Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Hãy thử lấy mắt
Đạo Học Nhìn Khoa Học

 

Thích Thông Huệ(1)

Khoa học là hình thức đa thù của cuộc sống.

Đạo học là nội dung thuần nhất của cuộc sống ấy.

 

Lời giới thiệu: Thế kỷ thứ 21 được mọi người nghĩ là thế kỷ của Khoa học. Những tiến bộ vượt bực của Khoa học trong thế kỷ này đã đưa nền kinh tế thế giới, do đó mức sống nhân loại nói chung lên cao chưa từng thấy. Cho nên người ta nghĩ Khoa học chính là nền tảng của tiến bộ, phải là  thước đo cho mọi tiến bộ. Người ta lấy mắt Khoa học nhìn vào mọi chuyện để định hay dở, đôi khi phải trái. Thế nhưng, cùng với cao độ của nền kinh tế thế giới nhờ Khoa học, những thống khổ của con người - thương vong và tử vong vì chiến tranh lan rộng, giết chóc, tàn phá, chạy chốn, giam cầm,tra tấn, tù đầy, căm thù, báo oán, đói khổ, phá hoại môi sinh..- vẫn không giảm sút, mà chỉ có chiều hướng gia tăng, cũng nhờ áp dụng kỹ thuật Khoa học như vỏ khí nhiều hơn, tàn độc hơn giam cầm tra tấn tối tân hơn, chủ nghĩa tiêu thụ (consumerism) được khuyến khích nhiều hơn…Hạnh phúc nhân loại và Khoa học dường như không song hành. Thượng tọa Thích Thông Huệ đã làm ngược lại là lấy con  mắt Đạo học nhìn vào Khoa học để tìm một hướng đi mưu cầu hạnh phúc cho con người.

 

Phần chính văn là một đoạn văn trích  trong cuốn”Thiền trong đời thường” của Thượng tọa Thông Huệ. Phần phụ đính là của người giới thiệu để làm sáng tỏ thêm vấn đề. Bạn đọc muốn xem toàn bộ cuốn sách xin liên lạc với bất cứ thiền viện nào thuộc hệ thống Trúc Lâm của Hòa thượng Thích Thanh Từ, để được sách biếu không

 

***

 

Pascal nói: “Tôi tư duy, do vậy tôi hiện hữu” (Je pense, donc je suis)(2). Tư duy là hành vi của ý thức, có phân biệt chủ thể và đối tượng, có lúc sanh lúc diệt, khi đến khi đi. Nếu nhận tư duy là mình thì không suy nghĩ gì cả mà vẫn biết. Cái biết đó là ai? Và nếu tư duy là mình thì chẳng lý nào mình lại biến thiên nhiều mặt, buồn vui thiện ác… đến thế? Quan niệm “có tư duy là có mình” thật ra cũng hợp lý trên phương diện Tục đế nhưng không chính xác trên Chân đế, bởi vì ta lầm cái giả ngã động dụng là mình mà không thấy chân ngã bất động, nhận hình tướng sai biệt đa thù mà không nhận bản chất  thuần nhất bất sanh. Đây là sự mê lầm của con người, và chư Phật thương chúng sanh một cách bình đẳng cũng vì cái vô minh ấy.

 

Ngày nay, Khoa học đã đi đôi hia bảy dặm, để có những bước đột phá về cả hai lãnh vực vũ trụ và nhân sinh. Tinh thần Khoa học là dám hoài nghi và tiếp thu có chọn lọc những tri thức và kiến thức của nhân loại. Sở trường của Khoa Học là vận dụng chất xám trong suy luận, phân tích và tổng hợp để khám phá những bí mật của con người và thế giới, mục đích phục vụ cho đời sống con người. Tuy nhiên, vì có đối tượng là bản ngã nên Khoa học lầm lẫn ngay từ đầu, vì còn ngã chấp là còn đau khổ, còn bất an. Nhiều thành tựu của Khoa học lại bị áp dụng để phục vụ cho tham vọng của con người, tạo điều kiện cho kẻ mạnh áp bức kẻ dưới, nước giầu lấn át nước nghèo. Ngay đối với ngành Y, một ngành Khoa học có ý nghĩa cao đẹp là chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người, hiện tại cũng bị những người vô đạo đức biến thành một thứ kỹ nghệ, một ngành kinh doanh mới, thậm chí trở thành tội ác. Ví như kỹ thuật ghép nội tạng, mục đích cứu mạng sống cho bệnh nhân, nhưng có những tổ chức biến công việc này thành thị trường mua bán nội tạng, con người trở thành món hàng trao đổi. Tứ đó những phương pháp điều trị hiện đại bỗng trở nên xa lạ đối với truyền thống nhân bản của nhành Y. Cho nên một nhà khoa học đã nói: “Khoa học không có lương tâm chỉ là sự huỷ hoại của linh hồn”(3).

 

Từ sự bế tắc của Khoa học, một số nhà bác học quay sang nghiên cứu về Đạo học , và cho rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của Khoa học và Tâm linh. Albert Einstein, nhà bác học hàng đầu của thế kỷ 20 đã nhận xét: “Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi ý nghĩa thấn linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy sẽ bao quát tất cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên cơ sở đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể mà không rời nhất thể. Phẫt giáo đáp ứng được những yêu cầu ấy”(4) Đạo Phật vượt trên ý nghĩa thần linh vì Đức Giáo chủ  đã xác nhận mình chỉ là một vị thầy dẫn đường, không là một đấng quyền năng ban phước giáng họa. Đạo Phật không có giáo điều vì không hề đưa ra những khuôn khổ cứng nhắc, không hề có giáo quyến bắt buộc người khác tuân theo; và nhờ uyển chuyển tùy duyên, suy tiến sự tự nguyện tự giác nên suốt 25 thế kỷ truyền đạo, chưa bao giờ làm hại một ai. Giáo lý của đạo Phật không mang tính cách mặc khải thần học, mà bao quát cả tự nhiên lẫn siêu nhiên; tự nhiên là tự nó vốn có, tồn tại, độc lập với ý thức con người như lý vô thường nhân quả; siêu nhiên là sống ngay cảnh đời mà không bị đời ràng buộc. Người tu Phật biết thân mình là vô thường sanh diệt, nhưng ngay thân vô thường nhận ra tự tánh bất sanh; biết con người nhỏ nhoi hữu hạn; nhưng ngay thân phận hữu hạn nhận ra bản thể vô hạn bao la. Tự nhiên là thuộc Tục đế có sanh có diệt, siêu nhiên là Chân đế bất sanh, cả hai đều được liễu hội và tiêu dung trong tinh thần bất nhị độc đáo của nhà  Phật. Và chính trong tinh thần ấy, những bậc đạt đạo đã có kinh nghiệm tổng thể lẫn biệt thể về vũ trụ vạn loại bằng sự thấy biết như thật. Đây là hành vi của trực giác Bát Nhã, của trí vô sư nên không có ngã tướng. Những nhà tu Phật cũng là những khoa học gia, nhưng là khoa học tâm linh vượt trên khoa học vật thể, vì các ngài khám phá được bản thể của muôn pháp và thực hành những phương tiện giúp mình và giúp mọi người thoát trần lao sanh tử.

 

Như vậy Khoa học muốn là công cụ hữu ích thì phải song hành với Đạo học. Khoa học là hình thức đa thù của cuộc sống. Đạo học là nội dung thuần nhất của cuộc sống ấy. Hình thức và nội dung phải đi đôi, phải hòa hợp, phải quân bình.

 

Nhiều người là Phật tử, nhưng do choáng ngợp trước sự phát triển vượt bực của Khoa học mà muón xét lại quan điểm của Đạo Phật, cho rằng như thế là phù hợp với thời đại. Quả thật Khoa học là phương tiện hữu ích để kiểm chứng và xác định giáo lý đạo Phật, nhưng không vượt qua được hệ thống giáo lý ấy. Cái nhìn của Khoa học chỉ phiến diện theo thức tri tưởng tri trong phạm vi thế gian mà không khám phá được pháp giới, và không bơi lội vào trạng thái siêu nhiên của những bậc đạt đạo. Đối tưọng nghiên cứu của Khoa học chỉ trong thế giới hữu hình, tinh tế nhất là dạng sóng và hạt cũng chỉ là hữu hình trong vũ trụ. Trong khi Đạo Phật bao quát cả pháp giới vừa hữu hình vừa vô hình. Đức Phật bằng cái thấy minh triết, đã triển khai cặn kẽ về lý duyên sinh vô thường của các pháp, đồng thời chỉ dạy cùng tột về bản thể chân như vô tướng. Ánh sáng Khoa học lần lượt soi rọi những bí mật vũ trụ nhận sinh, càng chứng minh những điều Đức Phật đã nói trước đây 25 thế kỷ là vô cùng chính xác. Và trí tuệ siêu xuất của ngài đã làm thế giới văn minh Tây phương ngạc nhiên bái phục, đến nỗi một lần nữa, Eistein phải thừa nhận: “Nếu có một tôn giáo nào thỏa mãn được các nhu cầu của Khoa học hiện đại, thì đó l à Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để theo Khoa học, vì Phật giáo bao gồm cả Khoa học, và hơn thế, vượt qua Khoa học

 

Trong cuộc sống thường nhật, nếu con người áp dụng Khoa học song song với Đạo học, nếu nền văn minh nhân loại có đạo đức soi đường, thì cuộc đời là thiên đàng hạnh phúc. Có đạo lý, sự vui tươi giải trí mới có ý nghĩa, nếu không thì chỉ thỏa mãn những thị hiếu, những dục vọng tầm thường. Một số thanh thiếu niên ngày nay không có hưóng đi đứng đắn, gia đình quá nuông chiều, đã lãng phí tuổi xuân vào những cuộc vui không lành mạnh, cuối cùng chuốc lấy những hiệu quả khó lường. Ngay cả những tiện nghi sinh hoạt, người sản xuất phải luôn thay đổi kiểu dáng, mặt hàng và đủ cách tiếp thị, khuyến mãi. Con  người có thể bị vây hãm trong trường hỗn độn của mầu sắc, mùi vị, âm thanh; bị lôi kéo bởi tính đa thù của sự vật bên ngoài mà quên mất thể tánh thuần nhất bên trong. Từ đó đánh mất luôn sự bình an muôn thuở.

 

Ném một hòn sỏi xuống hồ, sức chấn động từ hòn sỏi tạo thành những vòng tròn đồng tâm lan khắp mặt hồ. Đây là ảnh hưởng tương tác. Biệt nghiệp của mỗi chúng sanh khác nhau, nhưng cộng nghiệp cũng ví như sự lan ttruyền của chấn động nói trên. Mỗi người có ảnh hưởng hỗ tương với những người xung quanh và môi trường họ đang sống. Ta khởi một niệm ác thì niệm ác này có tác dụng xấu ra xung quanh; nếu tâm từ phát sanh thì cả cây cỏ chim muông cũng đều cảm nhận được. Điều này thấy rõ khi ta ở gần mỗt vị chân tu đắc đạo; từ trường của Ngài tỏa lan khiến ta có cảm giác bình an tươi mát, dù Ngài không làm gì nói gì.

 

Đức Khổng Tử đã nói: “Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là chẳng thể đổi dời. Những hạng trung gian có thể chuyển đổi  từ ác sang thiện và ngược lại(5) Chúng sanh đa phần không hiểu đạo lý, mãi tạo nghiệp hư vọng điên đảo, không việc ác nào chẳng làm, không việc làm nào chẳng ác, như kinh Hoa Nghiêm diễn tả: “Gỉa sử nghiệp ác có hình tướng thì mười phương hư không cũng chẳng dung chứa hết” . Đó là nhân đọa vào ba đường dữ(6). Người biết đạo đức bỏ ác làm lành là tiến một bước trên đường hướng thượng, tạo phước báo nhân thiên, nhưng còn hữu vi hữu tướng, nên chưa ra khỏi luân hồi. Các vị Thánh Nhị thừa lánh xa tướng đa thù, rũ sạch nợ đời đoạn ly sanh tử, trở về bản thể thuần nhất bất động và an trú trong đó. Các bậc Bồ Tát và các vị A La Hán lợi căn thì sau khi liễu đạo, các Ngài thấu triệt tinh thần Bất Nhị nên siêu việt thiện ác, phiền não và bồ đề, phát nguyện trở lại Ta bà độ tận chúng sanh.

 

Là thiền sinh, chúng ta phài có công phu thiền tập. Dù tư biện huyền đàm khéo giỏi đến bao nhiêu mà không đi sâu vào mảnh đất tâm của chính mình thì chỉ như đếm tiền dùm người khác. Chứng nghiệm thiền không nhờ chữ nghĩa chuyên chở, mà nhờ quá trình tu tập giúp mình nhận rỏ từng dấu vết của tâm niệm, từng sự biến đổi của vạn hữu, từ đó phăng tìm nguyên ủy là thể tánh tự tịnh tự tri. Đây là tiến trình bơi ngược dòng nước, từ vạn tượng đa thù nhận ra bản thể thuần nhất.

 

 

(1)   Thượng tọa Thích Thông Huệ là viện trưởng Thiền thất Viên Giác, Nha Trang. Thiền thất này nằm trong hệ thống dòng Thiền Trúc Lâm của Hòa Thượng Thích Thanh Từ.

(2)   Câu này thực  ra do nhà toán học lừng danh  René Descartes khi viết cuốn Discours de la Méthode

(3)   Câu này là của Francois Rabelais : “Science sans conscience n’est que ruine de l’âme”

(4)   Nguyên bản bằng tiếng Anh như sau: “The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend personal God and avoid dogma and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense arising from the experience of all things natural and spiritual as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that could cope with modern scientific needs it would be Buddhism”.

(5)   Thiện và Ác hay Lành và Dữ không phải là những ý niệm đơn giản, phân định rạch ròi. Hòa Thượng Thanh Từ, trong sách giảng giải Kinh Thập Thiện, đã phải viết cả trang để giải thích Lành Dữ theo Phật giáo. Cuối cùng Hòa Thượng viết:”Tóm lại điều Thiện là việc làm trong hiện tại ,mình cùng người đều được lợi ích và nhiều đời vị lai cũng được an vui. Hoặc hiện đời tuy mình bị thiệt thòi, người cũng có chút ít thiệt thòi, nhưng vị lai, mình cùng người đều được lợi ích an vui. Đó là điều Thiện. Ngược lại việc làm hiện tại mình có lợi mà di hại cho người, hoặc hiện tại mình có hại, người có hại, cho đến mai sau mình và người cùng đau khổ. Đó là việc Ác”.

(6)   Ba dường ác là Súc sanh, Ngạ quỷ và Địa ngục trong Lục đạo luân hồi. Ba đường kia là Thiên,  Nhân và A Tu La..

 

Đào Viên

Tháng 9, năm 2008

 

 


http://www.buddhismtoday.com/viet/kh/daohocnhinkhoahoc.htm

 


Cập nhật: 10-9-2008

Trở về mục "Phật giáo và Khoa học "

Đầu trang