Chết Để Sống
Minh Mẫn
Chết,
là hình thái chấm dứt cuộc sống theo cái sống thông tục!
Chết,
cũng có nghĩa khởi đầu cho cái sống, mang tính chuyển hoá!
Chết,
cũng có nghĩa chấm dứt dòng truyền lưu nhàm chán!
Và
Chết cũng là Sống theo nghĩa tương tục của giòng Tâm thức luân lưu!.
Một
cuộc sống cá nhân đang bế tắt, chán nản, đau buồn, thường chấm dứt sự
sống mong tìm một lối thoát.
Một
tổ chức, một phong trào bị khủng hoảng về sách lược; một công ty, một
doanh nghiệp lâm vào đường cùng trong doanh thương…một là họ giải tán,
hai là liên kết, ba là chấm dứt lề thói cũ, tìm một hướng mới như cuộc
lột xác cho thích ứng với tình huống xã hội mong được tồn tại. Chấm dứt
trạng huống cũ để nẩy mầm lối thoát mới đều tạm gọi là chết.
Một
thể chế, một quốc gia cũng vậy, tự thân không thích ứng kịp thời với nhu
cầu thời đại, thường đưa đến khủng hoảng và xơ cứng. Thời đại ngày nay,
khoa học mọi ngành luôn cải tiến để tồn tại và để phục vụ, bắt buộc
người dân cũng phải nâng cấp kiến thức để cuộc sống tự thân và xã hội
được cập nhật; Kiến thức người dân và nhu cầu xã hội luôn biến đổi, biểu
hiện cuộc sống luôn tươi mát vươn lên, với điều kiện giới lãnh đạo một
quốc gia cũng phải nhạy bén kịp thời để đáp ứng cho nhu cầu tất yếu đó.
Vì thế, ngày nay không một quốc gia nào tự mình bế quan, cách biệt với
thế giới nếu không muốn lùi về thời đại bán khai. Tinh cầu biến thành
ngôi nhà chung thì mỗi quốc gia là một thành viên cùng sinh hoạt, cùng
tồn tại qua cấp độ giao lưu văn hoá, nhu cầu vật chất và mức độ tâm linh
không cách biệt nhau lắm.
Những thế kỷ hai mươi về trước, một số quốc gia chưa chuyển mình kịp
thời trong giấc ngủ Đông triền miên của xã hội thủ công nông nghiệp.
Chưa quen giao hoà với cộng đồng nhân loại, thường duy trì những cá tánh
cách biệt một cách thủ cựu, không đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp tiến của
quần chúng, thường đưa đến sự rối loạn, bùng nổ;
Miền
Nam Việt Nam trước kia, khi đất nứơc chia đôi, gia đình nhà Ngô cai trị
xã hội bằng một tập quán quan liêu phong kiến của Ngô Đình Diệm, Ngô
Đình Cẩn, cộng thêm một tư duy Thần Học được giáo dục bởi nhà Dòng, theo
học thuyết “Cần Lao Nhân Vị” Từ Ngô Đình Thục và Ngô Đình Nhu mà kiến
thức chính trị cũng như niềm tin đều ảnh hưởng từ Vatican và học lý
phương Tây; Một đất nước cai trị bởi tập quán và kiến thức ngoại lai
chưa thích hợp với một dân tộc lâu đời tiêm nhiễm Tam Giáo, dân trí chưa
phát triển đồng bộ tương thích với cộng đồng thế giới, thì sự cưỡng chế
tâm thức trong quần chúng không tránh khỏi; Lúc bấy giờ xã hội miền Nam
hiện rõ hai khối ý thức tâm linh rõ nét; Gia Đình trị nhà Ngô cố gắng
đem học thuyết Thần học của Ngô Đình Thục hổ trợ cho học thuyết chính
trị của Ngô Đình Nhu hầu xây dựng một xã hội thuần tuý Duy Linh để đối
trọng với chế độ Duy Vật của Miền Bắc; Thay vì tạo một ý thức tự nguyện
hoặc qua phương sách giáo dục tiệm tiến để quần chúng thích nghi khả dĩ
chấp nhận, nhà Ngô đã dùng quyền lực, địa vị, vật chất ( từ viện trợ của
Mỹ) để mua chuộc, khống chế, cưỡng bức, đẩy nhân dân vào thế đối cực, dĩ
nhiên, đó là lợi thế cho miền Bắc lúc bấy giờ.
Ngoài Tam giáo đồng lưu, miền Nam còn có nhiều giáo phái khác như Hoà
Hảo, Cao Đài Bến Tre, Cao Đài Tây Ninh, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ
Hương…và một số đảng phái phát sanh từ thời Pháp thuộc. Những năm đầu
chấp chánh sau khi truất quyền Bảo Đại, nhà Ngô nóng vội đã triệt tiêu
Ba Cụt, Năm Lửa, Trịnh Minh Thế… hy vọng thâu tóm quyền hành và ổn định
xã hội mà không có một chính sách ổn định nhân tâm, vì thế Đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc phải di nạn sang Campuchea, một số nhân sĩ trí thức các
đảng, giáo phái phải tìm cách thoát thân, một số người dân phải thoát ly
vào mật khu giải phóng. Tâm lý xã hội bắt đầu phát sanh một cuộc khủng
hoảng mới. Tính chủ quan, nóng vội, độc tài của anh em nhà Ngô muốn đốt
giai đoạn trong thời gian thật ngắn, dùng Kitô giáo hổ trợ an dân chống
giặc, muốn miền Nam là một Philippines thứ hai, quần chúng cảm nhận được
sự bế tắc tự thân, phát sanh tâm lý bảo lưu cố thủ, biến nhân dân thành
chiến tuyến vô hình dè chừng với chế độ. Tuy nhiên, những quan chức,
những giai cấp có quan hệ tốt với chế độ lúc bấy giờ khi có một vị thế
ổn định thì chế độ trở thành một công ty bảo hiểm để đời sống của họ
vươn lên;
Phật
giáo miền Trung lúc bấy giờ đã xây dựng hệ thống tổ chức khá nề nếp và
vững mạnh, thừa hưởng những thành quả Chấn Hưng Phật Giáo của các đàn
anh; Khuông, Vức là cơ sở hạ tầng biết vận dụng sức mạnh quần chúng,
giáo dục đức tin mà phần lớn Gia Đình Phật Tử là đoàn thể được xây dựng
vững mạnh; Tuy Ngô Đình Cẩn quan hệ thiết thân với thầy Trí Quang, nhưng
không vì thế mà hổ xám miền Trung có thể nắm được Phật giáo; Cái chủ
quan của Ngô Đình Thục đã đẩy chế độ nhà Ngô vào bế tắc với Phật giáo,
cộng thêm tính thủ đoạn chính trị của Ngô Đình Nhu và kiêu mạn của Trần
thị Lệ Xuân, phu nhân Ngô Đình Nhu, càng tạo hố ngăn cách lớn giữa Phật
giáo với chính quyền nhà Ngô và sự bất mãn trong quần chúng; Nắm quyền
sinh sát toàn miền Nam, cứ ngỡ chủ động được mọi vấn đề, chế độ đã không
hàn gắn được với lực lượng Phật giáo bằng sự chân thành mà còn dùng thủ
đoạn đánh lừa quốc tế về những thủ thuật chính trị, bà Trần thị Lệ Xuân
càng đi giải độc với thế giới về Phật giáo thì càng tạo phản ứng trái
ngược, cả chế độ không đánh lừa được tổ chức Liên Hiệp Quốc, Tổng Thư Ký
LHQ bấy giờ đã phải vào cuộc;
Xương máu Tăng Ni, quần chúng Phật tử đã hy sinh, trước đó các huynh
trưởng Gia Đình Phật Tử đã bị thủ tiêu, bắt bớ khá nhiều. Sự hy sinh
xương máu của toàn thể Phật Giáo Việt Nam không phải chống lại để lật đổ
chế độ mà muốn chuyển hoá tâm chất của giới lãnh đạo độc tài, thường thì
những người cực đoan nắm quyền lực ít chịu lắng nghe, họ chủ quan với
quyền lực; Cùng tắc biến, Bồ Tát Thích Quảng Đức là giọt nước cuối cùng
để ly nước phải tràn.
Sự
kiện Thích Quảng Đức là một hiện tượng ý hệ chuyển hoá, khi mà ngôn ngữ,
không đủ năng lực chuyển tải; Ngài đã dùng chính mạng sống để cho Phật
giáo được sống và nhân dân miền Nam có sức sống, như Thánh Cam Địa đã
chết cho dân tộc Ấn được sống tự do. Mục sư LutherKing chết cho dân da
màu được sống bình đẳng.
Trên
thế giới có rất nhiều cái chết cho đại nghĩa. Thánh Cam Địa, mục sư
LutherKing bị ám sát, nhưng Bồ Tát Thích Quảng Đức chủ động cái chết.
Trong cuộc đấu tranh sống còn với chế độ gia đình trị, một thiền sư Việt
Nam lãnh đạo Phật giáo đã nói: Tôi nguyện đem xương máu trang trải
cho Phật pháp, nếu chết thì như cái chết của chân lý trước bạo lực chứ
không phải chết vì bạo lực nầy kém bạo lực khác! Với lời minh xác
như thế, Sa Môn Thích Quảng Đức tự biến mình thành cây đuốc sống để soi
sáng chế độ, ngọn lửa Từ Bi bùng phát chấn động cả thế giới chứ không
phải ngọn lửa sân hận cháy thiêu tam giới, hà tất huỷ diệt chế độ! Tuy
sự kiện Thích Quảng Đức phát sinh từ một trạng huống xã hội, nhưng ánh
sáng ngọn đuốc sống đó, không vì thế mà chìm theo thời gian. Tâm nguyện
của Bồ Tát được minh chứng bởi quả tim bất diệt, lưu cho hậu thế bài
học ngàn đời: “ Cho dù quyền lực tột đỉnh, cũng chỉ tồn tại trong một
thời gian nhất định, nhưng tâm nguyện Từ Bi- Vị Tha, sẽ sống mãi với
cuộc đời.”
Cổ
nhân từng nói: “ thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”, lòng người
là lòng trời, hợp lòng Trời là đạo đức làm người, cho dù trên ngôi cửu
ngũ hay dưới cỏi bàn dân, đạo đức luôn là yếu tố tồn tại; Đạo đức không
phải là thủ thuật chính trị để bảo vệ ngôi báu mà là khí lực nhân cách
để nuôi dưỡng cuộc sống, bình ổn lòng dân;
Thời
đại Phật giáo cực thịnh không phải chùa cao Phật lớn, tu sĩ tràn lan, đó
là dấu hiệu suy thoái nếu bị lạm phát. Đạo lực phát triển chốn già lam,
đạo đức duy trì trong dân chúng, đó là dấu hiệu vững mạnh của một dân
tộc. Người lãnh đạo có Đức Nhân, cán bộ có đức nghĩa, quần chúng có Đức
lễ, tôn giáo có đức Từ thì chắc chắn xã hội thịnh vượng. Một khi cuộc
sống đánh mất những đức tính căn bản Đạo làm người, xã hội sẽ lâm vào bế
tắc, tao loạn; Một khi giới lãnh đạo thiếu nề nếp kỷ cương của Tâm Đức,
nhân dân sẽ mất niềm tin, như nhà cao tầng đang bị xói mòn chân móng.
Ngọn
lửa Quảng Đức không chỉ là lời cảnh báo cho một trạng huống đương thời,
mà là bài học cho mọi thế hệ trong mọi quốc gia.
Ngọn
lửa Quảng Đức không chỉ là giọt cuối cùng để tràn ly nước, mà cũng là
khởi đầu cho cuộc sống trong mọi xã hội, phải biết tự soi chính mình,
biết xây dựng kẻ khác, biết cảm thông, chia xẻ và hy sinh. Thiền sư
không chỉ chuyển hoá cuộc sống bằng đạo lực, mô phạm bằng thân giáo, xây
dựng bằng ngôn từ mà còn thể hiện Bồ Tát hạnh khi nhu cầu xã hội cần
đến.
Việt
Nam ngày nay, tuy kết thúc chiến tranh trên 30 năm, nhưng lòng dân vẫn
chưa có hoà bình, nhân dân chưa thừa hưởng được một nền giáo dục đạo đức
căn bản trong xã hội. Chúng ta đánh mất những tâm đức căn bản nhất vì
chạy theo xu thế thị trường và lợi nhuận. Một xã hội phương Đông đang
chối bỏ nền tảng đạo lý tổ tiên để học đòi theo văn hoá thực dụng phương
Tây, cho dù đó là văn hoá ký gửi, vay nợ, thụ hưởng. Cuộc sống của người
dân trên các nước Tư Bản hiện nay như loại tầm gửi bám trên nhành lá,
đọt cây của một xã hội thị trường, cùng phát triển, cùng tồn tại, nhưng
một giai đoạn khủng hoảng về kinh tế, tài chánh, năng lượng, bất động
sản, tiền tệ….toàn bộ mạng lưới tầm gửi đó sẽ đồng loạt bị tác hưởng,
giao động. Xã hội Việt Nam ngày nay cũng thế, những nhà cao tầng, những
cơ sở quy mô, phần lớn đều được thế chấp để lấy vốn kinh doanh, một góc
độ khác, thì họ đang ở nhà thuê, dù đồng vốn họ bỏ ra xây dựng, đang
là sở hữu của ngân hàng, nếu không đủ khả năng hoàn nợ, coi như mất nhà;
kinh doanh của họ tuỳ thuộc khắn khít với kinh tế thị trường. Ngược lại,
một số vùng nông thôn của châu Á, cuộc sống cá biệt sản xuất, tự cung
tự tiêu, họ ít chịu áp lực giao động qua những cuộc khủng hoảng thế
giới, vì thế, cuộc sống có phần cá biệt.
Cuộc
giao thoa với thế giới bên ngoài, đòi hỏi bản thân đất nước phải có bản
năng duy trì văn hoá và đạo đức bản địa, hội nhập không có nghĩa hoà tan
mọi đặc thù mà là chắt lọc và đào thải; có như thế ít bị áp lực tác
hưởng cái tốt lẫn cái xấu từ ngoại giới.
Cuộc
sống luôn biến đổi từng giây như giòng chảy của bộc lưu, đứng lại là bị
loại khỏi dòng tiến, chạy theo không có định hướng đồng nghĩa tự đánh
mất mình; Đòi hỏi tận dụng trí tuệ cho mọi ngõ ngách để không bế tắc,
lỗi thời, cũng không vong bản, tha hoá.
Ngọn
lửa Quảng Đức không chỉ soi sáng một chế độ trong quá khứ, mà còn là ánh
đuốc cho xã hội hiện tại, tránh cực đoan, biết lắng nghe và phải hy sinh.
Trái tim lưu lại cho hậu thế một lòng Từ bao la mà tình người cần phải
có; Việt Nam đủ mọi đức tính cao đẹp của tiền nhân, có đủ căn bản đạo
đức Tam giáo, vấn đề còn lại phải vận dụng phát huy ; đồng thời mạnh dạn
loại trừ những tật xấu, những học đòi tiêm nhiễm của cuộc sống thực dụng,
để trên dưới cùng gắn bó thì ngoại bang làm sao dám ngỗ nghịch.
Ngọn
lửa Quảng Đức luôn sáng tỏ với thời gian và không gian! Như thế chết
nhưng vẫn sống, hạnh nguyện Bồ Tát vẫn sống và giúp mọi thế hệ vẫn sống
cho ra sống bằng trí tuệ và tình người của mình.
Chết
để được sống là cái chết cao đẹp nhất trong muôn ngàn cách chết của kiếp
người; thế giới vẫn tôn vinh cái chết của Bồ Tát Quảng Đức, vì thế,
Phật Giáo Việt Nam và đất nước Việt Nam có chỗ đứng xứng đáng trong sự
ngưỡng mộ của cộng đồng nhân loại hiện nay.
14/6/09
***