- Có
nên trồng cây, bố thí thức ăn cho chim không?
Kính thưa
Thầy,
Cảm ơn Thầy
đã giải đáp những thắc mắc lần trước cho con. Bây giờ con có một thắc
mắc nữa, thỉnh thoảng làm con suy nghĩ, nay kính nhờ Thầy chỉ giúp cho
ạ.
Con xin kể
Thầy nghe, số là con rất thích cây cối, và sau lưng nhà có chút đất dư
nên con trồng một cây chanh, một cây quýt, vài bụi xả, 6 cây ớt và ít
rau thơm, nói chung là linh tinh đủ thứ cả. Con rất thích chim chóc, nên cũng
có một cái bird bath để cho chim uống nước và một thùng đựng thức ăn
dư để chim thỉnh thoảng xuống ăn. Có lần gia đình vì dư cơm tính ra tới
vài lon gạo, thế mà trong ngày ấy những chú chim ăn sạch.
Khi tới mùa
mưa về, nhiều loại côn trùng và ốc
sên sản sinh, và chúng bắt đầu phá hoại mấy cây con trồng. Con không biết
phải xử trí như thế nào khi vườn có nhiều sên, côn trùng? Nếu mình
không bắt chúng thì chúng sẽ phá tan hoang vườn của mình, còn nếu mình
bắt chúng đi thì xử trí những con này ra sao cho hợp với tinh thần không
sát sanh của đạo Phật? Con có nên tiếp tục trồng cây, bố thí thức
ăn cho chim nữa không?
Rất mong nhận
được sự chỉ bảo của Thầy. Con cảm ơn Thầy thật nhiều.
Kính chúc
Thầy luôn tinh tấn trong việc hoằng pháp lợi sanh.
Phật tử
Như Ngọc
Ý
thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh
đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện
không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ
khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của
con.
Thầy thân
chào Phật tử Như Ngọc,
Trước hết,
Thầy vô cùng tán thán lòng thương yêu các loài động vật của Phật tử
cũng như tinh thần tinh tấn học hỏi giáo pháp đạo đức, từ bi và trí
tuệ của đức Phật.
Tánh thương
người mến vật là một đức tính rất quý.
Đức tính nầy chỉ hiện hữu và được phát triển mạnh ở
những người có tâm từ, lấy niềm vui người khác làm niềm vui của
mình. Phật tử hãy cố gắng tu tập từ bi tâm nhiều hơn nữa để tưới
tẩm hạt giống thương yêu quý báu này. Như Phật tử đã biết, vô lượng
kiếp sanh tử luân hồi, vay nhân trả nghiệp, thay hình đổi dạng nên kiếp
này không biết ai là cha mẹ, chồng vợ, anh em, con cái của mình. Nhiều
khi các loài động vật mà mình gặp
cũng chính là thân nhân trong gia đình
hoặc thân hữu trong nhiều đời.
Chuyện
Tiền Thân của Đức Phật (Jàtaka) kể rất nhiều câu chuyện thuở
quá khứ xa xôi về trước, khi đức Phật còn là các chúng sanh bậc thấp
như sư tử, voi, khỉ, nai.... Đến khi
đức Phật thành đạo rồi, Ngài nhận diện nhiều người thân hoặc các
đệ tử của Ngài có nhiều mối liên hệ với nhau từ thuở xa xưa ấy.
Kinh điển có ghi lại câu chuyện của tôn giả Xá-lợi-phất và tôn giả
Mục-kiền-liên độ một đám đông đệ tử, mấy vị mới xuất gia này
làm ồn ào, náo nhiệt, làm phiền đến chư Tăng. Lúc bấy giờ có vị thưa
với đức Phật về sự kiện nầy. Sau khi biết như vậy, đức Phật dạy
các vị đó phải giữ oai nghi, hạnh kiểm để phù hợp với tư cách của
một người Tỳ-kheo và đồng thời giữ sự yên tĩnh cho các vị đồng phạm
hạnh khác. Sau đó, đức Phật xác nhận thuở quá khứ, nhiều kiếp về
trước, đức Phật xác nhận tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cũng
đã thường cho một bầy quạ ăn, vì nhân duyên đó, đến kiếp này, chúng được làm người
thì đều làm đệ tử của hai tôn giả, nhưng vì tập khí sâu dày nên
chúng vẫn ồn ào, ô tạp như quạ vậy! Do đó, trong khả năng có thể của
mình, thương yêu các loài động vật nhiều chừng nào quý chừng ấy. Đó
cũng là một lối sống bỏ bớt cái ngã ích kỷ của mình và tập thương
yêu chúng sanh. Khi các tâm lý ích kỷ "thuộc về tôi", "của
tôi" bớt đi, và hạt giống thương
yêu chúng sanh bắt đầu nảy mầm, chắc chắn chúng ta và những người
xung quanh sẽ có một cuộc sống hạnh phúc hơn.
Lại nữa,
tâm thích trồng cây cũng là một tâm rất quý. Thầy mong mọi người trên
quả đất nầy đều thích trồng cây như Phật tử thì quý biết bao. Hiện
nay tình trạng phá cây, đốt rừng ảnh hưởng đến môi sinh trái đất rất
lớn, hiện tượng "hiệu ứng nhà kính" đang là một trong những mối
đe doạ lớn nhất của loài người. Các nạn hạn hán, lụt lội xảy ra
ở quê hương Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới là "món quà bất
đắc dĩ" bị thiên nhiên trả ngược lại cho con người. Các nhà sinh
thái học đã phải khản tiếng kêu gọi con người hãy ý thức hơn để bảo vệ môi sinh, cứu lấy sự sống
cho người và muôn vật. Do đó, Phật tử thích trồng cây ăn trái, cây có
bóng mát hoặc các loại cây là một điều quý. Trước nhất nó làm tươi
mát nơi mình đang ở, và thứ đến nó góp phần thanh lọc hoá bầu khí
quyển này.
Vấn đề
Phật tử hỏi: Hàng Phật tử phải làm như thế nào khi bị bắt buộc phạm
giới sát nhỏ, đi ngược lại tinh thần đại bi bình đẳng đối với tất
cả loài hữu tình. Qua câu hỏi, Thầy đọc được tâm trạng thương xót
các loài động vật, không muốn làm tổn thương đến sinh mạng của tất cả chúng sanh, ngay cả
đến côn trùng nhỏ nhít của Phật tử. Trước đây, cũng có một vài Phật
tử đặt câu hỏi với Thầy tương tự như vậy.
Ở Việt
Nam, các tự viện ở miền quê không được tín chủ ủng hộ vật chất
nhiều, nhất là thời kỳ "kinh tế mới", các tự viện đều phải lấy thanh quy của
Tổ Bách Trượng làm quy chế của thiền môn "Nhất nhật bất tác, nhất
nhật bất thực" nghĩa là một ngày không làm, một ngày không ăn. Do
đó, chư Tăng Ni hầu hết phải ra đồng trồng lúa, lên nương trồng
khoai, sắn, v.v... để đắp đổi qua ngày mà tu học. Hiện nay, phần lớn
chùa quê ở Việt Nam vẫn phải sống theo chế độ thanh quy này. Như chúng
ta thấy, một khi đã phải làm lụng đồng áng như vậy rồi làm sao không
tránh khỏi làm tổn hại đến đời sống của sâu bọ, côn trùng. Đứng
trước tình cảnh đó, nhiều Phật tử đã đặt nghi vấn, và cũng có Phật
tử kết luận ngay: chư Tăng Ni đã phạm giới sát rồi.
Đứng trên
tinh thần đại bi tuyệt đối của các hàng xuất gia, theo như giới luật
quy định thì từ các loài động vật to lớn chí đến các loài bò bay
máy cựa, côn trùng nhỏ nhít cũng không được i) tự giết, ii) bảo người
khác giết, hoặc iii) thấy giết vui
lòng theo. Nếu vị xuất gia nào phạm vào 3 điều trên đều bị xếp vào
phạm giới sát cả. Dĩ nhiên, còn phải dựa
trên nhiều yếu tố khác để phán quyết vị ấy tội nặng hay nhẹ, chứ
không phải dựa vào hành động đương làm hoặc kết quả, mà chúng ta vội
buộc tội thì không đúng với nguyên tắc lời Phật dạy. Do đó, trong giới
luật của chư Tăng Ni chia ra thành nhiều cấp độ. Giới cho Tỳ-kheo, giới
cho Tỳ-kheo-ni, giới cho Sa-di, Thức-xoa-ma-na
hoặc sa-di-ni. Trong cách xác định tội nặng nhẹ cũng vậy,
cũng chia thành nhiều cấp độ, nói chung là 5 cấp độ khác nhau cho cả Tỳ-kheo
và Tỳ-kheo-ni, cộng thêm nhóm tội đang được xét duyệt (thâu-lan-gía)
và các phương pháp hoá giải tranh chấp (bảy pháp diệt tránh). Vấn đề
nầy hết sức rộng và vi tế, Thầy chỉ trình bày vấn đề một cách sơ
lược cho Phật tử tạm hiểu vậy thôi.
Lại nữa,
một trong những nguyên nhân an cư vào mùa mưa ở Ấn Độ thời đức Phật
còn tại thế cũng vì để tránh tình trạng các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni dẫm
đạp các loại côn trùng nhỏ nhít vừa mới sinh ra trong mùa mưa. Không những
vậy, Phật dạy chư Tăng mỗi khi uống nước phải khởi tâm thương xót
đến các loài siêu vi trong bát nước mà mình đang uống nữa.
Còn riêng
giới sát của hàng Phật tử thì nhẹ hơn một chút. Vì môi trường sống
của một Phật tử tại gia có khác với môi trường sống của hàng xuất
gia, nên phạm vi đạo đức cũng có phần khác. Do đó, tuy cũng là giới
"cấm không sát sanh", nhưng người xuất gia thì tuyệt đối không
được phép sát hại sanh mạng chúng sanh nào như ở trên đã nói, còn một
vị cư sĩ thọ trì năm giới, với đời sống của một người có gia đình
thì giới sát sanh được áp dụng nhẹ hơn. Không sát sanh ở đây được
hiểu là không giết các loài động vật lớn như heo, bò, chó, ngựa, còn
các loài động vật nhỏ khác thì cố gắng tránh trong khả năng có thể của
mình. Cũng nên nhắc ở đây, người cư sĩ thọ Bồ-tát giới theo tinh thần
của Phật giáo Đại Thừa cũng phải tuân thủ tương tự như người xuất
gia, chứ không phải thọ giới là để nhẹ tội hơn khi lỡ phạm giới sát,
đạo, dâm, vọng ... hoặc cho phép mình tham gia các hoạt động xã hội với
các hành vi sai lạc như uống rượu, ăn thịt v.v... như một vài Phật tử
đã ngộ nhận. Nói một cách tổng quát, đức Phật khuyên các hàng Phật
tử hạn chế sát hại các loài động vật tối đa, ít sát hại chừng
nào thì quý chừng ấy, vì mình đỡ phải trả cái quả vay mượn máu thịt
và tổn hại chúng sanh, đồng thời để trưởng dưỡng hạt giống từ bi
trong tâm mình nữa.
Viết tới
đây, không phải như vậy là Thầy đã cho rằng, một cư sĩ như Phật tử
Như Ngọc có quyền sát hại các loài động vật đáng tội nghiệp kia. Đạo
đức của một Phật tử không chỉ dựa vào giới luật quy định để đánh
giá, mà chủ yếu phải căn cứ trên động cơ. Chính động cơ là nhân tố
để đánh giá việc làm đó thiện hay bất thiện.
Như chúng
ta biết, đạo đức thuộc phạm trù của tâm lý chứ không thuộc phạm
trù của luật pháp. Luật pháp chỉ thể hiện một phần nào của đạo đức,
chứ tự thân luật pháp không thể hiện được đạo đức. Vì luật pháp xã hội hay luật pháp tôn
giáo mang tính quy ước tương đối, còn rất nhiều kẽ hở. Do đó, một
người không phạm pháp, không vào nhà giam, nhưng chưa chắc người ấy là
người có đạo đức. Phần lớn con người chỉ cố gắng sống như thế
nào để không phạm luật, để khỏi vào tù. Sống như vậy cũng quý, vì
hạn chế bớt các tội phạm, tệ nạn của xã hội có thể xảy ra. Tuy
nhiên, theo quan điểm đạo Phật, điều
đó chưa đủ để đánh giá con người ấy là một con người có đạo đức
hay không.
Luật pháp
nhân quả của đạo Phật vi nhiệm hơn luật pháp của thế gian nhiều, vì
nó căn cứ vào tâm chứ không căn cứ vào tướng. Tội phạm có thể qua mặt
được luật pháp vì họ có thể dùng các trò mưu mẹo, ma mãnh để thoát
khỏi tù tội kiếp này, nhưng không thể nào qua mặt được luật nhân quả
của vũ trụ. Hiện tượng thuê luật sư bào chữa cho các can phạm, trên một
phương diện nào đó, nó phản ánh sự bất lực và không hoàn thiện của
luật pháp thế gian.
Một tên
trùm đầu sỏ điều khiển một tổ chức phi vụ nào đó, nếu tính số nạn
nhân do tự tay hắn giết, bắt cóc, cưỡng bức và các tội ác vô luân
khác thì không bằng số nạn nhân mà do những tên tâm phúc của hắn đi làm,
nhưng xét ra tội của tên trùm ấy nặng gấp trăm nghìn lần những tên
tay sai. Như vậy tội ác của hắn được thể hiện rõ là trong động cơ
chứ không phải những gì được thể hiện qua hành động. Chính cái ý hắn
muốn giết người, đoạt của mới là quan trọng. Mặt dầu luật pháp
ngày nay đã thấy được điều đó, nhưng chưa lập thành công thức để
tiêu chuẩn hoá và ứng dụng rộng rãi trên toàn xã hội.
Trong Kinh
có rất nhiều câu chuyện liên quan đến tiêu chuẩn đạo đức và cách đánh
giá đạo đức. Câu chuyện Con Ngộ Sát Cha trong Kinh
Hiền Ngu được HT. Thích
Trung Quán dịch là một điển hình xác định tội lỗi là do tâm chứ
không phải do tướng. Bốn mươi sáu câu chuyện trong Kinh nầy rất bổ
ích cho việc bồi dưỡng đạo đức nhân quả và niềm tin cho con đường
mà mình đã chọn rất nhiều. Do đó, nếu Phật tử chưa có duyên đọc thì
nên gắng đọc từ từ để học hỏi thêm.
Trong Luật
Tạng cũng ghi lại nhiều câu chuyện liên quan đến việc đánh giá có tội
hay không có tội. Chú
Giải Luật Thiện Kiến của Phật giáo Nam
Tông có ghi Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc (Uppalavannà) vì bị nghiệp "thanh sắc"
trong nhiều đời trước và đời này, nên đến khi xuất gia chứng thánh
quả rồi mà vẫn phải trả nghiệp "bị cưỡng bức". Lúc bấy giờ
Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc liền khởi tâm quán tưởng thân thể người đàn
ông hại mình như là hòn sắc nóng, tâm thức hoàn toàn không có cáu bẩn
dục vọng. Câu chuyện được các vị Tỳ-kheo-ni khác thưa với đức Thế
Tôn, và Ngài xác nhận là Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc hoàn toàn vô tội, không
có phá huỷ phạm hạnh của mình.
Chiếc
"chìa khoá vạn năng" để mở các cánh cửa thuộc vấn đề tâm
lý đạo đức theo Phật giáo, đó là "động cơ" hay còn gọi là
"chủ ý", "tác ý", tiếng Pàli
là "Cetanà". Một hành động được gọi là Nghiệp là
phải có "tác ý", nếu không có tác ý nó trở thành vô ký, nghĩa
là không tội không phước, không đủ sức tạo thành một dẫn nghiệp để
trở thành một việc làm xấu hay tốt. Nhưng Phật tử cũng nên lưu ý rằng
chỉ có các vị chứng quả A-la-hán mới có được những tâm niệm vô ký
hoàn toàn, trong Thắng Pháp Tập Yếu Luận gọi tâm đó là "tâm
duy tác" (Kriyà hoặc Kriyà), nghĩa là làm mà không hề dụng tâm gì cả,
ngay cả tâm thiện, cũng không có, đây là tâm diệu dụng của một vị
A-la-hán, nó vượt thoát nhân quả. Còn phần lớn chúng ta dù có "cố
vô tình", "cố trung lập" như thế nào, trong tâm cũng có một
khuynh hướng thiện hay ác nào đó tiềm ẩn mà chúng ta không phát hiện
ra. Các trạng thái tâm không thiện không ác này khi được các duyên thiện
hay ác thì nó liền theo khuynh hướng đó. Các Phật tử nên cẩn thận các
tâm nầy. Các tâm niệm ác thường có
những lý luận rất khôn ngoan, nếu chúng ta không có một đời sống nội
tâm thật vững vàng thì dễ bị chúng lạc dẫn dưới nhiều cách nguỵ biện
khác nhau.
Cho nên, mặc
dầu Thầy đã nói "động cơ" được xem như là hạt nhân để đánh giá đạo đức hay không có đạo
đức qua việc làm hay ngôn ngữ của con người. Tuy nhiên, tiêu chuẩn đánh
giá đó vẫn chưa được hoàn bị. Vì rằng, có trường hợp động cơ rất tốt, nhưng kết quả đem lại không
được tốt thì hành động, hay ngôn ngữ xuất phát từ động cơ tốt đó
vẫn không thể xem hoàn thiện được. Do đó, một tiêu chuẩn khác để đánh
giá thiện hay bất thiện buộc chúng ta phải dựa vào kết quả. Đây là
chưa bàn đến đối tượng bị hại, tức nạn nhân và các duyên phụ để
đánh giá vấn đề. Đây là một vấn đề lớn thuộc đạo đức học của
Phật giáo, Thầy chỉ trình bày một phần rất nhỏ của vấn đề.
Trở lại vấn
đề chư Tăng, chư Ni ngày nay, nhất là các tự viện ở miền quê phải
canh tác, như vậy có phạm tội không? Chắc Phật tử đã tìm ra câu trả
lời. Dĩ nhiên, nếu được sự hỗ trợ của cư sĩ cúng dường thì đời
sống phạm hạnh giữ được hoàn hảo hơn. Nhưng trong trường hợp hàng Tăng
Ni không được sự ủng hộ cúng dường của cư sĩ Phật tử, các vị phải
tự canh tác theo phương châm "dĩ nông vi thiền" (lấy nghề nông
làm thiền), phải chấp nhận sự bất đắc dĩ là còn tạo nhiều duyên
nghiệp, chưa rốt ráo theo tinh thần "một bát cơn ngàn nhà" theo lời
Phật dạy. Điều này chúng ta phải xét đến bối cảnh xã hội mà chúng
ta đang sống cho phép hay không nữa, và do đó, chúng ta không nên vội kết
tội chư Tăng Ni canh tác, có một phần nhỏ làm thương tổn đến đời sống
chúng sanh là phạm giới sát.
Trường hợp
vườn rau của Phật tử thì như vầy, mình cũng không thể không trồng
cây, hay không trồng các loại rau quả góp phần xinh tươi cho đời sống
gia đình. Mà trồng các loại thực vật thì tất yếu những loại sâu bọ
phát sinh. Nếu chúng ta không bắt sâu bọ thì các sâu bọ lại phá hoại
cây cối chúng ta trồng. Do đó, giải pháp theo Thầy nghĩ, là mình bắt
sâu bọ bằng một tâm niệm bất đắc dĩ, vì mình không thể làm khác hơn
được. Đừng có bắt sâu bọ xong rồi với tâm niệm căm ghét, giết hại
chúng ngay lập tức. Đừng bắt chúng với bản năng hiếu sát của mình.
Phật tử
nên lưu ý, vì tâm hiếu sát, thích tranh đấu là một trong các bản năng của
con người. Con người phàm phu ai cũng
có cả, chỉ khác nhau là ở dạng thô hay tế, tiềm ẩn hay đã phát tác. Khi chúng ta chưa chứng quả vị A-na-hàm
trở lên, ai cũng có ít nhiều thuộc tính tâm lý bất thiện nầy và chúng
sẽ hiện hình khi chúng có cơ hội. Do đó, một Phật tử chân chánh nên
phải cẩn thận quán sát tâm mình, không nên để các tâm niệm bất thiện
đó trá hình và phát tác dưới mọi hình thức.
Nhân đây,
Thầy kể vài tâm sự những ngày đầu tiên qua đất Ấn cho Phật tử
nghe. Những ngày mới bước chân đến Ấn Độ, Thầy ngạc nhiên lắm. Vì
loài vật và con người sống vô cùng thân thương với nhau. Gần trường
Đại học có nhiều khu rừng gần như nguyên sinh, khỉ, sóc sống trong đó
rất nhiều. Người Ấn rất thương các loài động vật, họ cho chúng thức
ăn. Ở một vài ngã tư đường phố lớn hoặc trong các bùng binh thành phố,
họ thường rải thóc cho chim, sóc ăn. Cuộc sống giữa con người và động
vật gần nhau đến lạ kỳ. Chim chóc, sóc nhạn, nơi nào cũng có và chúng
sống hồn nhiên vô tư, không có hoảng sợ như ở Việt Nam mình. Chúng gần
như là một bộ phận bất khả phân
ly của cộng đồng người Ấn vậy. Những ngày mới qua Ấn, Thầy bị
tác động rất mạnh trước cảnh thanh bình của chim chóc với một xã hội
cũng lắm phiền phức nầy, rồi lại nhớ đến cảnh tượng hãi hùng của
những chú chim non, những con sóc, bầy khỉ tội nghiệp ở Việt Nam phải
sợ hãi con người đến khiếp vía, làm Thầy cứ suy nghĩ hoài. Sao lòng từ
bi của người Việt Nam mình không được vun
bồi nhỉ? Sao người Việt mình ăn các loài động vật gần như không chừa
con nào cả? Người Tây phương qua du
lịch Việt Nam họ phải lắc đầu le lưỡi khi thấy một vài người biểu
diễn các món ăn "chưa từng thấy" đối với họ, mặc dầu họ
đã đi du lịch nhiều nơi rồi.
Nói đến vấn
đề này, Thầy cũng lại nhớ đến việc sát sanh hại vật của một số
người Việt. Chuyện lạ lùng thật, tay họ cầm con dao cắt tiết con gà,
mắt không hề nháy, mày không hề nhíu, tay chẳng hề run, tâm chẳng hề động, thế mà miệng
lại tụng "Chú Vãng Sanh" để cầu siêu độ cho con gà, con vịt đó.
Rồi họ còn cố bào chữa, nguỵ biện cho rằng giết gà, giết vịt, giết
heo như vậy là "hoá kiếp cho chúng". Thật không biết cái đạo lý
mê hoặc nhân tâm, thiếu đạo đức, thiếu trí tuệ, đưa con người vào
hố sâu tội lỗi này do ai truyền cho, mà ngày nay ở Việt Nam đạo lý ấy
vẫn còn tồn tại!.
Phạm vi vấn
đề này rất rộng. Thầy hy vọng rằng Phật tử đã hiểu được phần
căn bản mà Thầy đã trình bày. Còn nếu vấn đề nào chưa lĩnh hội được
thì Phật tử có thể thỉnh ý của chư Hoà Thượng, Thượng Toạ, Đại
Đức Tăng Ni khác, hoặc trao đổi với Thầy sau.
Lời cuối,
một lần nữa Thầy tán thán tấm lòng thương yêu loài vật và sự lo sợ
tội lỗi của Phật tử. Vì đó là những hạt giống rất tốt cần phải
tưới tẩm, vun xới, chăm bón hơn nữa trong mảnh đất tâm của mình.Thầy
cầu chúc Phật tử luôn đến với giáo pháp, học hỏi những lời dạy
quý báu của đức Phật, để làm giàu đời sống tâm linh cho mình.
Cầu chúc
toàn thể gia đình Phật tử luôn sống trong
môi trường đạo đức và hiểu biết như gia đình vốn có.
Thân chúc,
Thầy Giác
Hoàng.
http://www.buddhismtoday.com/viet/hopthu/trongcay_bothichochim.htm