hiện đại người ta ưa dùng chữ Tự Viện hơn
Chùa, nhất là trên các văn thơ về phương diện ngoại giao. Chữ Tự Viện
ngoài ra, còn hàm ý rằng nơi rộng rãi khoảng mát, do một Tăng sĩ trẻ tuổi
trụ trì. Nói chung, Chùa hay Tự Viện đều chỉ có một người trông coi.
Vị nầy là Viện-chủ, tức là người giữ mối giềng thể thống của tông
môn mà duy trì mạng mạch của Phật giáo cho các thế hệ kế tiếp.
Chùa đối với người Việt-Nam có tín ngưỡng
là nơi nương tựa tinh thần cần thiết không thể thiếu được. Nó cũng
như chất dinh dưỡng cho các mầm non của các lớp tuổi trẻ mai sau. Chùa
vì thế rất quen thuộc đối với người dân quê, như gắn liền vào đời
sống của họ. Trong khi đó, ở thành thị được nhắc tới danh từ Tự
Viện hơn chùa. Nói một cách khác, theo thói quen người ta dùng Chùa hay Tự
Viện, nhưng chữ Tự Viện có phần văn vẽ hơn nhiều.
Chùa là hình ảnh quen thuộc khó quên trong đời
người. Dù có đi đâu xa, ngôi chùa làng vẫn như còn ngự trị nơi tâm tư
của người lữ thứ. Do ý nghĩa nầy, các nhà thơ, nhà văn không tiếc lời
để diễn tả nỗi niềm cảm mến cảnh chùa của mình thật đậm đà và
chan chứa tình nước tình quê. Đây ta hãy nghe nhà thơ Nguyễn-Bính bộc lộ
ý nghĩ chân thành nầy qua mấy câu thơ sau :
Quê tôi có gió bốn mùa,
Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm.
Sương khuya, gió sớm, trăng rằm,
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi.
Mai nầy tôi bỏ quê tôi,
Bỏ trăng, bỏ gió chao ôi bỏ chùa !
Chùa hay Tự Viện là nơi công cộng cho tín đồ
làm chỗ sinh hoạt vào những dịp lễ vía hay sám hối và hội họp v.v...
Như vậy, nơi nào có vị Sư trụ trì, có tổ chức đoàn thể như gia đình
Phật tử, ban-hộ-niệm, ban-tương-tế xã-hội ... đều được gọi là
chùa cả.
Người Việt hải ngoại ngày nay đều lập ra các
hội Việt kiều Phật tử, phần nhiều lại thiếu thầy lãnh đạo, nhưng
các hội nầy là bước đầu trong việc lập các ngôi chùa trong tương lai.
14.- Thiền Thất Hay Thảo Am Là
Gì ?
Phật giáo Thiền-tông rất quen thuộc với danh từ
thiền thất hay thảo am. Vậy, ý nghĩa của nó là gì ?
Thiền thất là nhà thiền nơi mà vị Tăng sĩ lập
ra để tu tập, nhưng lấy việc tọa thiền làm chánh. Thiền thất vì thế
không lớn, chỉ vừa đủ một người tu tập thôi. Bên trong thiền thất,
thiền sinh thường không trang hoàng gì nhiều, ngoài những hình ảnh và
cách tu thiền như mười bức họa chăn trâu (thập mục ngưu đồ), hình Tổ
Bồ-Đề Đạt-Ma, hình con trâu đen hoặc trắng có một người dắt trong
tư thế đã hàng phục được trâu, tượng trưng cho tâm hành giả cũng
được chế ngự mọi phiền não do công tu luyện mà thành. Bên ngoài thiền
thất thường có sân rộng với cây cảnh mát mẻ, nhất là vườn có trồng
hoa cho bông đơm nở tốt tươi để làm trợ duyên cho việc tu thiền.
Thảo am không là danh từ Phật giáo thuần túy,
vì những nhà thơ văn muốn có một đời sống biệt lập với mọi người,
cũng như cần sự yên tỉnh để làm việc viết lách, đọc sách nên lập
ra một túp lều tranh nho nhỏ xinh xắn để sinh hoạt trong đó. Thảo am vì
thế thường không rộng mà chỉ đủ cho một người ở để việc sinh hoạt
về lý trí được yên tỉnh, không bị hoàn cảnh chung quanh chi phối.
Ngày nay chúng ta không tìm thấy thảo am nào ở
trong xã hội văn minh vật chất nầy cả, một phần do cuộc sống hiện tại
đã bị nhiễm độc bởi tiếng động cơ, hơi độc của chất hóa học
phóng ra khắp nơi trong vũ trụ, một phần tâm thức con người cũng đã bị
mất thăng bằng giữa đời sống vật chất và tinh thần, nên ít ai nghĩ tới
việc tìm về nơi núi sâu rừng thẳm để luyện trí chăng ? Song song với
danh từ thảo am còn có "cốc" cũng giống như thiền thất, do các
thiền sinh lập để làm nơi tham thiền, biện đạo.
Thiền thất, thảo am, cốc là những nơi dành
riêng cho người nào có một tâm thức sáng ngời và muốn sống gần gũi với
thiên nhiên để phát triển tinh thần trong phạm vi tu tập rất thích hợp.
15.- Chánh Điện và Đại Hùng
Bảo Điện Khác Nhau Như Thế Nào ?
Chánh điện (sanctuary) là nơi tôn trí, thờ phụng
hình tượng Phật, Bồ-Tát thường được xây ở gian giữa của ngôi
chùa.
Khách từ ngoài vào cổng chính bước vào chùa
liền thấy ngay được hình ảnh đức Phật tọa trên tòa sen trong tư thế
bán già hay kiết già đang nhìn ra hướng sân chùa. Chánh điện chữ Hán đã
được dùng theo nghĩa tiếng Việt tức là điện thờ Phật. Nếu gọi một
cách thành kính trang nghiêm là Đại-hùng-bảo-điện, điện báu thờ đức
đại hùng, tức là đức Phật có đại-hùng, đại-lực, và đại-từ-bi.
Chữ bảo là báu như ngọc ngà châu báu, trong ý nghĩa của 3 ngôi báu : Phật,
Pháp, Tăng, tức là Tam-Bảo được thờ trong chùa vậy. Mỗi khi ở ngoài
vào lễ Phật, ta gọi là lên chánh điện, ít người gọi điện đại hùng,
vì danh từ chỉ dùng để khắc bản trước điện thờ Phật. Trong ý nghĩa
đó, người Nhật-Bản không gọi điện thờ Phật là chánh điện mà gọi
là Hondo (bổn đường). Hondo có nghĩa là gian nhà chánh giữa, cũng đồng
nghĩa với chữ chánh, trong nghĩa của chữ chánh điện vậy.
Chánh điện có lối trang trí như thế nào còn
tùy thuộc vào khả năng tài chánh của mỗi ngôi chùa và theo khiếu thẩm
mỹ của người lập nên nữa. Có nhiều ngôi chánh điện chúng ta mới bước
vào đã cảm thấy tâm trí nhẹ nhàng thư thái như trút bớt được những
phiền não ưu tư của cuộc sống phức tạp ngoài đời. Việc tôn trí
chánh điện cho được trang nghiêm cũng thu hút nhiều người quy về với
chánh pháp của Phật Tổ ... Trong điện thờ Phật thật đơn giản và chỉ
một tôn tượng của đức Thích-Ca, hay Bồ-Tát Quán-Thế-Âm hoặc tượng
Phật A-Di-Đà mà thôi.
Người hành trì Phật giáo nhờ sự mới thấu
đạt lý, cho nên ngôi chánh điện phải thật gọn gàng, nhưng không kém phần
trang nghiêm và mỹ thuật.
16.- Bát Công Đức Thủy Là Thế
Nào ?
Cảnh giới Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà an
vui thanh tịnh mà ở đó, theo kinh A-Di-Đà, bốn mùa cây cối xanh tươi và
nhạc trời tấu khúc, chim hót líu lo vang lừng suốt ngày đêm, có ao thất
bảo, trong ao chứa nước đủ 8 thứ công đức. Nước 8 thứ công đức đó
là :
1.- Nước lóng trong
2.- Lạnh mát không cáu bợn
3.- Vị ngọt thơm ngon
4.- Uống vào tâm hồn nhẹ nhàng khoan khoái
5.- Thấm nhuần
6.- An hòa
7.- Nước uống vào trừ được đói khát
8.- Nước uống vào các căn lành đều tăng trưởng.
Một đoạn trong kinh Di-Đà nói về nước tám
công đức như sau : "Hữu thất bảo trì, bát công đức thủy sung mãn
kỳ trung trì để thuần dĩ : Kim sa bố địa, tứ biên giai đạo kim ngân,
lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, nhi nghiêm sức chi ..."
(Có ao bảy báu với nước tám thứ công đức
đầy đủ. Trong đáy ao thuần toàn cát vàng trải ra. Mặt đất và quanh bốn
bên lát toàn vàng bạc, lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, ngọc mã-não để trang sức
cho cảnh Tịnh-độ ...)
Cõi Tịnh-độ do tâm tạo nên, vì thế, những
gì diễn tả trong kinh Di-Đà đều là điều có thật. Ngoài ra, con người
ở đó được sống lâu, không già, không bịnh, không chết. Món ăn, thức
uống của người ở cảnh giới Cực-Lạc toàn bằng thiền định mà được
no đủ vui say nên không cần tới thức ăn.
Ở đời, chúng ta gắng công tu hành cho tinh tấn
và niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà nhất tâm tới khi chết được sanh
vào thế giới Cực-Lạc là bi nguyện của đức Phật A-Di-Đà.
17.- Y Phục Thường Dùng Của
Tăng Sĩ Có Chia Ra Thứ Loại Nào Không ?
Trong Phật giáo không có giai cấp và chức vị
song giới hạnh và đạo đức được chú trọng tới nhiều hơn. Y phục
cũng chia ra làm 4 loại như sau :
* Áo dài 5 thân : Áo gồm 5 mãnh vải ráp lại
và có 3 hột nút cài chéo trước ngực từ cổ bên trải qua nách bên phải.
Loại áo dài nầy dùng cho các em bé mới tập sự xuất gia ở chùa và tuổi
từ 8-15 còn trong thời kỳ hành điệu (chú tiểu)
* Áo nhật bình : Áu mầu nâu hoặc lam mà trước
ngực có một mãnh vãi cắt thành hình chữ nhật có chiều dài từ ngang
vai xuống tới trên rốn độ vài phân (2cm) với bề dài 25cm x 10cm ngang.
Loài áo nầy dùng cho thầy nào đã thọ 10 giới, với số tuổi từ 16-20.
Đặc điểm là một hàng nút từ ngực xuống tới chân gồm 5 hoặc 7 hột.
* Áo tràng : Áo có tràng vắt ngang qua phía trước
ngực từ vai bên trái qua nách bên phải và 3 hột nút cài bên nách phía
tay phải. Các thầy Tỳ-kheo (Tăng đã thọ 250 giới) thường mặc loại áo
tràng khi đi đường và lúc giảng đạo.
Dù y phục có phân ra như thế, nhưng một số các
thầy lớn tuổi vẫn thích mặc áo nhật bình hơn, nhất là khi tiếp khách
và lúc làm việc trong chùa.
* Áo vạt hò : Loại nầy ngắn và trông giống
như áo bà ba của người nông dân Việt-Nam. Tuy hình thức có phần khác hơn
áo bà ba, vì áo của người thường có hàng nút thẳng từ cổ xuống giữa
bụng, trong khi đó áo vạt hò thường dài tới quá gối lại có hàng nút
nằm phía tay phải gần bên hông tay phải. Áo vạt hò ngắn gọn rất tiện
lợi lúc làm việc, khi nhổ cỏ, tưới hoa trong vườn chùa.
Đại loại về y phục của người tu sĩ Phật
giáo được phân ra như thế để chúng ta dễ nhận thức. Còn riêng về phẩm
phục lúc hành lễ lại có hình thức khác hơn nhiều.
18.- Y Phục Của Tăng Sĩ Về
Mầu Sắc Tại Sao Có Sự Khác Nhau ?
Y phục của hàng tăng sĩ mầu sắc tuy có nhiều
song mầu thông dụng nhất vẫn là mầu vàng cam. Chính đức Phật Thích-Ca
vẫn thường mặc chiếc y vàng để đi du thuyết hóa độ chúng sanh khi
Ngài còn tại thế.
Mầu sắc y phục được thay đổi theo mỗi quốc
gia để được phù hợp với phong tục, địa lý của từng nơi, do đó người
Tăng sĩ Phật giáo không hẳn bắt buộc phải theo đúng một khuôn mẫu cố
định nào. Tuy nhiên, trên hình thức chúng ta phân biệt được hai hạng tu
sĩ : Quấn y vàng khi họ đi đường và một số khác mặc y phục mầu đà
hoặc mầu lam. Khi ra đường đắp y mầu vàng là hình thức của người tu
theo phái nguyên thủy Phật giáo hay phái Therevada. Như ở các nước Tích-Lan,
Thái-Lan, Cambodia, Lào một số chư Tăng thực hành Phật giáo theo hạnh khất
thực nầy. Trong khi đó, mầu lam hay mầu khói hương lại rất thông dụng
với người tu hành các nước như Trung-Quốc, Triều-Tiên, Việt-Nam. Phật
giáo Nhật-Bản tùy theo mỗi tông phái và cấp bậc của họ mà mầu sắc
y phục cũng thay đổi. Theo phái Thiền-tông, mầu đem rất thông dụng, và
các mầu vàng, tím, xanh lá mạ cũng dùng cho y phục lúc hành lễ.
Câu nói : "Chiếc áo không làm nên thầy
tu" thì mầu sắc của y phục cũng chỉ là trên mặt hình thức và
thói quen của mỗi dân tộc.
Việc quan trọng và cần thiết đối với người
học Phật là nghiên cứu giáo điển để cầu đạt ngộ chân lý, còn
hình thức chỉ là sự tướng mà thôi.
19.- Phẩm Phục Của Tăng
Sĩ Phật Giáo Ra Sao ?
Phẩm phục là áo dùng khi hành lễ và người
Tăng sĩ gọi là chiếc y và cái áo hậu (áo mặc trong).
Có 3 loại y như sau :
- Y năm điều : Vải may y cắt thành từng ô ráp
lại, mỗi ô hình chữ nhật dài và ngắn xen kẻ nhau trên toàn thể chiếc
y chia thành 5 đường dọc và 2 đường ngang (chữ nhật dài 40 cm x 20 cm,
khung chữ nhật ngắn 30 cm x 20 cm).
- Y bảy điều : Trên toàn thể chiếc y chia
thành bảy phần dọc và 3 phần vải cắt ngang 2 khung dài 1 khung ngắn. Tiếng
Phạn gọi là Uất-đa-la-tăng và tiếng Trung-Hoa dịch là Thượng-trước-y
: Cái y ở ngoài và mặc lúc làm lễ trong chùa.
- Y chín điều : Gồm 9 khung dọc và 3 khung ngang
với 2 mãnh hình chữ nhật dài liền nhau rồi tiếp theo một mãnh ngắn
trên toàn thể chiếc y, gọi đây là Tăng-già-lê cũng dùng trong việc lễ
bái, khi đi đường hoặc các cuộc gặp gỡ quan trọng. Ngoài 3 loại phẩm
phục, người Tăng sĩ còn 2 loại y phục nữa là y 12 điều và y 25 điều.
Y 9 điều gọi là hạ phẩm của đại y, y 12 điều là trung phẩm và y 25
điều là đại phẩm của đại y. Y 25 điều hay y bách nạp gồm có 100
mãnh vải khác màu sắc kết lại mà thành. Người Tăng sĩ coi chiếc y như
mạng sống, vì y pháp bất ly thân. Do đó, lúc đi xa, khi có công việc cần
cấp họ đều mang y theo bên mình để tùy cơ ứng pháp, Vì Phật pháp bất
ly thế gian pháp.
Chiếc y là ruộng phước đức để hàng Phật tử
gieo trồng vào mãnh vườn của ngôi nhà Phật giáo, nên người mang y không
thể không cẩn trọng giữ gìn.
20.- Tăng Già Có Phải Là Tăng
Sĩ Lớn Tuổi Không ?
Tăng-già không có nghĩa là các vị tu hành đã lớn
tuổi như có một số người giải thích. Danh từ Tăng-già, chư Tăng hay chúng
Tăng chỉ một đoàn thể hòa hợp từ 4 thầy Tỳ-kheo trở lên mới gọi
được là Tăng-già.
Tăng-già còn dùng chỉ các tu sĩ Phật giáo có học
thức, đạo đức và giữ gìn giới luật của Phật Tổ được thanh tịnh,
trọn vẹn không sái phạm. Chư Tăng sống chung nhau trong cùng một tự viện
có sự hòa hợp nhường nhịn nhau từ lời nói, ý nghĩ, hành động, nhờ
đó có thể giải quyết được mọi tranh chấp, cải vả ... vô ích để cùng
nhau răn nhắc tu hành giới đức trang nghiêm, ngỏ hầu thực hành Phật
giáo một cách đầy đủ theo phương pháp khoa học và sau đem áp dụng
giáo lý vào đời sống xã hội. Những Tăng sĩ ưa tranh chấp, ngã mạn, tự
cao không còn đủ tư cách xứng đáng để gọi là Tăng-già được nữa, vì
chính bản thân các Tỳ-kheo ấy đã không có sự hòa hợp chung với các bằng
hữu đồng tu khác thì việc hòa mình của họ với tín đồ khó thành tựu
được.
Ngoài ra Tăng-già không có nghĩa hòa hợp trong phạm
vi đoàn thể chư Tăng mà nó còn chỉ cho cái cung cách gương mẫu, đạo đức
nơi họ đối với hàng Phật tử tại gia nữa. Có người lấy làm thắc mắc
rằng một thầy Tỳ-kheo trụ trì trong một ngôi chùa thì không đủ tư cách
để gọi được Tăng-già chăng ? Như đã nói ở trên, nhưng riêng cá nhân
vị ấy cũng đủ tác phong đạo đức để cho hàng Phật tử cung kính, học
hỏi. Nếu trong trường hợp chỉ có một Tăng sĩ độc nhất thì chỉ gọi
được Tăng sĩ hoặc tu sĩ mà không thể xưng Tăng-già được, vì chưa đủ
số chúng Tăng trong phép hòa hợp.
Nơi nào có chư Tăng cùng nhau tu học và giữ
gìn giới hạnh thật trang nghiêm, nơi đó chứng tỏ đạo Phật được
hưng thịnh và giáo pháp Phật-Đà được xiển dương sâu rộng trong quần
chúng để nhiều người có cơ hội tu học.
21.- La Hán Là Quả
Vị Thứ Mấy Trong Việc Tu Chứng ?
La-hán nói cho đủ là A-la-hán (Arahan), quả vị
tu chứng cao tột đỉnh của hàng Tiểu-thừa Phật giáo.
Trong 4 quả vị Thánh của bậc Tiểu-thừa là
Tu-đà-hoàn, (mới nhập vào dòng Thánh gọi là Dự-lưu), Tư-đà-hàm (còn một
lần sanh trở lại thế gian nữa nên gọi là Nhất-lai), A-na-hàm (phiền
não hoặc nghiệp đã đoạn trừ và không vào đời nầy nữa ở kiếp sau
gọi là Bất-hoàn) và A-la-hán (không còn bị dòng sanh tử chi phối nên gọi
là Bất-sanh). A-la-hán có 3 nghĩa :
1- Sát-tặc : Tức là đoạn diệt tất cả giặc
phiền não nơi tự thâm tâm và giặc ngoại cảnh.
2- Ứng-cúng : Bậc đã giác ngộ có thể thọ nhận
của trời người cúng dường.
3- Bất-sanh : Tức nhập Niết-Bàn vĩnh viễn không
còn thọ quả báo trong vòng sanh tử nữa.
A-la-hán còn gọi Bích-chi-Phật, vì hàng Tiểu-thừa
chí đạt tới quả vị tu chứng cuối cùng là A-la-hán mà thôi. Ngoài ra,
18 hình tượng La-Hán được thờ trong một số các chùa là chững vị nào
? Đó là :
1- Tân-Đỗ-La-Bạt-La-Đọa-Xà tôn giả
2- Tân-Đầu-Lư-Phả-La-Đọa tôn giả
3- Ca-Nặc-Ca-Phạt-Tha tôn giả
4- Tô-Tần-La-Dà tôn giả
5- Nặc-Cự-La tôn giả
6- Bạt-Đà-La tôn giả
7- Ca-Lý-Ca tôn giả
8- Phạt-Xà-La-Phất-Đa-La tôn giả
9- Thú-Bác-Ca tôn giả
10- Bán-Thát-Ca tôn giả
11- La-Hầu-La tôn giả
12- Na-Già-Tê-Na tôn giả
13- Nhơn-Yết-Đà tôn giả
14- Phạt-Na-Bà-Tư tôn giả
15- A-Thị-Đa tôn giả
16- Chú-Trà-Bán-Thác-Ca tôn giả
17- Châu-Lợi-Bàn-Đặc (Châu-Lợi-Bàn-Đà) tôn
giả.
18- Khánh-Hữu (Nan-Đề-Mật-Đa-La) tôn giả.
Những vị La-hán thường được nhắc tới tên
là ngài Tân-Đầu-Lư tôn giả, ngài Châu-Lợi-Bàn-Đà hay ngài Nan-Đề-Mật-Đa
tôn giả. Kinh Trung-A-Hàm có nói về sự tích của các vị A-la-hán nầy.
22.- Phật Học Viện Và Phật Học
Đường Khác Hay Giống Nhau ?
Nơi nào chư Tăng hay Ni cùng nhau tập trung lại một
chỗ để tu học dưới sự lãnh đạo của một Ban-giám-đốc gọi là Phật-Học-Đường.
Nhìn tổng quát ta vẫn tưởng rằng giữa Phật-Học-Viện
và Phật-Học-Đường giống nhau, nhưng phân tích để tìm hiểu ta sẽ thấy
sự khác nhau. Phật-Học-Đường vốn có một lịch sử lâu dài như Phật-Học-Đường
chùa Quán-Sứ Hà-Nội, Phật-Học-Đường Báo-Quốc (Huế), Phật-Học-Đường
Lưỡng-Xuyên (Vĩnh-Bình). Phật-Học-Đường chỉ cho nơi nào có từ 10 Tăng
sĩ sinh hoạt trở lên và tổ chức thành lớp học với một ban giảng huấn
hẳn hoi, cũng như giảng đường, trai đường, thiền đường và chánh điện
thờ Phật nơi đó gọi là Phật-Học-Đường. Ngoài ra, việc giáo dục ở
trong các Phật-Học-Đường phải theo một hệ thống giáo dục thuộc
Giáo-Hội, tức là có chia ra thành nhiều cấp bậc từ thấp đến cao như
: Sơ-đẳng, Trung-đẳng và lớp Cao-đẳng Phật-giáo. Trong khi đó, Phật-Học-Viện
cũng có lối tổ chức giống nhau, nhưng có tính cách quy mô rộng lớn hơn
nhiều. Phật-Học-Viện chỉ mới xuất hiện sau nầy vào thập niên
1960-1970 như Phật-Học-Viện Hải-Đức (Nha-Trang), Phật-Học-Viện Huệ-Nghiêm
(Sàigòn), Phật-Học-Viện Nalanda (Ấn-Độ) ... là những nơi có thể dung nạp
được từ 50 Tăng sinh trở lên đến 300 Tăng sinh trở lại. Trong lịch sử
Phật giáo Việt-Nam có lẽ lần đầu tiên tại Phật-Học-Viện Huệ-Nghiêm
có tới con số dưới 300 tăng sinh cùng nhau ở chung tu học (1964-1965).
Ngoài ra, Phật-Học-Viện còn theo chương trình
giáo dục song phương, tức là ngoài Phật học ra, chư Tăng còn theo học cả
chương trình của bộ giáo dục nữa. Sau khi chư Tăng tốt nghiệp Trung-đẳng
Phật giáo, đồng thời cũng tốt nghiệp Trung-học đệ nhị cấp, nếu tiếp
tục việc học họ sẽ vào các Đại-học ngoài đời hay Đại-học Phật
giáo hoặc theo học ở một lớp cao đẳng Phật học chuyên khoa.
Phật-Học-Viện và Phật-Học-Đường đều là
những nơi đào tạo tăng tài để cung ứng cho nhu cầu Phật sự những cán
bộ trung kiên của Phật giáo.
23.- Nhị Giáo Là Gì ?
Danh từ nhị giáo do tông Chân-ngôn Thiên-Thai
phân biệt từ Hiển-giáo và Mật-giáo mà thành nhị giáo.
Dựa vào giáo pháp của đức Phật Thích-Ca mà
thành lập Hiển-giáo hay Mật-giáo hay tiệm và đốn-giáo. Căn cứ vào đâu
để chia ra tiệm và đốn ? Các vị Bồ-Tát thuộc hàng Đại-thừa trực
tiếp lãnh hội giáo pháp của đức Phật để tu hành và được giải thoát
ngay trong đời nầy gọi là đốn-giáo, trong khi đó hàng Tiểu-thừa y cứ
vào các kinh điển tu tập tức là tự tu tự độ, do đó việc giải thoát
có phần chậm hơn gọi là tiệm-giáo. Tiệm có nghĩa là dần dần theo cấp
độ của bài tính cộng.
Những nhà Phật-học Trung-Quốc còn chia thành Nội-giáo
và Ngoại-giáo. Phàm phu chúng ta muốn thoát ly khỏi tam giới cần phải nương
vào giáo pháp thực hành gọi là Nội-giáo. Các bậc Bồ-Tát tu theo các
pháp lục-độ vạn-hạnh (xem bài riêng) để thoát được ba cõi gọi là
Ngoại-giáo. Ngài Đàm-Vô-Sấm đời Tây-Tấn còn chia nhị giáo như sau : Bán-tự-giáo
và mãn-tự-giáo cũng để chỉ phiền não và Bồ-đề vậy.
Theo như kinh Pháp-Hoa Huyền-Nghĩa lại chia làm
Biên-giáo và Viên-giáo hay Quyền và Thật. Nhưng nếu căn cứ vào Luận Chỉ
Quán lại chia thế-gian-giáo và xuất-thế-gian-giáo. Theo Luận Đại-Thừa
Nghĩa-Chương thì gọi liễu-nghĩa và bất-liễu-nghĩa, gọi là nhị-giáo để
chỉ cho sự giải thoát của Đại-thừa và Tiểu-thừa.
Sự lập luận tuy có nhiều trình độ tu tập của
các chúng đệ tử Phật, và do sự đạt ngộ cao hay thấp để phần Đốn
hoặc Tiệm, Quyền và Thật v.v...
Phật giáo cần nhất ở thực hành, còn hình thức
phân chia dù có nhiều hơn nhị giáo đi nữa, cái tinh thần giải thoát và
giáo pháp của đức Phật không vì đó mà tăng hay giảm.
24.- Bảy Cách Lễ Phật Ra
Sao ?
Lễ Phật có nhiều cách khác nhau, nếu để ý
phân biệt ta sẽ thấy rõ ý nghĩa của mỗi cách như dưới đây :
- Lễ Phật vì tâm cống cao ngã mạn
- Lễ Phật để cầu danh
- Đem cả thân tâm lễ Phật
- Lễ Phật do lòng thanh tịnh
- Lễ Phật để cầu nhập vào cõi pháp giới
- Thành tâm tu quán các pháp mà lễ Phật
- Vì thật tướng bình đẳng nên lễ Phật.
Hai cách lễ đầu tiên do tâm trí tạp loạn của
những người chưa thật tâm trong việc lễ bái đúng nghĩa. Có nhiều lý
do khiến người lạy Phật mà ngay chính nơi thâm tâm họ không thật sự
cung kính, với mục đích khác ngoài việc phát tâm tu hành theo Phật đạo.
Còn 5 cách lễ sau mới thật sự là người có thật tâm lễ Phật trong
cung cách của kẻ tu hành học đạo. Cách lễ Phật cung kính nhất là từ
đầu mặt, cho tới chân tay và cả tâm tư đều chí thành đảnh lễ mới
đúng nghĩa lạy đối với người thực hành Phật giáo.
Hành giả muốn tu có kết quả, tức là muốn đạt
đến giải thoát, việc trước tiên trong khi lạy Phật phải thật tâm để
tỏ "sự" rồi mới đạt đến lý sâu xa. Nếu còn nuôi dưỡng tâm
cống cao ngã mạn hay để cầu được tiếng tăm mà lễ Phật, thì việc lễ
bái đã không có lợi ích gì lại còn làm trò cười cho người khác nữa.
Lễ Phật chỉ có một lòng chí thành cung kính
và tập trung tư tưởng trong chánh niệm mới đạt được lợi ích thiết
thật cho người thực hành.
25.- Mười Đại Nguyện
Trong Bài Sám Phổ Hiền Là Gì ?
Tại các chùa chư Tăng mỗi buổi sáng, sau khi tụng
kinh Lăng-Nghiêm xong, thường tụng bài Sám-Thập-Nguyện của ngài Phổ-Hiền.
Mười nguyện đó là gì ?
1- Kính lễ chư Phật.
2- Xưng tán các đức Như-Lai
3- Cúng dường chư Phật
4- Sám hối tội lỗi
5- Vui, ưa làm việc công đức
6- Thỉnh cầu chư Phật chuyển nói chánh pháp độ
sanh.
7- Cầu Phật an trụ lâu nơi đời.
8- Thuận theo Phật Pháp để tu hành.
9- Hòa thuận, lăn xã vào đời để làm việc lợi
ích chung.
10- Hồi hướng công đức đến tất cả mọi loài
chúng sanh.
Trong 10 lời phát nguyện trên, gồm có 5 phần
quang trọng, gọi là ngũ hối (5 điều ăn năn hối lỗi) được chia thứ tự
nhau sau :
1- Nguyện thứ 1-3 : Quy mạng tức đem thân mạng
nương về với Phật, Pháp, Tăng.
2- Sám hối tội chướng cho việc ác tiêu trừ.
3- Vui theo việc thiện của người khác
làm.
4- Nguyện thứ 6-8 : Cầu thỉnh Phật nói pháp
và nguyện theo học.
5- Nguyện thứ 9-10 : Hồi hướng công đức lành
đến mọi loài chúng sanh đều được lợi lạc, an vui.
Người Tăng sĩ sống trong Tự Viện luôn luôn
tâm niệm những ý nguyện cao cả độ sanh và thực hành lòng đại bi như
ngài Phổ-Hiền vậy.
26.- Nhị Môn Là Gì ?
Có rất nhiều lý luận và định nghĩa về danh
từ nhị môn. Nhị môn là hai cửa theo nghĩa thông thường. Còn theo Phật
giáo, nhị môn là gì ? sau đây là một số những định nghĩa :
- Cửa Thánh đạo và cửa Tịnh-độ.
- Cửa che lập (phàm tục) và cửa mở rộng
(Thánh môn)
- Cửa lưu chuyển và cửa hoàn diệt.
- Cửa chân như và cửa sanh diệt.
- Cửa phước đức và cửa trí huệ.
Trở lên qua những cách phân chia hai cửa cho thấy
rằng cửa của phàm phu và cửa của bậc Thánh nhân là một sự đối nghịch
nhau. Nếu biết tu sửa những hành vi thô xấu của con người trần thế,
ta có thể từ nơi phàm mà vào dòng Thánh là hai lối đi, tuy không có hình
tướng nhưng luôn mở rộng để đón tiếp những người nào chuyên cần
tinh tấn trong việc tu niệm. Tùy theo người chọn phương pháp (pháp môn)
tu để đạt được chân lý mà có phân ra thành nhiều nghĩa khác nhau, thật
ra cũng chỉ để phân biệt giữa kẻ phàm tục và người đã giác ngộ
mà thôi. Vì tất cả đều chỉ sự giải thoát và mê lầm vậy. Con người
khi chưa tu hành tức còn những phiền não, nhiễm trước gọi là phàm phu
và những kẻ đã dày công tu niệm lại tìm thấy được niềm an vui, tự
tại, đó là các bậc siêu phàm hay là Thánh nhân.
Như vậy, nhị môn là chỉ cho hai cánh cửa đang
mở tung ra để cho người nào khéo xếp đặt có thể bước vào được ngôi
nhà rộng của chánh pháp, còn như đối với kẻ lơ là sẽ bị lạc đường
đi vào những ngỏ ngách tối tăm nguy hiểm của đọa lạc, tối tăm.
27.- Bụt Là Gì ? Danh Từ Nầy
Ở Đâu Hay Dùng ?
Người bình dân Việt-Nam gọi Phật là Bụt. Chữ
Bụt có lẽ do chữ Buddha, Buddhi đọc ra có nghĩa là giác ngộ, sáng suốt.
Tiếng Bụt cũng còn có nghĩa là hiền lành, từ bi như Bụt.
Phương ngôn còn ví von : Để làm hòn đất, cất
lên ông Bụt. Ngoài ra, chúng ta cũng thường nghe những câu tục-ngữ,
ca-dao nói đến danh từ Bụt rất phổ thông như sau :
- Hiền như Bụt.
- Đi với Bụt mặc áo cà-sa,
- Đi với ma mặc áo giấy.
- Gần chùa gọi Bụt bằng anh v.v...
Đó là những cách nói quen thuộc mà người bình
dân ưa dùng một cách tự nhiên. Chữ Bụt nghe có vẽ gần gũi và thân thiết
với người dân quê hơn là Phật. Tuy nhiên, Bụt hay Phật cũng đều có
nghĩa là những bậc đã giác ngộ hoàn toàn về cả 3 khía cạnh : Tự-giác,
giác-tha và giác-hạnh viên-mãn, tức là cả hai sự giác ngộ bên trên
hoàn toàn tròn đầy vậy. Lòng từ bi của Phật cũng vô lượng vô biên rộng
tỏa khắp nơi để cứu giúp cho muôn loài vạn vật đều được lợi ích
an vui. Như vậy, danh từ Bụt đã xuất hiện lâu lắm trong giới bình dân,
nên đã thâm nhập vào trong tâm não của mọi người như chất keo hay sợi
dây vô hình gắn liền với đời sống hằng ngày.
Trong văn chương cổ điển và người miền quê
ưa dùng chữ Bụt, trong khi đó tiếng Phật vẫn thông dụng hơn trong mọi
giới.
28.- Thập Huyền Môn Hay Thập Huyền
Duyên Khởi Lý Sự Vô Ngại Pháp Môn Là Gì ?
Lập luận của Đại-thừa Phật giáo đưa người
tu hành đạt tới chỗ chứng đắc cần hiểu rõ cả sự và lý mà 10 pháp
môn huyền diệu sau đây là cửa ngỏ để đi vào ngôi nhà Chánh-pháp của
chư Phật.
Có nhiều cách trình bày 10 pháp môn, song cách phổ
thông hơn cả mà nhiều người biết tới là :
1.- Đồng thời cụ túc tương ưng môn (các pháp
tương ứng hòa hợp)
2.- Quảng hiệp tự tại vô ngại môn (rộng, hẹp
đều tự tại không gì ngăn ngại)
3.- Nhất đa tương dung bất đồng môn (một và
tất cả đều tương dung nhau)
4.- Chư pháp tướng tức tự tại môn (thật tướng
của các pháp đều như vậy)
5.- Bí mật ẩn hiện câu thành môn (mật, hiển
đều thành hình sự vật)
6.- Vi tế tương dung an lập môn (mọi vật dù nhỏ
đến đâu cũng hình thành tự nhiên)
7.- Nhân Đà-la-ni cương cảnh giới môn (Cảnh giới
Đà-la-ni là cảnh bao la vô tận, các bậc giác ngộ chứng đắc và lấy đó
làm khuôn mẫu cho người tu hành)
8.- Thát sự hiển pháp sanh giải môn (nương vào
sự vật để đạt tới lý hầu giải thích sự vật)
9.- Thập thế cách pháp dị thành môn (các pháp
môn tu tập khác nhau phải trải qua nhiều đời mới đạt được)
10.- Chủ bạn viên minh cụ đức môn (không còn
phân biệt chủ và khách nữa mà đồng viên thành các đức tánh đầy đủ)
Nói tóm lại, Mật-giáo căn cứ vào lập trường
theo lý chân không của kinh Bát-Nhã, sắc tức thị không, không tức thị sắc
... và triển khai tư tưởng nầy mà lập thành 10 cửa huyền diệu để dẫn
hành giả đạt tới lý mầu của Đại-thừa Phật giáo.
***********
Sách tham khảo :
- Tư-Tưởng Việt-Nam của Nguyễn-Đăng-Thục.
Nhà xuất bản Khai-Trí, Sàigòn 1964.
- Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt-Nam
của Vũ-Ngọc-Phan. Nhà xuất bản Khoa-Học Xã-Hội, 1978.
29.- Pháp Quán Ngũ
Đình Tâm Là Gì ?
Ngũ-đình-tâm-quán là một pháp tu quán tưởng
để cho tâm dừng các vọng niệm mà hàng Tiểu-thừa thực hành trong 5
pháp quán. Đây là quả vị đầu tiên hàng Thanh-văn chứng nhập có 2 loại
:
1.- Bất-định-quán : Quán sát tướng trạng của
các cảnh giới đều bất tịnh để làm đình chỉ việc tham dục, đối với
người tu có tâm nhiều tham trước.
2.- Từ-bi-quán : Hướng về các loài hữu tình
chúng sanh đều có sự liên quan với nhau, là một pháp làm dứt tâm sân hận.
3.- Nhân-duyên-quán : Quán pháp 12 nhân duyên liên
tục cả quá-khứ hiện-tại và tương-lai để đình chỉ ngu si đối với
người tu hành nhiều ngu tối.
4.- Giới-phân-biệt-quán : Theo các pháp phân ra 6
giới hay 18 giới là pháp làm dứt ngã kiến áp dụng cho người tu kiến chấp
sai lầm.
5.- Sổ-tức-quán : Cách đếm và điều hòa hơi
thở để làm cho tâm loạn động trở thành thanh tịnh. Còn một lối phần
ngũ-đình-tâm như sau : Bất-định, từ-bi, nhân-duyên, niệm Phật và sổ-tức-quán
(đếm hơi thở).
Nhờ quán sát kỹ các tướng trạng hay mặt thật
của vũ trụ muôn loài mà tu tập đạo giải thoát để thấy rõ chân lý,
thật tánh của các pháp do tâm đã gạn lọc sạch vọng niệm. Hành giả
trải qua 5 phép quán niệm như thế gọi là 5 cách dừng tâm tạp niệm.
Quán sát đến khi nào tâm ta lắng trong như mặt
nước không bị cáu bợn và không còn vẫn đục nữa, lúc đó là giai đoạn
tỏ rạng được lý mầu của đạo sáng tỏa mười phương.
30.- Thập Mục Ngưu Đồ LÀ
Gì ?
Thường thường tại các trung tâm tu thiền, nơi
vách tường có trưng bày 10 bức họa chăn trâu. Cái tâm ta buông lung theo
ngoại cảnh và nhờ tu thiền định mà hàng phục được, nhưng phải trải
qua 10 giai đoạn như người chăn dắt con trâu hung dữ :
1- Tìm trâu
2- Thấy được dấu chân trâu
3- Nhận ra đúng là trâu
4- Bắt trâu trở lại
5- Trâu đã bị xỏ mũi
6- Cưởi trên lưng trâu trở về nhà
7- Quên trâu, chỉ còn thấy bóng dáng người
chăn
8- Cả người và trâu đều không ai cần để ý
tới nữa.
9- Trở về với nguồn gốc, tức tìm lại bản
chân tâm.
10- Xông xáo đi vào đời một cách an nhiên
không trở ngại.
Mười bức họa tượng trưng nầy không rõ do ai
tạo ra và có từ lúc nào, nhưng căn cứ vào tranh vẽ hội họa do Quách-Am
Thiền-sư (?) làm ra đồ hình và có kèm theo 10 bài tụng để giải thích
rõ mỗi giai đoạn trong bức họa. Còn nếu ta khảo cứu kỹ ở các bộ ngữ
lục thì 10 bức họa chăn trâu do ngài Thanh-Cư Thiền-sư tác (điều nầy
cũng chưa lấy gì làm chắc chắn), vì 10 bức họa do ngài Thanh-Cư tạo khác
với nét vẽ ở những đồ hình ngày nay. Song căn cứ vào thứ tự hình thức
trong các hình vẽ thì chính ngài Quách-Am đã sửa đổi lại các bức họa
cho phù hợp với các giai đoạn chuyển biến của tâm để lưu hành cho tới
ngày nay chăng ?
Nhìn vào 10 bức tranh, chúng ta thấy có sự tiến
bộ rõ rệt trong việc tu tập vì hành giả phải vận dụng rất nhiều
công phu. Con người từ chỗ vô minh (lúc đi tìm trâu), tìm thấy dấu chân
và nhận ra không lầm trâu, đến chỗ hàng phục được mọi khó khăn (ở
bức họa số 4 và 5) của dục vọng, phiền não khuấy động từ tâm thức.
Từ đó hành giả cần phải gia công tu tập mới đạt được trạng thái
an tỉnh tâm hồn (hình 6) mà không còn bị giặc phiền não chi phối nữa.
Đến đây là giai đoạn đã khá vững vàng trên đường tu tập và có thể
hòa nhập vào chân tâm, tức tìm lại được bản lai diện mục của mình
(bức họa 8 và 9). Cuối cùng là nắm được trọn vẹn bí pháp để lăn xả
vào đời cứu độ chúng sanh mà không ngại bất cứ một chướng duyên
nào có thể ngăn chặn được chí hướng của ta cả.
Đó là tất cả ý nghĩa của 10 bức họa. Người
tu hành chịu khó nhìn vào nơi mỗi bức họa quan sát và suy nghĩ sẽ rõ
được ý nghĩa sâu sắc trong việc tu thiền cũng chẳng khác gì người tìm
trâu vậy.
[Giới thiệu] [Chương1]
[Chương 2] [Chương
3] [Chương 4]
[Chương 5] [Chương
6] [Chương 7] [Chương
8 ] [Chương 9]