GÕ CỬA GIỌT KHÔNG
Hương Tâm
Thơ Mặc Giang bao gồm nhiều thể loại: thơ bốn chữ,
thơ năm chữ, thơ bảy chữ, thơ tám chữ, thơ tự do, và cuối cùng là lục
bát. Đi vào thế giới thơ ông là đi vào cõi KHÔNG của sinh tử, giữa bờ
này và cõi kia, của lòng đại từ, đại bi, của người anh hùng, của người
yêu nước ra đi…
Phần lớn lục bát thơ ông nói về tình yêu quê hương đất
nước; phần lớn nói về tình người; phần lớn nói về phép tĩnh tu, sự đi tu;
phần lớn nói về tình thương; phần lớn là ước mơ một thế giới thanh bình,
một đất nước thật sự thái bình. Bao hàm trong đó những khát vọng cháy
bỏng của một tâm hồn yêu quê hương đất nước rất lớn; Bàng bạc trong đó:
dòng máu anh hùng ẩn trong một trái tim nghệ sĩ đi suốt chiều dài lịch
sử, địa lý, thiên nhiên, chim chóc, người, đá cuội, dã thú, cõi hư vô và
cõi tồn sinh.
Xuyên suốt trong ấy: niềm cô đơn sâu sắc của cánh
chim bằng, một giống chim bay rất cao và rất xa.
Trên cơ sở đó: Một người luôn thao thức theo vận nước
nổi trôi, dẫu ẩn chốn thiền môn mà trái tim luôn hướng về lịch sử một
đất nước mấy lần chia phân cho đến bây giờ. Tình trạng phân hóa, chia rẽ
liên miên không dứt. (Trẻ em nghèo không có tiền đến lớp, người già chưa
được phụng dưỡng đủ đầy). Một đất nước nghèo nàn và lạc hậu, người cày
cấy không đủ tiền cho con đi học, càng ngày đất nông nghiệp càng bị thu
hẹp lần…Một nền giáo dục tụt hậu, thiếu hẳn tình nhân ái và lòng bao
dung cần thiết. Một nơi mà tính tham lợi và lòng ích kỷ ngày càng phát
triển, cái thiện có nguy cơ bị dìm trong cái ác khi mà người khuyết tật,
nông dân và trẻ em nghèo chưa thật sự được quan tâm đúng mức. Tình trạng
qua phân của đất nước kéo dài dù đã “nhất thống”, vẫn chưa lành lặn
những vết tích nghiệt ngã. Với Mặc Giang sau hết là nỗi đau. Ông có câu
thơ:
Sao ta mang một trái
tim đau
Hỏi làm chi nước chảy qua cầu
Không chỉ mình nhà thơ mang trái tim đau mà gánh nặng
nhân gian ấy, là niềm đau chung của dân tộc, chỉ có những tâm hồn nghệ
sĩ mới đủ sức mang vác. Là một trái tim giàu
lòng thương người, yêu nước, thương quê…Là một tâm hồn nhạy cảm trước
những chuyển biến của đất trời, sau bao nhiêu thăng trầm đầy ải giữa cõi
tạm chợt ngộ ra rằng không chỉ đời là một bến mê, cõi phù sinh hư ảo,
chốn diêm phù huyễn hóa. Trên dặm đường còn quá xa xôi của cuộc lữ, mà
niềm thương nỗi nhớ chưa hề nguôi bao giờ, chỉ dừng lại khi ông trở về
dưới chốn bóng Phật đài:
Từ ngày tôi bước đi
tu
Tâm tư rũ nhẹ mây mù
trần gian
Đó là một cõi khác, không hình tướng, không thanh
sắc, không chấp thủ. Đó là cõi KHÔNG:
Lợi danh như thể phù
sa
Cửa quyền như thể sương pha đầu cành
Gõ cửa
giọt không (trang 9, quyển 7)
Nói điều này để kết thúc lời tựa trước khi đi vào cõi
thơ. Thơ là cõi riêng, dù thơ được dành cho
tất cả, dẫu thơ viết không để riêng mình thì tình thơ vẫn luôn sâu lắng
và cuốn hút giữa một cuộc đời ngắn ngủi. Nghịch lý này tồn tại từ Hoa
Tiên, Nhị độ Mai, Bích Câu Kì Ngộ…Để rồi hội tụ tuyệt vời nơi thiên tài
Nguyễn Du. Với truyện Kiều là đỉnh cao của ngôn ngữ, giữa phóng dật và
cổ điển, giữa chốn thanh lâu là cõi lưu đày với khát vọng “ngày về hỏi
liễu Chương Đài khôn nguôi”, giữa chữ tình và chữ hiếu, giữa hạnh phúc
và đau khổ… là một giòng chảy triền miên không dứt, chẳng thế mà cuối
cùng, Kiều “đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì” sau mấy lần trốn chạy định
mệnh không thoát, nương tựa chốn am mây, muối dưa chay lòng.
1. Có cần phải phân tích nhiều về thơ lục bát Mặc
Giang? Tự bản chất của thơ lục bát vốn trữ tình, thể hiện qua ngôn ngữ
thơ. Lục bát thơ Mặc Giang là một nguồn thơ vô tận, lai láng ý tình,
tràn ngập cõi thơ. Cô đơn, tả cảnh ngụ tình, niềm đau nhân thế, nỗi u
hoài trước cảnh qua phân, nỗi buồn xa xứ, quê hương và cuộc lữ của riêng
mình. Có người trút hết nỗi hận tình vào thơ, thơ ông dường như chưa nói
hết mọi ý tình. Thơ là cõi riêng. Phần còn lại là cuộc tao phùng nơi đất
khách giữa chủ thể và khách thể, giữa tư duy và bản thể, giữa trời và
đất, giữa biển và núi, trăng và sao, để cuối cùng “Gõ cửa giọt không”:
Nhìn trông cát bụi mây mù
Vô môn khép cửa thiên thu giật mình!
Hình tượng trong thơ Mặc Giang khiến người đọc thầm
kinh ngạc. Giữa cuộc lữ thênh thang thơ là cõi riêng còn tình thơ thì
không không. Không vướng vào một mối u tình nào khác hơn mối sầu nhân
thế. Nhưng trên hết là nỗi u hoài suốt chặng đường dài lịch sử, đất nước
trải qua mấy lần binh lửa để tôi và anh, chị và em, mẹ và con xa cách
hai bên bờ đại dương. Hình tượng con chim Hồng Lạc vừa thể hiện rõ nét
vừa ẩn tàng. Chim Lộc Tục phải chăng là giống chim trời, chúng bay suốt
mấy ngàn năm lịch sử để rồi không trở về? Nhưng trong khái niệm đi đã
hàm chứa sự trở về, trong chuyến trở về đã bao hàm sự chia cách. Điều
này ông hiểu rõ hơn ai hết. Nỗi buồn một đất nước qua phân thể hiện rõ
trong câu thơ:
Ai ngiêng nắng đổ về tây
Cho chim Hồng Lạc buồn bay cuối trời
Con chim Lộc Tục thuở vua Hùng Vương dựng nước đã bay
về trời, một đi không trở lại chăng, hay nó sẽ bay trở về một ngày nào
đó? Không phải khi nào ta cũng đến được chỗ nào ta muốn đến. Ta đi chỉ
vì cuộc lên đường của người “du thủ” chẳng đặng đừng. Có ai ngờ một
chuyến đi là một nửa đời phiêu linh lục hải, phiêu bạt sơn khê, dặm
trường nước chảy phù sa, sỏi đá kêu đau; nhưng nửa đời đày ải chốn quê
người chưa thật bằng sự đày ải trong trái tim mình. Những cánh buồm lộng
gió trùng khơi, những đèo heo hút gió, những đêm khuya nghe gió gọi
trăng ngàn, những ốc đảo xa xăm, những chân trời cao rộng. Tất cả cái đó
chỉ càng khiến cho người thơ trút hết nỗi lòng, khiến cho tình thơ nhanh
chóng chạm đến cung đàn. Điệu nhạc này ngân lên không dứt, nó khiến cho
ta động lòng, khiến mười ngón tay phàm chỉ mong sao gảy được bản đàn
muôn thuở, dễ chừng một trăm năm mới có một lần. Một người chỉ có thơ,
Tôi không bán thơ, Dẫn thơ đi chơi, mà lại trải nghiệm cõi tâm linh của
mình đến thế, chỉ qua những vần thơ giản dị, hàm súc!
Chim đại bàng vỗ cánh tầng không, mà đại bàng thì
bay cao và xa lắm. Mỗi khi nó đã bay, thì vạn dặm mù khơi. Cũng như chim
phượng hoàng, bay rất cao và rất xa. Cánh chim Lộc Tục thuở Hùng Vương
dựng nước, bay cao và quá xa, bay mãi không trở về chăng? Làm sao có thể
hoài nghi điều đó được khi ta biết trong khái niệm đi đã hàm chứa sự về,
trong khái niệm trở về đã bao hàm sự ra đi. Cánh chim Lộc Tục tồn tại
mấy ngàn năm trong tâm thức mỗi người Việt, bây giờ và mai sau để một
ngày nào đó tất cả đều gặp nhau dưới một mái nhà quê hương thật sự thanh
bình và nhất thống. Đó mới là khát vọng của tình thơ giữa cõi Không
Không. Nửa đời phiêu linh lục hải thật ra chỉ tồn tại trong tâm thức ta.
Ra đi để trở về, trở về để ra đi. Con chim nho nhỏ, ánh trăng ngàn, cõi
phù sinh hư huyễn, sỏi đá kêu đau. Giấc mơ về một đất nước không còn
cảnh thập nhị sứ quân tranh chấp quyền lực. Sao ông không thấy rõ điều
đó được. Sự sống và cái chết còn có ý nghĩa gì đâu với người đã trải qua
bao lần sống chết.
Tôi đã thoát trong đường tơ kẽ tóc
Người hiểu hơn ai hết rằng mặc dù có một thời nào đó,
có thể cho đến bây giờ những người đọc thơ ông cũng tìm thấy tâm trạng
mình qua hai câu thơ:
Ngày về mòn mỏi ngóng trông
Nào ai hiểu được người vong quốc buồn
Là một trái tim đa cảm, một tâm hồn giàu lòng nhân
ái, thương yêu muôn loài để ngôn ngữ thơ còn chạm đến chỗ tinh tế nhất
của hồn người trên đường đời vạn nẻo.
Ta xin vén lớp mây ngàn
Để tìm sao lạc lang thang cuối trời
Trang 261/q3
Đố ai nhặt hết thơ ca
Để ta thôi động âm ba tao đàn
Đố ai nhặt hết trăng vàng
Để ta thôi bắt đường ngang lối về
Vần thơ còn đó, đẹp
thay!
Trang …/q2
Những tứ thơ rất lạ, mộc mạc như người dân quê, uyên
bác như người thông thái, mà không, đó là những vần thơ đẹp như ánh
trăng rừng. Giữa hai mặt của một thực tại thì cõi Đi - Về, Trước - Sau,
thể hiện qua ngôn ngữ thơ ông một vòng nhất quán. Mặc Giang từng viết
ông có thơ cho đời, cho chị, cho em, cho mọi người…Vì thế cho dù ông
không đến, hồn thơ lai láng của ông hay tự thể của ông vẫn hiện hữu đó.
Tự trong ý thức sâu thẳm, mỗi người biết rằng cuộc đời chỉ là một giấc
mộng nhưng có ai viết như ông:
Đêm đêm tỉnh mộng rì rào
Ba sinh chìm nổi máu đào còn tươi!
Héo hon còn đó nụ cười
Trang 171/q2.
Khiến ta giật mình. Phải chăng thơ là tất cả cuộc đời
nên ta tìm thấy trong thơ ông một nghệ thuật diễn cảm tự nhiên, vô số
điệp từ chỉ làm cho các tứ thơ liên miên không dứt, mà tình thơ càng
trào dâng lai láng lại càng sâu.
Tôi đi trong gió thu phong
Đón trông chiếc lá theo dòng rụng rơi.
Nhiều tứ thơ mới, diễn tả nhẹ nhàng, rất lạ, tưởng
bình thường và cũ kĩ mà không! Có thể nói nó ẩn tàng vô số ẩn ngữ.
Tôi đi trong gió trong mưa
Gom bong bóng nước mà đưa về nguồn.
Tôi đi trời đất vuông tròn
Gom từng giấc mộng nghê thường thế nhân.
Nỗi cô đơn lạc lõng, niềm tuyệt vọng và phẫn nộ biến
thành thơ. Bởi thơ là cõi riêng của tâm hồn người nên tự nó, thi ca nói
lên tất cả, những u tình, hạnh phúc và đau khổ của đời người. Ở đây
người thơ mãi độc hành trong cuộc lữ mênh mang:
Tôi đi không một âm vang
Nhạc rung không tiếng lên đàng không dây
Tôi đi chưa đó chưa đây
Tôi về hoa lá cỏ cây đổi màu
Tôi đi không trước không sau
Tôi về ngày cũ đêm sâu lụn tàn
Trong sự im lặng đó chỉ có tình thương bao la mới
sưởi ấm được trái tim người. Lòng Từ rộng mở những giọng thơ thấm nhuần
tình đạo là khúc hoan ca làm ấm lòng người viễn xứ. Trên đường đời, ông
gặp những em bé mồ côi, chị bán hàng rong, những người khuyết tật, những
bệnh nhân giàu và nghèo, những con chim nhỏ, cỏ cây hoa lá, đá
cuội…Chính phần đạo ca trong thơ lục bát, phần tả cảnh thiên nhiên, là
ánh sáng tâm linh chiếu sáng khắp cõi vô thường. Hồi ức về thời thơ ấu ở
một xóm quê nghèo khi trở về thăm lại mái chùa xưa, khi bước chân lên
đường tiếp tục cuộc hành trình…Ông tự cho mình là kẻ du thủ trong hóa
thân một nhà sư, không còn ray rứt bởi niềm đau nhân thế, nỗi cô đơn
của kẻ độc hành giờ đây hóa giải. Có khi nhà thơ hóa thân thành con chim
nho nhỏ mà tình thơ thì thanh thoát.
Một cánh cửa khác đã mở ra cho người đọc trên những
dòng thơ ông viết:
Bốn mùa thay đổi mới dễ thương
Ươm mơ sự sống mộng bình thường
Bốn mùa tương tức nhồi sinh lực
Khá biết nhau nghe mới tỏ tường
Bốn mùa cho hết cõi nhân gian
Nặng nhẹ chi cho lắm bẽ bàng
Khá biết bốn mùa thay đổi mãi
Biết rồi thì tích tịch tình tang
Trang 60/q1
Lòng từ bi là con thuyền đưa người đi qua bao nhiêu
cửa ải khắt khe của cuộc đời. Những vần thơ đẹp nhất là những vần thơ
trữ tình nhất. Tình thơ cũng như tình yêu, vượt trên thiện ác, nằm ngoài
mọi lý luận so đo. Tự bản thể của thi ca – đạo ca là vô phân biệt trí.
Để: “Giữ lại cây đào trước sân” ông đã :
Mang thơ đi khắp cuộc đời
Rải thơ cùng khắp chơi vơi trên ngàn
Dù ai đã bán trăng vàng
Còn tôi gõ tiếng tao đàn thân thương.
Những hình tượng đẹp nhất trong thơ lục bát Mặc Giang
thì rất nhiều. Ấn tượng mà ông đem lại cho người đọc, là tình yêu quê
hương đất nước, mái chùa thân thương, xóm quê nghèo yêu dấu…Hai câu thơ
:
Ai ngiêng nắng đổ về tây
Cho chim Hồng Lạc buồn bay cuối trời.
Hình ảnh “chim Hồng Lạc buồn bay cuối trời”
rất gợi!
Một lần nữa, người đọc tìm thấy cánh cửa vô môn quan
mở ra trên chiều sâu của BÁT NHÃ TÂM KINH với những điệp từ tự nhiên :
Ô hay, các bụi mây hồng
Kê thành xây mộng kết vòng thiên nhai
(Xây mộng kê thành . Trang 49/q6)
Ô hay, cát bụi mây hồng
Cành không điểm nụ, trổ bông mỉm cười!
Trang 106/q2
Ô hay, cát bụi mịt mờ
Đóa hồng mỉm nụ bên bờ trầm kha!
Trang 93/6
Phù sinh cát bụi mây hồng
Rong rêu đem vẽ tang bồng mà chi.
Một chút gì đó của Kinh Kim Cương:
Quẳng đi cái nghiệt đảo điên
Não phiền biến mất, bình yên hiện về
Quẳng đi cái nghiệt ê chề
Khổ đau nhường chỗ bốn bề an vui
Vành khô đã gắn môi cười
Đừng bi lụy nhé, hỡi người thế nhân!
Trang 92/6
Cuối cùng, một lần nữa, cánh cửa Vô môn quan mở ra rồi
khép lại với : Tiếng chuông vang vọng ngân
dài
Nào ai mê ngủ, nào ai tỉnh hồn
… Giật mình gối mộng thiên thai
Bừng trong giấc ngủ mê dài đã lâu
Rụng rơi một cõi tinh sầu!
2. Trọn bài thơ sử dụng đối ý, đối ngữ, vận dụng rất
nhuần nhuyễn phép “tương tức đối đãi” của thập nhị nhân duyên trong nhà
Phật mang đầy tính chất thiền. Ông không ngần ngại sử dụng điệp từ, mỗi
lần mỗi ngữ cảnh, một tâm trạng khác nhau. Có đi sâu vào cõi thơ ông ta
mới có thể nhận ra, một lúc nào đó…nhưng hãy cùng nhau đọc đã. Gượm
chút đã nào.
Cô đơn, nỗi cô đơn tưởng chừng vô tận kiếp, với những
dặm mù, tăm cá, biệt tăm, dặm băng, giấc mộng, mơ…trong cuộc đời ba chìm
bảy nổi của người đi:
Xạc xào gió động rung cây
Rụng rơi xác lá lay lay hoang tàn
…
Chẳng may nghiệp dĩ xa lìa
Biệt còn không biết còn chia nỗi gì
Kẻ thân người sơ, niềm thương nỗi nhớ như một giấc
mơ. Những bóng chim tăm cá, những chiêm bao, mộng huyễn, những tang
thương, dâu bể, tử sinh, những niềm kia nỗi nọ…Những mong chờ, giọt
sương khuya, ánh trăng vàng…Rất gần gũi với người đọc, nhắc ta nhớ đến
Nguyễn Du:
Ta thử tìm xem:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím nầy
(Truyện Kiều)
Thân sơ, bặt tích mịt mù
Ghét thương, bặt dấu thiên thu xa mờ
(Mặc Giang)
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh
(Truyện
Kiều)
Lênh đênh bến đậu, cuối trời lênh đênh
…
(Nỗi niềm còn
đó – Mặc Giang)
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
(Truyện Kiều)
Người về góp nhặt ly tan
Người đi rơi rụng cung đàn biệt ly
…
Người đi về đến nơi nào
Người quay mạnh bước mà sao khóc thầm
…
Người đi thôi thế là xong
Người về thôi thế buồn không đêm dài.
(Một chuyến giã từ - Trang 21/q1)
Chiều tà én liệng truông mây
Hoàng hôn khép cánh nỗi này tình kia
TRĂNG là chứng nhân cho bao nhiêu cuộc tình đẹp và bao nhiêu dâu bể.
Trăng có thể là một ám ảnh của Mặc Giang chăng? Rất nhiều lần ông nhắc
đến trăng như một ám ảnh từ tấm bé, có khi như một người bạn.
Trăng treo vàng vọt xa gần
(Gõ cửa giọt
không) trang 8/7
Vầng trăng mười sáu chia đôi
Nửa từ quê cũ, nửa trôi quê người
( Từ đó xa
mờ ) tr/ 1
Rất đẹp! Viết thơ dùng toàn hình ảnh để diễn tả niềm
nhớ quê hương.
Vầng trăng ngiêng nửa mái đầu
Nửa in dưới biển, nửa chầu lên non
…
Dặm ngàn sẵn ánh trăng soi
Đường trường mở lối vạn lời hoan ca
(Một chút lưu tình) trang 55/8
Lung linh bát ngát trăng rằm
Nâng tay đỡ cánh hoa đàm thơm hương
Trang 47/8
Trăng sao kinh ngạc khép màn hư vô
Trang
118/q 3
Vầng trăng một mảnh cuối bờ cô liêu
Trang
28/10
Có ít nhất…hai mươi lần vầng trăng được nhắc đến
trong thơ ông, chép ra đây thì dài quá.
BUỒN
cũng thường xuyên được nhắc đến trong các điệp từ:
Buồn trông chiếc lá la đà
Đan tâm đoài đoạn, xót xa sao đành
….
Đèn khuya chợt tắt , giật mình buồn trông
(Tôi còn đứng đó
với tôi )tr /100
Tầng không én liệng buồn bay cuối trời
( Đỡ nét mây ngàn) trang 118/2
Buồn trông nước chảy qua cầu
Quyển 2
Đi như những cuộc chiêm bao
Buồn không, ai vẽ cây đào trước
sân quyển 2
Ta xin vén lớp mây ngàn
Để tìm sao lạc lang thang cuối trời
( Đỡ nét mây ngàn) quyển 2
Vầng trăng một mảnh chênh vênh
Dõi soi chiếc bóng lênh đênh cuối trời
…Thâu canh le lói bên đèn
Buồn trông đổ xuống dưới thềm trơ vơ
( Một mảnh trăng
mờ) trang 14/10
Buồn trông thu tím la đà
…
Một mai sóng vỗ đầu ghềnh
Thuyền du chiếc bóng mông mênh cuối trời
( Ai thương) trang
45/9
NỬA
cũng không ít.
Nửa đời một cuộc tử sinh
Nửa mang nửa gởi chút tình trần gian
Trang 36/quyển1
Nửa đời phiêu lãng đi qua
Nửa đời đứng lại còn ta với mình
Trang 126/2
Nửa đời như một giấc mơ
Trăng soi đáy nước bóng chờ đầu non
Tr126/2
Tìm trong câu nói tiếng cười
Nửa in dấu ngọc nửa khơi vô thường
Tìm trong le lói tà dương
Nửa hong giọt nắng, nửa vương ráng chiều
Tr119/2
Nửa bên này tôi đập dũa tôi chơi
Nửa bên kia tôi luyện tôi gang sắt
Nửa bên này phải đày cho thấm mệt
Nửa bên kia không động đậy mảy may
Nửa vầng son thắm đong đầy
Nửa vầng ấp ủ niềm tây ửng hồng
Nửa vầng chị giữ trên ngàn
Nửa vầng tôi giữ trên đàng tôi đi
( Nửa vầng trăng) trang
171/8
Nửa này gió bụi phong trần
Nửa kia phân mục góp phần quê hương
( Cha về thăm lại quê
nhà)
Nửa thân còn lại đang mang
Biết bao đồng đội nát tan mấy lần
Nửa thân còn lại cơ bần
Biết bao đồng đội tấm thân sao
tìm
( Cha về thăm lại quê
nhà)
Thay phần kết.
Những gì Mặc Giang đang để lại cho đời chính là cõi thơ của
ông, kể cả nỗi buồn kể cả niềm vui kể cả hạnh phúc hay đau khổ. Ở một
nơi xa ngái bên trời tây lại có một trái tim nhân hậu, một tấm lòng luôn
tưởng nhớ đến quê nhà với những vần thơ sáng trong, bình dị như trăng
rằm và cũng vô vàn ẩn ngữ, như cuộc đời. Mấy ai viết được những gì mình
muốn viết mà không chở theo đó ít tâm tình đau đớn, khắc khoải hay hoan
lạc? Nhưng dù là bi thê cõi tạm thì tình thơ luôn đứng trên thiện ác
trên những gì gọi là luận lí so đo. Dưới bóng thiền môn, thơ không còn
là ẩn ngữ và tứ thơ thì có khi thật ác liệt mà thật vô biên:
Chữ tròn khép lại chữ vuông
Rụng rơi cát đá, vỡ tuông ngọc ngà
Chữ gần khép lại chữ xa
Không gian nín thở, nữa là thời gian
Tất
cả trong một, một trong tất cả, tình thơ và hồn thơ lai láng khôn cùng.
Thực tại không bao giờ là chốn lưu đày và tình thơ thì Không Không.
Trong cõi thơ bất tử, vằng vặc ánh trăng vàng qua kẽ lá.
Vầng trăng mười sáu chia đôi
Nửa từ quê cũ, nửa trôi quê người.
Và đó là cái tình sâu thẳm của người ở bên kia bờ đại dương
trùng trùng sóng vỗ gởi đến chúng ta. Kính phục thay!
Phương thảo viên, giữa mùa
đông.
Hương Tâm cẩn chí
Tháng 11 - 2008
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/gocua.htm