Trước hết tôi cần phải nói rõ rằng: “Phật Giáo là một chủ đề vĩ đại, vô
cùng vĩ đại với một rừng Kinh Sách, Giáo lý và Triết lý. Hiếm có người
có thể tự nhận là mình đã thông suốt toàn bộ Giáo lý của Đức Phật. Thứ
đến, Khoa Học cũng là một chủ đề rộng lớn, quá rộng lớn, và tôi tin rằng
không một người nào dám nói là mình đã biết hết về Khoa Học. Cho nên,
tôi chỉ xin cố gắng trình bày vài nét về đề tài “Phật Giáo & Khoa Học”
theo sự hiểu biết của tôi, nhưng tôi tin chắc chắn cũng còn nhiều thiếu
sót.
Nói về Phật Giáo & Khoa Học thì trước hết chúng ta cần biết rõ một sự
kiện: Hiện nay, không ai có thể phủ nhận là Phật Giáo đang phát triển
mạnh trên toàn thế giới, nhất là trong những xã hội Âu Mỹ, những xã hội
được coi là tiến bộ nhất về khoa học, kỹ thuật. Điều này phản ánh một
sự kiện: trong những xã hội này, con người đã quen với tính chất chính
xác và hợp lý của khoa học, và họ ngả theo Phật Giáo vì tinh thần Phật
Giáo rất phù hợp với tinh thần khoa học. Hơn nữa, trong lịch sử Phật
Giáo, họ không tìm thấy một dấu vết tỳ ố nào về vấn đề chống khoa học
hay đàn áp khoa học gia bằng bạo lực, chưa kể là Phật Giáo đã giúp họ
giải quyết được một số vấn đề trong thời đại khoa học tân tiến ngày
nay. Và hay hơn cả là, trong suốt giòng lịch sử truyền đạo hơn 2500
năm, Phật Giáo chưa hề làm đổ một giọt máu của người vô tội và cũng chưa
hề cưỡng bức ai phải theo Phật Giáo. Chủ trương hòa bình của Phật Giáo
là điều mà thế giới tranh chấp hỗn loạn ngày nay cần hơn gì hết.
Thật vậy,
Joseph L. Daleiden, một học giả Công Giáo, trong cuốn Sự Mê Tín Cuối
Cùng (The Final Superstition), xuất bản năm 1994, sau khi phân tích
và đánh giá cái di sản Do Thái - Ki Tô (A Critical and Evaluation of the
Judeo-Christian Legacy), đã đề nghị những Tín Ngưỡng Khác Thay Cho
Thần Giáo (Alternatives to Theism). Về Phật Giáo tác giả viết,
trang 424:
Lời giới thiệu hay nhất về Phật Giáo
là, giống như Khổng giáo, hệ thống tín ngưỡng này đã hiện hữu trong 25
thế kỷ mà không hề có một cuộc Thánh Chiến, một Tòa Án Xử Dị Giáo, hay
một toan tính đế quốc nào nhằm xâm chiếm và phá hủy nền văn hóa của một
dân tộc khác.
(The best recommendation for Buddhism is that, like Confucianism,
this belief system has existed for twenty-five centuries without a
single Crusade, Inquisition, or imperialist attempt to invade and
destroy the culture of another people.)
Chúng ta đã biết, Thánh Chiến, Tòa
Án Xử và Thiêu Sống Dị Giáo, Săn Lùng Tra Tấn Và Thiêu Sống Phù Thủy,
Toan tính Đế Quốc nhằm xâm chiếm
và phá hủy nền văn hóa của một dân tộc khác v…v… đều là những núi tội ác
của Công giáo mà Giáo hoàng John Paul II đã xưng thú cùng thế giới ngày
12 tháng 3, năm 2000.
Sự phát triển của Phật Giáo vào các xã hội tân tiến Âu Mỹ đã làm cho một
số người vô minh trong những xã hội này lo sợ, lo sợ vì ánh sáng trí tuệ
và đạo đức của Phật Giáo đã làm cho bóng tối của những mê tín phi lý,
phi đạo đức phải lùi dần, và những người xây dựng quyền lực trên bóng
tối của vô minh cảm thấy bị đe dọa vì quyền lực thế gian cũng như những
đặc quyền vật chất của mình cứ mất dần. Cho nên, đã có bậc chủ chăn của
một tôn giáo lớn ở Tây phương đã phải dùng đến hạ sách là viết sách
xuyên tạc Phật Giáo để mong vớt vát phần nào niềm tin đã lung lay còn
sót lại trong số tín đồ phần lớn ở trong các quốc gia nghèo khổ và kém
mở mang. Ngoài ra, cũng có một số người trong Phật Giáo, đưa ra những
tương đồng giữa Phật Giáo và Khoa Học với mục đích đề cao Phật Giáo
trong thời đại tiến bộ của khoa học. Do đó, đã có một số người lên
tiếng chê bai và cho rằng, làm như vậy là "Thấy sang bắt quàng làm
họ, dùng những giả thiết trong khoa học để biện hộ cho niềm tin Phật
Giáo."
Theo thiển ý, những người dùng khoa học để đề cao Phật Giáo cũng như
những người phê phán là “Phật Giáo thấy sang bắt quàng làm họ v..v..” có
lẽ chưa hiểu rõ, dù chỉ là đại cương, hoặc về Phật Giáo, hoặc về Khoa
Học, hoặc về cả hai, cho nên mới bị cái hào quang của Khoa Học làm cho
mờ mắt và đánh giá sai lầm thực chất của Khoa Học. Họ không thấy được
những giới hạn của khoa học vì bản chất tương đối của khoa học và cũng
không hiểu được cái niềm tin Phật Giáo là niềm tin về sự thực chứng, kết
quả của sự tu tập, mang phúc lợi tới mọi chúng sinh, chứ không phải là
một niềm tin mù quáng vào vài giáo thuyết hoang đường. Thật vậy, thực
tế là một số Khoa học gia trong vài thập niên gần đây đã phải dùng những
tư tưởng trong Phật Giáo để giải quyết những bế tắc trong việc diễn
giải những hiện tượng khoa học mà họ khám phá ra, thí dụ như quan niệm
"vạn pháp qui nhất", quan niệm "tương duyên, tương tức", quan niệm "dung
thông" v..v.. của Phật Giáo. Và cũng thực tế là, trong nhiều bộ môn
khoa học, tư tưởng Phật Giáo đã đi trước khoa học khá xa. Cho nên, phê
bình là "Thấy sang bắt quàng làm họ" thì có thể đúng với tôn giáo khác,
nhưng đối với Phật Giáo thì là một sự phê phán ngược chiều.
Vấn đề tinh thần Phật Giáo không xa lạ với tinh thần Khoa Học đã rõ
ràng. Để vấn đề được rõ ràng hơn, chúng ta hãy duyệt qua nhận định của
một vài khoa học gia nổi tiếng nhất trong Thế Kỷ 20:
Albert Einstein, cha đẻ của thuyết tương đối, đã phát biểu như sau:
“Tôn
giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi ý nghĩa về
Thượng đế và tránh nói đến những giáo lý và thần học. Tôn giáo ấy sẽ bao
quát tất cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên cơ sở đạo lý,
phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể mà không rời nhất thể. Phật giáo đáp
ứng được những yêu cầu ấy. Nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu
được với những nhu cầu hiện đại của khoa học thì đó là Phật Giáo”
[The religion of the future will be a cosmic
religion. It should transcend personal God and avoid dogma and theology.
Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a
religious sense arising from the experience of all things natural and
spiritual as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If
there is any religion that could cope with modern scientific needs it
would be Buddhism.]
Ngoài ra, Einstein cũng còn đưa ra những nhận xét sau đây:
" PHẬT GIÁO KHÔNG CẦN XÉT LẠI
QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CẬP NHẬT HÓA VỚI NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI CỦA KHOA HỌC.
PHẬT GIÁO KHÔNG CẦN TỪ BỎ NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CHẤP NHẬN KHOA
HỌC, BỞI VÌ PHẬT GIÁO BAO GỒM KHOA HỌC, ĐỒNG THỜI CŨNG VƯỢT QUA KHOA
HỌC. Phật Giáo là một chiếc cầu nối liền tôn giáo và những tư tưởng
khoa học. Chiếc cầu Phật Giáo đã kích thích con người khám phá ra những
tiềm năng lớn lao nằm sâu kín trong chính con người và trong môi trường
sống chung quanh. PHẬT GIÁO SIÊU VIỆT THỜI GIAN VÀ MÃI MÃI CÓ GIÁ TRỊ."
Trong nhận định của Albert Einstein, có một điểm quan trọng nói lên
những sắc thái đặc thù của PG:
PG KHÔNG CẦN XÉT LẠI QUAN
ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CẬP NHẬT HÓA VỚI NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI CỦA KHOA HỌC. PHẬT
GIÁO KHÔNG CẦN TỪ BỎ NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CHẤP NHẬN KHOA HỌC, BỞI
VÌ PG BAO GỒM KHOA HỌC, ĐỒNG THỜI CŨNG VƯỢT QUA KHOA HỌC.
Tại sao Einstein lại nói như vậy? Chúng ta nên biết rằng Einstein đã
được sinh ra và nuôi dưỡng trong cái nôi của tôn giáo Tây phương. Và
một bộ óc như của Einstein thì không thể không biết đến cái lịch sử của
tôn giáo Tây phương và các luận cứ mà các nhà Thần học bảo vệ tín lý của
tôn giáo này đã phải đưa ra để giải thích lại hay từ bỏ những lời mà
trước đây họ khẳng định đó là lời của Thượng Đế, không thể sai lầm, để
đưa ra một lý thuyết phù hợp với những tiến bộ của khoa học, nhưng thật
ra chỉ nhằm mê hoặc số tín đồ với những đầu óc "bảo sao tin vậy". Sau
đây là vài thí dụ:
a)
Quan niệm trái đất là trung tâm của vũ trụ, trái đất là thế giới duy
nhất, mặt trời quay xung quanh trái đất. Đây là những lời của Thượng Đế
trong Thánh Kinh nên không thể sai lầm. Cũng vì vậy mà trong thế kỷ 17
Giordano Bruno bị thiêu sống chỉ vì đưa ra một nhận định khoa học rất
chính xác là ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có nhiều thế giới
khác nữa, và Galileo Galilei, tuy là bạn của Giáo Hoàng Urban VIII, cũng
bị biệt giam cho đến chết vì dám khẳng định một sự kiện khoa học là trái
đất quay xung quanh mặt trời chứ không phải là mặt trời quay xung quanh
trái đất như lời Thượng Đế không thể sai lầm được như trong Thánh Kinh.
Sau đó khi mà giáo hội không còn quyền lực để đốt người hay giam người
nữa thì các nhà Thần học liền tuyên bố: “Kinh Thánh không có ý định
dạy về thiên văn, chỉ dạy về sự sáng tạo của Thượng Đế.”
b)
Theo Thánh kinh thì vũ trụ được tạo dựng ra trong 6 ngày, cách đây
khoảng từ 6000 tới 10000 năm, tùy theo Thánh Kinh. Ngày nay, những khám
phá của khoa học cho biết tuổi của trái đất là vào khoảng 4.5 năm, và
tuổi của vũ trụ là vào khoảng 13.7 tỷ năm. Các nhà Thần học bảo vệ tín
lý bèn diễn giải rằng một ngày trong sự tạo dựng có thể là nhiều ngàn
năm chứ không phải là ngày 24 tiếng đồng hồ như chúng ta thường biết.
Đây chỉ là luận điệu ngụy biện để nuôi dưỡng các tín đồ trong vòng ngu
dốt chứ đối với những người hiểu biết thì lời ngụy biện trên chỉ chứng
tỏ sự xảo quyệt của các người chăn chiên. Vì Thánh Kinh viết rõ là mỗi
ngày đều có sáng và tối. Và sáng và tối trên trái đất là do chuyển động
quay xung quanh trục Nam Bắc của trái đất đối với mặt trời. Mặt khác,
dựa trên chương Sáng Thế Ký trong Thánh Kinh, các khoa học gia bèn hỏi
lại: Cây cối được tạo ra trong ngày thứ ba và mặt trời ngày thứ tư.
Làm sao cây cối có thể sống được nhiều ngàn năm mà không có ánh sáng mặt
trời? Các nhà Thần học bèn giải thích: Thượng đế là bậc toàn trí
toàn năng, quyền phép vô cùng làm gì chẳng được. Các khoa học gia
chơi khăm bèn hỏi lại: “Nếu Thượng Đế là bậc toàn năng thì tại sao
lại phải nghỉ xả hơi vào ngày thứ Bảy sau khi hoàn thành sự tạo dựng
trong 6 ngày? Và bắt con người cũng phải nghỉ ngày thứ bảy như Thượng
đế? Nhưng con người ngày nay, một số người Việt chúng ta làm 2,3 “job”
nghĩa là “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày chủ
nhật”.” Câu hỏi này chưa có ai trả lời. Một mặt khác, trước khi
tạo dựng ra vũ trụ ngày nay thì trong dòng thời gian vô tận trước lúc
tạo dựng Thượng Đế làm gì và dùng cái gì, để tạo dựng ra vũ trụ? Các
nhà Thần học bèn nổi sùng và bảo, trước khi tạo dựng cả thiên thu thì
Thượng đế còn bận sáng tạo ra hỏa ngục cho những kẻ nào dám hỏi những
câu hỏi xúc phạm đến quyền năng của Thượng đế như vậy. Tuy rằng hầu
hết các khoa học gia và những người có đầu óc suy luận chỉ còn có cách
cười trước những lời giải thích quanh co cuồng tín trên, nhưng đa số tín
đồ vẫn tin và rất lấy làm an tâm và hài lòng về những lời giải thích mà
họ bắt buộc phải tin là hợp lý.
Trong khi đó các khám phá
mới của khoa học không có ảnh hưởng trái ngược hay mâu thuẫn đối với tư
tưởng Phật Giáo, chưa kể là trong nhiều bộ môn các tư tưởng PG còn đi
trước khoa học khá xa.
Học Giả Egerton C.
Baptist (1915-1983), viết trong cuốn “Siêu Khoa Học của Đức Phật”
(Supreme Science of the Buddha) như sau:
Phật Giáo bắt đầu ở chỗ
khoa học chấm dứt. Khoa học không cho chúng ta sự bảo đảm gì ở nơi
đây. Nhưng Phật Giáo có thể đáp ứng sự thách thức của thuyết nguyên tử,
vì kiến thức ở trên mức bình thường của Phật Giáo bắt đầu ở nơi mà khoa
học chấm dứt. Và điều này khá rõ ràng cho bất cứ ai đã nghiên cứu về
Phật Giáo. Bởi vì, qua thiền định, những cấu tử cỡ nguyên tử tạo thành
vật chất đã được thấy và cảm nhận, và những sự khổ, với sự sinh và diệt
của chúng, đã tự tạo ra trong cái mà chúng ta gọi là linh hồn hay ngã -
ảo tưởng của chấp ngã, như giáo lý của Đức Phật dạy.
[Buddhism begins where
science ends
“Science can give no
assurance herein. But Buddhism can meet the Atomic Challenge, because
the supramundane knowledge of Buddhism begins where science leaves off.
And this is clear enough to anyone who has made a study of Buddhism.
For, through Buddhist Meditation, the atomic constituents making up
matter have been seen and felt, and the sorrow, or unsatisfactoriness
(or Dukkha), of their 'arising and passing away' has made itself with
what we call a 'soul' or 'atma' - the illusion of Sakkayaditthi, as it
is called in the Buddha's teaching.” ]
J Robert Oppenheimer ( 1904-1967), Vật Lý Gia Mỹ, nói rằng:
“Thí dụ, nếu chúng ta hỏi,
phải chăng vị trí của điện tử
(electron) không thay đổi?
chúng ta phải trả lời “không”; phải chăng vị trí của điện tử thay đổi
với thời gian? chúng ta phải trả lời “không”; phải chăng điện tử đứng
yên? chúng ta phải trả lời “không”; phải chăng điện tử đang di chuyển?
chúng ta phải trả lời “không”. Đức Phật đã trả lời như vậy khi được
hỏi về tình trạng của cái ngã của con người sau khi chết; nhưng những
câu trả lời này không quen thuộc trong truyền thống của khoa học trong
thế kỷ 17 và 18.”
[If we ask, for instance,
whether the position of the electron remains the same, we must say 'no';
if we ask whether the electron's position changes with time, we must say
'no'; if we ask whether the electron is at rest, we must say 'no'; if we
ask whether it is in motion, we must say 'no'. The Buddha has given such
answers when interrogated as to the conditions of a man's self after his
death; but they are not familiar answers for the tradition of
seventeenth and eighteenth century science.]
Sir Edwin Arnold, người nổi tiếng về cuốn
thơ Ánh Sáng Á Châu (The Light of Asia), khẳng định rằng:
"Tôi thường nói, và tôi sẽ còn nói hoài, là
giữa Phật-Giáo và Khoa- học tân tiến có một mối quan hệ trí thức gần
gũi."
(I have often said, and I shall say again and
again, that between Buđhism and modern Science there exists a close
intellectual bond.)
Bertrand Russell, nhà triết-học và toán-học
nổi tiếng hoàn cầu, trong cuốn Lịch sử triết học Tây Phương
(History of Western Philosophy) đã viết:
"..Phật-Giáo là một tổ hợp của triết lý suy cứu
và triết lý khoa học. Phật Giáo ủng hộ phương pháp khoa học và theo
phương pháp này để tới một cứu cánh có thể gọi là thuần lý. Phật Giáo
còn đi xa hơn khoa học vì khoa học bị giới hạn bởi những dụng cụ vật
lý."
(..Buddhism is a combination of both speculative
and scientific philosophy. It advocates the Scientific method and
pursues that to a finality that may be called rationalistic...It takes
up where science cannnot lead because of the limitations of the latter's
physical instruments.)
Tiến sĩ Radhakrishnan:
"Nếu Phật Giáo hấp dẫn đối với trí óc tân tiến
đó là vì Phật Giáo có tinh thần khoa học, thực nghiệm, chứ không phải là
dựa trên bất cứ giáo điều nào"
(If Buddhism appealed to the modern mind it was
because it was scientific, empirical and not based on any dogma.)
Tiến sĩ Graham Howe, nhà Phân Tâm Học nổi
tiếng của Anh Quốc. đã nói như sau:
"Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận
thức được rằng, từ 2500 năm trước, Phật Giáo đã biết về những vấn đề mới
về tâm lý nhiều hơn là chúng ta thường biết tới. Họ nghiên cứu những
vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng. Ngày
nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông
phương." (To read a little Buddhism is to
realize that the Buddhists knew, 2,500 years ago, far more about modern
problems of psychology than they have been given credit for. They
studied these problems long ago and found the answers also. We are now
rediscovering the ancient wisdom of the East.)
Và Paul Carus, tác giả cuốn sách nổi tiếng
"The Gospel of Buddha" , một cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ
tiếng như Nhật, Trung Hoa, Đức, Pháp, Tây Ba Nha v...v...và là người đã
bảo trợ cho Daisetz Suzuki sang Mỹ để truyền bá đạo Phật mà ông gọi là
"Tôn Giáo của Khoa Học" tuy ông không phải là một Phật tử. Paul
Carus cho rằng: "Nếu các tôn giáo cổ Tây Phương được tinh khiết hóa
bằng cách bỏ đi những sai lầm, nghĩa là những mê tín và điều vô lý trong
đó, thì có thể hòa hợp được với Khoa học”. Paul Carus đã tán tụng
Đức Phật như là: "Người đầu tiên thực chứng; người đầu tiên phát
triển chủ nghĩa nhân đạo; người đầu tiên có tư tưởng tự do cấp tiến;
người đầu tiên đả phá Thần tượng; và là nhà tiên tri đầu tiên về tôn
giáo của khoa học."
Chúng ta hãy tìm hiểu tại sao những nhân vật nổi danh trên, và nhiều
nhân vật khác nữa mà tôi không thể kể hết ra đây, lại đưa ra những nhận
định như vậy.
Nói về Phật Giáo [PG] và Khoa Học [KH] thì trước hết chúng ta cần biết
những định nghĩa của PG và của KH. Ở đây, chúng ta bị kẹt vì KH thì có
thể định nghĩa được chứ PG thì khó mà có thể có một định nghĩa xác
đáng. Vậy thì, trước hết chúng ta hãy xét đến định nghĩa của KH và rồi
xem xem trong cái định nghĩa này nó có những tương quan gì với Phật
Giáo.
ĐỊNH
NGHĨA CỦA KHOA HỌC.
Mở
cuốn tự điển Merriam Webster ra chúng ta thấy có 5 định nghĩa về KH:
1.
Kiến thức thâu thập được bằng khảo sát và thực hành (Knowledge obtained
by study and practice)
2.
Bộ kiến thức được hệ thống hóa (Department of systematized knowledge)
3.
Nghệ thuật hay sự khéo léo (Art and Skill)
4.
Một ngành học liên hệ đến sự quan sát và hệ thống hóa các sự kiện, nhất
là liên hệ với sự thiết lập những định luật tổng quát có thể kiểm chứng
được, chủ yếu bằng quy nạp và giả thiết (A branch of study concerned
with observation and classification of facts, especially with the
establishment of verifiable general laws, chiefly by induction and
hypotheses)
5.
Kiến thức chuyên biệt tích tụ được hệ thống hóa và công thức hóa dựa vào
sự khám phá ra những chân lý tổng quát hay sự vận hành của các định luật
tổng quát (Specifically, accumulated knowledge systematized and
formulated with reference to the discovery of general truths or the
operation of general laws)
Những kiến thức liên hệ tới thế giới vật chất : Khoa học thiên nhiên
(Natural Science)
TINH
THẦN KHOA HỌC:
-
Dùng đầu óc, luận lý và thực nghiệm để ra khỏi sự ngu tối. (Phật Giáo
dùng trí tuệ và thực chứng để phá bỏ vô minh: Người ta thường bảo rằng
Phật giáo có một lưỡi gươm duy nhất để diệt một kẻ thù duy nhất: lưỡi
gươm này là lưỡi gươm trí tuệ, và kẻ thù này là vô minh.)
-
Tinh thần rộng rãi. Gửi học trò đi học các Thầy giỏi. (Khi xưa, các bậc
cao Tăng trong Phật Giáo thường gửi đệ tử của mình đi học thêm từ các
bậc cao Tăng khác ở Tông phái khác)
-
Tinh thần khách quan, tôn trọng sự thật, không để cho thiên kiến chi
phối. (Như thực tri kiến)
-
Thảo luận hòa hoãn để đi tới chân lý, không khích bác nhau (Khẩu Hoà vô
tranh)
-
Dung hòa ý kiến, tham khảo để cùng đưa ra một kết luận (Ý hòa đồng
duyệt)
-
Chia sẻ những kiến thức để đi tới chân lý (Kiến hòa đồng giải)
Nhưng lẽ dĩ nhiên trong giới
khoa học gia không có những chủ trương như sau của Phật Giáo:
-
Thân Hòa Đồng Trú
-
Giới Hòa Đồng Tu
-
Lợi Hòa Đồng Quân
VÀI
THÍ DỤ VỀ TƯ TƯỞNG PG ĐÃ ĐI TRƯỚC KHOA HỌC:
Ở trên tôi đã trích dẫn nhận định của Tiến sĩ Graham Howe, nhà Phân Tâm
Học nổi tiếng của Anh Quốc. như sau:
"Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận thức được rằng, từ
2500 năm trước, Phật Giáo đã biết về những vấn đề về tâm lý nhiều hơn là
về những vấn đề hiện đại về tâm lý học chúng ta thường biết tới. Họ
nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải
quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ khám phá lại trí tuệ thông thái cổ
xưa của Đông phương."
(To read a little Buddhism is to
realize that the Buddhists knew, 2,500 years ago, far more about modern
problems of psychology than they have been given credit for. They
studied these problems long ago and found the answers also. We are now
rediscovering the ancient wisdom of the East.)
Không phải vô căn cứ mà Tiến sĩ Graham Howe viết như vậy. Nếu chúng ta
biết về Duy-Thức Học trong Phật Giáo thì chúng ta thấy rằng các khoa học
gia chỉ dùng có 16 phần trăm [16%] của số 100 Pháp được phân loại thành
8 Tâm Pháp, 51 Tâm-Sở-Hữu Pháp, 11 Sắc Pháp, 24 Tâm-Bất-Tương-Ưng Hành
Pháp, và 6 Vô-Vi Pháp (Xin đọc Đại-Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận), nghĩa
là các khoa-học-gia chỉ xử dụng tới 11 Sắc Pháp trong đó có 5 căn là
nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn, và thân căn (mắt, tai, mũi, lưỡi,
và thân thể); và 6 trần là sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần,
xúc trần, và Pháp trần (hình tướng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác do tiếp
xúc, và bóng dáng của 5 trần trên còn lưu lại trong ý thức khi các căn
không còn tiếp xúc trực tiếp với trần nữa), cộng với 5 tâm pháp trong số
21 tâm-bất-tương-ưng hành pháp là thời gian, phương hướng, vận tốc di
chuyển, số lượng, và thứ tự (thời, phương, thế tốc, số, và thứ đệ). Ở
đây tôi không có ý định đi sâu vào thiên luận 100 Pháp đại thừa mà chỉ
muốn nói lên điểm cốt yếu như sau: khi mà khoa học không thể tiến hơn
được nữa vì những giới hạn tự tại của 5 căn 6 trần và của những dụng cụ
đo lường thì Phật Giáo vẫn tiếp tục đi xa hơn, bởi lẽ Phật Pháp, ngoài
sự khảo sát những đối tượng vật chất còn chú trọng nhiều đến những vấn
đề tâm linh, cho nên đã vượt qua, đi ra ngoài những giới hạn vật lý của
khoa-học. Do đó chúng ta có thể nói Phật Giáo là một Siêu-Khoa-Học
(Super-science) như học giả Ergeton Baptist đã nhận định, được thành lập
trên căn bản trí tuệ Bát Nhã (trí tuệ nhận thức được thực tướng của vạn
Pháp). Trong Phật Giáo, Duy-Thức Học cho chúng ta một hệ thống triết
lý, phân tâm học rất đầy đủ và tiến bộ hơn bất cứ hệ thống nào trong
khoa học hiện đại.
Sau đây, tôi xin nêu thêm vài thí dụ về cái biết của Phật Giáo như được
viết trong Kinh Điển Phật Giáo:
1. Về thế
giới vô cùng nhỏ: Chúng ta đều biết rằng, khi xưa Đức Phật
thường khuyên các đệ tử trước khi uống nước hãy niệm chú để phổ độ cho
các vi chúng sinh có trong nước. Người còn khẳng định trong mỗi bát
nước có tới 84000 sinh vật nhỏ nhoi mà mắt thường chúng ta không thể
nhìn thấy được. Chúng ta nên hiểu con số 84000 trong Phật Giáo có nhiều
ý nghĩa và một trong những ý nghĩa này là tượng trưng cho một con số lớn
chứ không phải là một con số chính xác. Hơn 21 thế kỷ sau, vào cuối thế
kỷ 16, năm 1595, các khoa học gia đã phát minh ra cái kính hiển vi đầu
tiên và nhờ đó đã có thể nhìn thấy trong một giọt nước có một số lớn các
vi sinh vật mà mắt thường không thể nhìn thấy được.
Kính Hiển Vi
Meiji Techno MT4200
2.
Về Thế Giới Vô Cùng Lớn: Quan niệm của Phật Giáo về vũ
trụ như sau: thế giới chúng ta đang sống không phải là duy nhất và cũng
không phải là trung tâm vũ trụ. Ngoài thế giới chúng ta đang sống còn
có rất nhiều thế giới khác, và Phật giáo phân loại các thế giới thành 3
loại: Tiểu Thiên Thế Giới, Trung Thiên Thế Giới, và Đại Thiên Thế Giới.
Danh từ thế giới trong Phật -giáo chỉ một thiên thể (thí dụ như trái đất)
hoặc một tập hợp các thiên thể được coi như thuộc một nhóm (thí dụ như
thái-duơng-hệ mà trái đất là một hành tinh trong đó). Vậy, một ngàn thế
giới họp thành một Tiểu Thiên Thế Giới, một ngàn Tiểu Thiên Thế Giới họp
thành một Trung Thiên Thế Giới, và một ngàn Trung Thiên Thế Giới họp
thành một Đại Thiên Thế Giới. Vậy, lấy đơn vị là một hệ thống tương tự
như hệ thống Thái Dương Hệ và gọi là thế giới thì Tiểu Thiên Thế Giới
gồm có khoảng một ngàn thế giới, Trung Thiên Thế Giới gồm khoảng một
triệu thế giới , Đại Thiên Thế Giới gồm khoảng một tỷ thế giới v..v.. Đó
là quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo từ hơn 2500 năm về trước. Nhưng
sau đó 22 thế kỷ, vào thế kỷ thế 17, Tây phương vẫn còn chưa thoát khỏi
quan niệm sai lầm về trời tròn đất vuông, trái đất được coi là trung
tâm vũ trụ, và rằng mặt trời quay xung quanh trái đất như đã viết trong
Thánh Kinh.
Trở lại quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo, chúng ta thấy rằng quan niệm
này hầu như tương hợp hoàn toàn với những kiến thức ngày nay của những
nhà thiên văn (astronomers) hay những nhà vật-lý-học về thiên thể
(astrophysicists), và đã đi trước khoa-học nhiều thế kỷ. Một Tiểu Thiên
Thế Giới có thể so sánh với quan niệm hiện đại về một thiên hà (galaxy)
gồm có cả triệu ngôi sao và những hành tinh có thể có sinh vật trên đó.
Thí dụ như giải ngân hà (Milky Way) hay M31, hay chòm sao
(constellation) Andromeda. Một Trung Thiên Thế Giới có thể so sánh với
một chùm thiên hà (galactic cluster) thí dụ như chùm Coma Berenices, và
một Đại Thiên Thế Giới có thể so sánh với cái mà Hannes Alfven gọi là
siêu thiên hà (metagalaxy) ở trong Đại Vũng (Big Dipper) của Tiểu
Ursa (Minor Ursa) trong đó có ít ra là cả triệu thiên hà. Cho tới nay,
vì những giới hạn tự tại của những dụng cụ quan sát cho nên các khoa học
gia chưa thể đi xa hơn trong việc khảo sát vũ trụ. Nhưng không phải vì
những giới hạn kỹ thuật này mà vũ trụ cũng bị giới hạn theo, và nay
chúng ta đã hiểu tại sao Đức Phật lại "bỏ ngỏ" quan niệm về vũ trụ hữu
hạn hay vô hạn. Điều này chứng tỏ Đức Phật đã thấy rõ khả năng vô tận
của con người, và rằng Phật Pháp không phải là những giáo điều cứng ngắc
không bao giờ thay đổi. Và đây cũng chính là tinh thần khoa học hiện
đại, không có gì có thể coi như là vĩnh cửu, bất biến.
Nói đến quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo thì chúng ta không thể bỏ qua
Kinh Hoa-Nghiêm, phẩm Thế Giới Thành Tựu. Trong phẩm này, Bồ Tát Phổ
Hiền tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế giới: nhân duyên khởi, chỗ
trụ nương, hình trạng, thể tánh, trang nghiêm tánh, thanh tịnh tánh,
Phật xuất hiện, kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai biệt, và môn vô sai biệt.
Để cho vấn đề tương hợp với khoa học được rõ ràng, sau đây tôi xin luận
về hai điểm : hình trạng và kiếp trụ các thế giới. Chúng ta hãy xét
đoạn kinh văn sau đây:
Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Thế giới
hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn....hoặc hình như nước xoáy....hoặc
hình như hoa ... có vi trần số hình sai khác như vậy."
Rồi trong phẩm tiếp theo, phẩm Hoa Tạng Thế Giới, Phổ Hiền Bồ Tát lại
tuyên thuyết: "Chư Phật tử! Tất cả
thế giới chủng đó hình trạng đều khác nhau: hoặc hình núi Tu Di, hoặc
hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe...hoặc
hình hoa sen...có vi trần số hình trạng như vậy." ("Kinh
Hoa-Nghiêm", Thích Trí Tịnh, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản)
So sánh
với những hình trạng của các chòm sao, giải thiên hà, ngân hà khám phá
bởi khoa học ngày nay chúng ta thấy Phật giáo đã mô tả hình trạng của
chúng một cách vô cùng chính xác. Thí dụ như các hình như bánh xe, nước
xoáy chúng ta có thể quan sát được trong các chòm sao như Cetus, Pegasus
và Hercules, hình sông là giải ngân hà (Milky Way) và nhiều thiên hà
khác, hình dạng như hoa là những khối tinh vân trong khoảng không gian
liên-thiên-hà (intergalactic clouds of gas) có chứa hàng tỷ ngôi sao
v...v... Thật tôi không thể tưởng tượng được ở một thời chưa hề có kính
thiên văn, dù thô sơ nhất, mà Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã có những
hiểu biết chính xác về vũ trụ như trên. Có cách giải thích nào khác là
chúng ta phải tin rằng, do Thiền Định và vì đã giác ngộ hoàn toàn, cho
nên các Ngài đã nắm vững được cơ cấu huyền bí của vũ trụ, nếu không thì
làm sao có thể biết được những điều như trên. Và chúng ta cũng nên nhớ
là những điều đức Phật và các Bồ Tát chọn để tuyên thuyết cho người đời
chẳng qua cũng chỉ là một nắm lá trong tay so với số lá cây trong rừng.
Sau đây,
tôi xin đưa ra vài hình ảnh mà các khoa học gia đã chụp được trong vũ
trụ, và quý vị sẽ thấy những mô tả về hình trạng thế giới trong Kinh Hoa
Nghiêm chính xác như thế nào.
Hình xoay chuyển
của Thiên Hà NGC 523 Sculptor
Hình bánh xe của
Thiên Hà Andromeda
Hình nước xoáy
của Thiên Hà [The Spiral Galaxy NGC 2997]
Hình hoa nở của
Thiên Hà Trifid
Hình
vòng nhẫn của khối tinh vân 250px-M57_The Ring Nebula
Hình
núi Tu Di của Thiên Hà M104: The Sombrero Galaxy
Tiếp
theo, về kiếp trụ của các thế giới, Kinh văn viết rằng:
"Lúc
đó Phổ Hiền Bồ-Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Nên biết thế
giới hải có thế giới hải vi trần số kiếp trụ, hoặc có a-tăng-kỳ kiếp trụ,
hoặc có vô-lượng kiếp trụ, hoặc có vô biên kiếp trụ, hoặc có vô đẳng
kiếp trụ, hoặc có bất-khả-sổ kiếp trụ, hoặc có bất khả xưng kiếp trụ,
hoặc có bất khả tư kiếp trụ, hoặc có bất khả lượng kiếp trụ, hoặc có bất
khả thuyết kiếp trụ, ..có vi trần số kiếp trụ như vậy."
Rồi trong bài kệ để tuyên lại nghĩa này Bồ Tát Phổ Hiền có giải thích
bằng một câu: "Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số, Bởi những tâm nguyện đều
chẳng đồng." Chỉ một câu "bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng"
cũng đã giải quyết vấn đề "thiên sai vạn biệt" trong vũ trụ.
Thật là đầy đủ, thật là rốt ráo, thật là chính xác. Nếu chúng ta đi sâu
vào một chút trong đoạn kinh văn trên, chúng ta sẽ thấy Phật Giáo đã đi
trước khoa học như thế nào.
Phật giáo phân biệt: Tiểu Kiếp có 16 triệu 8 trăm ngàn năm, Trung Kiếp
có 336 triệu năm, và Đại Kiếp có 1 tỷ 344 triệu năm. Theo khoa học hiện
nay thì một ngôi sao (coi như là một thế giới) mà chất lượng (mass) càng
nặng thì đời sống của ngôi sao càng ngắn. Do đó có những ngôi sao chỉ "sống"
được từ 1 tới vài tỷ năm và người ta đã tính được rằng một ngôi sao có
chất lượng nhẹ hơn những ngôi sao trên khoảng 90 phần trăm thì ngôi sao
này có thể sống tới hàng ngàn tỷ năm. Điều này rất phù hợp với câu kệ
trên của Phổ Hiền Bồ Tát, có thế giới chỉ tồn tại một kiếp, có thế giới
tồn tại vô số kiếp v...v....
Thứ đến, những danh từ như a-tăng-kỳ, vô lượng, vô biên,...bất khả
thuyết có vẻ như mơ hồ và không rõ ràng như những con số trong thời đại
khoa học. Thật ra không phải vậy, vì trong phẩm A-Tăng-Kỳ, Kinh Hoa
Nghiêm ta đọc được như sau, tôi xin đánh số cho nó rõ ràng hơn:
Phật nói: Này thiện nam tử!
1. Một trăm Lạc Xoa làm một Câu Chi.
2. Câu Chi lần Câu Chi làm một A-Giu-Đa
3. A-giu-Đa lần A-Giu-Đa làm một Na-Do-Tha
4. Na-Do-Tha lần Na-Do-Tha làm một Tần-Bà-La
và tiếp tục như vậy tất cả là 123 lần, trong đó số 104 là A-Tăng-Kỳ, số
106 là Vô Lượng, số 108 là Vô Biên, số 110 là Vô Đẳng, số 112 là
Bất-Khả-Sổ, số 114 là Bất-Khả-Xưng, số 116 là Bất-Khả-Tư, số 118 là
Bất-Khả-Lượng, và số 120 là Bất-Khả-Thuyết.
Chúng ta biết rằng khoa học ngày nay dùng ký hiệu lũy thừa để viết những
con số lớn. Thí dụ như 1 triệu là con số 1 với 6 con số 0 đằng sau, 1
000 000, theo ký hiệu điện toán được viết như sau: 10^6 và đọc là 10
lũy thừa 6; 1 tỷ gồm có 9 số 0 và được viết là 10^9 (billion), lớn hơn
nữa là 10^12 (1 ngàn tỷ hay trillion), 10^15 (1 triệu tỷ hay zillion) và
khoa học chưa có những danh từ riêng để chỉ những con số lớn hơn. Tiếng
Việt thì chỉ tới số tỷ là cao nhất.
Theo Kinh Phật thì 1 Lạc Xoa là 100 ngàn, nghĩa là 10^5. Như vậy 1 Câu
Chi là 10 triệu, nghĩa là 10^7; 1 A-Giu-Đa là 100 ngàn tỷ, nghĩa là
10^14; 1 Na-Do-Tha là 10 tỷ tỷ tỷ, nghĩa là 10^28. Tiếp tục tính ra ta
sẽ thấy 1 A-Tăng-Kỳ là khoảng, 10^(7.09… x 10^31), nghĩa là con số 1
tiếp theo bởi hơn 7000 tỷ tỷ tỷ con số 0 ở đằng sau, một con số vô cùng
lớn nhưng vẫn có một tên riêng. Chúng ta có thể suy ra:
Vô
Lượng = 10^(2.83… x 10^32), Vô Biên = 10^(1.13… x 10^33),...
và
Bất-Khả-Thuyết = 10^(4.65… x 10^36) nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi
khoảng hơn 4 tỷ tỷ tỷ tỷ con số 0 đứng đằng sau.
Những con số khoa học hiện đại dùng tới có lẽ chỉ vào khoảng 10^40 nghĩa
là chỉ có 40 con số 0 đứng sau. Chúng ta thấy ngay rằng, ngay cả về
phương diện toán số, Phật giáo đã đi trước khoa học khá xa về sự biểu
thị chính xác những con số và đã có quan niệm về những con số vô cùng
lớn, lớn ngoài mức tưởng tượng của các khoa học gia hiện đại.
Quan niệm nhìn vũ trụ một cách toàn ký (The
holographic view of the universe) là một quan niệm mới trong khoa học
hiện đại, bắt nguồn từ sự khám phá ra kỹ thuật chụp hình toàn ký vài
thập niên trước đây. Kỹ thuật chụp hình toàn ký này đã giúp cho một số
khoa học gia giải quyết được một số khúc mắc trong những công cuộc khảo
cứu của họ về ký ức của con người cũng như trong ngành vật lý các hạt
nhỏ (particle physics). Các khoa học gia này, từ những kết quả khảo
cứu mới nhất, đã đưa ra những bằng chứng và đề nghị rằng thế giới của
chúng ta ngày nay và mọi thứ trong đó chẳng qua chỉ là những hình ảnh
không thực, là những dự phóng của một thực thể vượt ra ngoài thực thể
của con người và vượt ra ngoài không gian và thời gian.
Hai khoa học gia được biết đến nhiều nhất trong
quan niệm mới này là nhà vật-lý học David Bohm, rất nổi tiếng trong
ngành vật lý nguyên lượng (quantum mechanics), thuộc đại học Luân Đôn,
Anh quốc, và Karl Pribam, một nhà thần-kinh sinh-lý-học
(neurophysiologist) thuộc đại học Stanford, California. Điều đặc biệt
là Bohm và Pribam, tuy khảo cứu về hai ngành hoàn toàn khác biệt, cùng
phải dựa vào quan niệm toàn ký để giải thích những kết quả khảo cứu của
mình. Bohm khảo sát về sự tương tác của các hạt nhỏ trong ngành vật lý
tiềm nguyên tử (subatomic physics), và Pribam khảo sát về ký ức của con
người trong ngành thần-kinh sinh-lý học. Không đi vào chi tiết, hai
khoa học gia trên đều nhận thấy rằng các lý thuyết cũ trong khoa học
không đủ để giải thích mọi vấn đề trong các ngành khảo cứu của họ, và
khuôn mẫu toàn ký (holographic paradigm) đã giúp họ giải thích một
cách hợp lý các kết quả khoa học của họ.
Nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta có thể nói ngay
rằng khuôn mẫu toàn ký chẳng qua chỉ là sự thuyết giải khoa học của một
phần nhỏ những quan niệm đặc thù trong Phật Giáo đã có từ nhiều thế kỷ
trước như tương duyên, tương tức, tương nhập, tương liên, một là tất cả
v...v... Nhưng trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu đại cương thế nào là
khuôn mẫu toàn ký.
Toàn ký (holography) là một kỹ thuật tạo hình ảnh
bằng một loại ánh sáng đặc biệt thường được biết tới tên quen thuộc là
ánh sáng LASER và hiện tượng giao thoa (interference) quen thuộc của các
sóng. LASER là những chữ đầu của "Light Amplification by Stimulated
Emission of Radiation", có nghĩa là "ánh sáng khuếch đại do phát xạ kích
thích của bức xạ", hay gọn hơn: "ánh sáng khuếch đại do bức xạ kích
thích".
Một phim ảnh toàn ký được tạo ra khi một tia sáng
LASER đơn sắc được tách ra làm hai tia riêng biệt. Tia thứ nhất được
chiếu trên vật muốn chụp hình, thí dụ một bức tượng Phật, dội lại và hợp
với tia thứ hai tạo thành một mô thức giao thoa và được ghi trên một tấm
phim ảnh.
Dùng mắt thường mà nhìn thì hình giao thoa trên
tấm phim, có tên khoa học là “toàn ký đồ”, không có gì là giống bức
tượng Phật cả, mà chỉ là một số mô hình gồm những vòng đồng tâm tương tự
như những vòng sóng lăn tăn trên mặt nước khi ta ném một nắm sỏi xuống
nước. Hình sau đây chỉ là một thí dụ về toàn ký đồ chứ không phải là
toàn ký đồ của bức tượng Phật.
Một Toàn Ký Đồ [A Hologram
Pattern]
Nhưng khi ta chiếu qua tấm phim này bằng một tia
LASER khác, hoặc đôi khi chỉ cần một ngọn đèn thật sáng, một cái hình
nổi của bức tượng Phật sẽ hiện ra. Hình này trông y như thật, ta có thể
đi vòng xung quanh hình tượng Phật này và thấy đó là một bức tượng thật,
bất kể nhìn dưới góc cạnh nào. Nhưng nếu ta muốn nắm bắt hình tượng
Phật này thì ta sẽ không thành công bởi vì khi ta đưa tay vào chỗ hình
tượng Phật này thì sẽ không thấy gì, vì thật ra đó chỉ là một ảo ảnh.
Ngày xưa Phật đã chẳng nói, Phật thì vô hình vô tướng, làm sao mà nắm
bắt được, và Tâm Kinh đã chẳng dạy là "Sắc chẳng khác không, không chẳng
khác sắc, sắc chính là không, không chính là sắc" hay sao?
Nhưng điểm kỳ diệu của kỹ thuật toàn ký là, nếu
ta cắt tấm phim ảnh ra làm hai, rồi chiếu lên mỗi nửa tấm phim này bằng
một tia LASER, ta sẽ thấy mỗi nửa tấm phim sẽ lại tạo ra hình ảnh của
toàn phần tượng Phật. Cứ tiếp tục chia cắt như vậy, mỗi mảnh nhỏ
của tấm phim vẫn tạo ra nguyên hình của toàn thể bức tượng tuy càng ngày
càng mờ nếu mảnh phim càng ngày càng nhỏ hơn. Nói tóm lại, kỹ thuật
toàn ký đã khám phá lại một phần của một quan niệm rất quen thuộc trong
Phật Giáo: một là tất cả. Để cho sự so sánh được rõ ràng hơn, có lẽ
chúng ta nên đi thêm vào vài chi tiết trong công cuộc khảo cứu của
Pribam và Bohm.
Pribam khám phá ra rằng, ký ức của con người
được phân bố đều trong bộ óc và mỗi phần của bộ óc chứa trọn vẹn những
thông tin mà bộ óc ghi nhận. Nếu ta cắt bỏ một phần các vùng ký ức, có
khi là một phần khá lớn, ở trong óc một người thì ký ức của người đó
không bao giờ mất đi một phần, và nếu người đó nhớ một cái gì đó thì bao
giờ cũng nhớ trọn vẹn chứ không bao giờ chỉ nhớ một phần, thí dụ như chỉ
nhớ 1 phần những người trong gia đình, hay một phần của một khuôn mặt
quen thuộc, hay một phần của một câu chuyện mà người đó đã được kể cho
nghe.
Khảo sát về sự tương tác giữa các hạt nhỏ trong
ngành vật lý tiềm nguyên tử (subatomic physics), Bohm đưa ra nhận định
như sau: Thuyết tương đối, quan trọng hơn nữa, cơ học nguyên lượng
(quantum mechanics) đề nghị rằng, người ta không thể phân tích thế giới
thành những phần riêng biệt và độc lập. Hơn nữa, mỗi phần có vẻ như
bằng cách nào đó liên hệ tới mọi phần khác: chứa đựng lẫn nhau hoặc bao
hàm nhau.
Chúng ta thấy rằng kỹ thuật toàn ký đã tạo ra một
căn bản giải thích những kết quả khảo cứu của Pribam và Bohm. Và Pribam
đã đặt một câu hỏi: Nếu các hình ảnh của thực tại ghi trong óc của
chúng ta không phải là một hình ảnh như chúng ta thường thấy mà là một
toàn ký đồ (hologram), vậy thì toàn ký đồ là cái gì?
Vấn đề khúc mắc là ở chỗ nếu ta chụp hình toàn ký
một cảnh, thí dụ một đám người ngồi quanh một cái bàn, và khi rửa phim
ra ta thấy không phải là một đám người mà lại là những hình giao thoa,
vậy thì thực tại là cái gì? Là những hình ảnh thông thường chúng ta
thấy ở ngoài đời ghi nhận bởi quan sát viên/nhiếp ảnh viên hay là những
hình mờ ảo giao thoa ghi bởi máy chụp hình/óc con ngườỉ? Pribam ý thức
được rằng cái mẫu về "óc toàn ký" với những các kết luận hợp lý của nó
đã dẫn đến một vấn nạn về thế giới của thực tại khách quan; thế giới của
sông, núi, cây cỏ có thể là không hiện hữu, ít ra là không hiện hữu như
chúng ta thường tưởng là hiện hữu. Phải chăng quan niệm về ảo tưởng
(maya) của những huyền nhiệm gia cách đây nhiều thế kỷ là đúng, và những
cảnh xum la vạn tượng chẳng qua chỉ là vùng rộng lớn các tần số (vast
frequency domain) biến đổi thành những sự vật SAU KHI nhập vào các giác
quan của con người. Nhưng lãnh vực khảo cứu của Pribam chỉ về ký ức con
ngưòi, và khi biết được những kết quả khảo cứu của Bohm, không những
Pribam tìm ra được giải đáp cho những thắc mắc trên mà còn biết được
rằng, theo Bohm, toàn thể vũ trụ chỉ là một toàn ký đồ (hologram).
Nói một cách vắn tắt thì quan niệm về vũ trụ của
Bohm như sau: thực tại mà chúng ta thấy hàng ngày thực ra chỉ là một
loại ảo tưởng, giống như một hình ảnh toàn ký. Đằng sau cái thực tại
này là một sự xếp đặt sâu sắc hơn của sự hiện hữu mà ta có thể coi như
là bản chất rộng lớn của một thực tại từ đó sinh ra mọi sự vật tạo thành
thế giới vật chất của chúng ta, giống như một mảnh phim toàn ký tạo ra
một toàn-ký-đồ. Bohm gọi cái thực tại sâu sắc này là cấp ẩn (implicate
order) hay sự xếp đặt ẩn và những thứ chúng ta thấy thường ngày thuộc
cấp hiện (explicate order) hay sự xếp đặt hiện của mọi vật. Nói một
cách tóm tắt dễ hiểu thì mọi vật đều sinh ra từ một căn bản chung, và
căn bản chung này khi nhập vào giác quan của con người thì sinh ra mọi
sai biệt mà chúng ta thường thấy ở ngoài đời.
Nhưng có ai ngờ rằng, những quan niệm về vũ trụ
dựa trên khuôn mẫu toàn ký trên đã là những quan niệm đặc thù của Phật
Giáo từ bao thế kỷ trước đây. Thật vậy, quan niệm về Chân Không Diệu
Hữu, và quan niệm về Tâm Chân Như và Tâm Sai Biệt của Bồ Tát Mã Minh
trong Đại Thừa Khởi Tín Luận không khác gì quan niệm toàn ký của Bohm ở
trên, nếu không muốn nói là còn sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Và, nếu
chúng ta quen thuộc với kinh điển Phật Giáo, nhất là kinh Hoa Nghiêm,
thì chúng ta sẽ thấy rằng khuôn mẫu toàn ký và những quan niệm của
Pribam và Bohm thực sự đã chậm mất 25 thế kỷ. Để làm sáng tỏ vấn đề
này, chúng ta hãy đọc phớt qua chút ít về Kinh Hoa Nghiêm.
Trước hết, chúng ta hãy đọc vài lời tựa của Hòa
Thượng Thích Đức Niệm ở đầu mỗi cuốn trong bộ kinh Hoa Nghiêm do Thích
Trí Tịnh dịch:
"Kinh Hoa Nghiêm là bộ Kinh Đại Thừa, là vua
trong các Kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy
nga, thể hiện Pháp thân, tư tưởng và tâm nguyện của Phật.
...Tư tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm
sanh. Tâm là thực thể của vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện
sai biệt, hình hình sắc sắc, trùng trùng duyên khởi, cái này có cái kia
có và ngược lại, như lưới đế châu. Tâm chơn thì pháp giới tánh với tâm
là một, vạn vật đồng nhất thể....Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật chỉ cho chúng
sanh thấu rõ cội nguồn của xum la vạn tượng do mê thức vọng tưởng nghiệp
duyên hình thành, các pháp hiện hành trong vũ trụ là huyễn hóa, như hoa
trong gương, như trăng dưới nước. Tất cả vạn pháp trong pháp giới đều
từ tâm sanh. Tâm trùm khắp cả pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể
nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn
pháp. Thể tánh của tâm nhiếp thâu tất cả. Tất cả là một, một là tất
cả."
Vài lời trên đã tóm tắt phần nào những tinh túy
của Kinh Hoa Nghiêm. Thật vậy, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Phẩm
Nhập Pháp Giới, lời của nữ nhân Thích Ca Cù Ba giảng một pháp môn giải
thoát cho Thiện Tài đồng tử:
"Này Thiện Nam Tử!.. Ta quán thân của Bồ Tát,
nơi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm thấy vô lượng vô biên thế giới rộng lớn,
những sự an trụ, trang nghiêm, hình trạng, những núi, đất, mây, danh
hiệu, Phật xuất thế, những đạo tràng, chúng hội, diễn thuyết những khế
kinh, những sự quán đảnh, các thừa, những phương tiện, những thanh tịnh.
Lại mỗi niệm nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát
thường thấy vô biên phật hải, những sự ngồi đạo tràng, những thần biến,
thuyết pháp, thuyết kinh hằng không gián đoạn.
Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát thấy vô
biên chúng sanh hải: những trụ xứ, hình mạo, tác nghiệp, căn tánh...."
Với lời tựa của Hòa Thượng Thích Đức Niệm và lời
trích dẫn trong kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy rằng quan niệm toàn ký của
các khoa học gia đã dựa vào các tư tưởng của Phật Giáo rất nhiều. Nhưng
xét cho kỹ thì quan niệm toàn ký trong khoa học chỉ có tác dụng giải
thích một số khúc mắc trong khoa học một cách đại cương trong khi quan
niệm về tương thông, tương tức, hay dung thông vô ngại bao trùm mọi pháp
giới. Nếu chúng ta đọc đoạn cuối của Kinh Hoa Nghiêm , khi Thiện Tài
đồng tử vào trong lâu các Tỳ Lô Giá Na và rồi sau đó gặp Phổ Hiền Bồ Tát
thì chúng ta sẽ thấy quan niệm về một vi trần chứa đủ thiên sai vạn biệt
trong vũ trụ đã được trình bày với đầy đủ chi tiết và kèm vào đó những
công hạnh của Bồ Tát. Và đây chính là điểm vi diệu của Kinh Phật vì
ngoài việc dùng để giải thích những sự việc ngoài đời như khoa học, điểm
chính yếu là cái dụng của Kinh Phật như sẽ được tóm tắt sau đây.
Chúng ta biết rằng kinh căn bản trong Hoa Nghiêm
Tông là Kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm bao gồm toàn bộ giáo lý Phật
Giáo một cách hòa hợp, đa dạng; đó là một kinh được coi là cao nhất
trong mọi kinh Phật ở Á Châu. Kinh trình bày một môn siêu hình học vô
cùng tiến bộ và là một tập hợp phát triển tư tưởng một cách kỹ lưỡng,
tinh tế để dẫn con người tới toàn giác.
Nhưng muốn nhận định đúng giá trị của Kinh Hoa
Nghiêm chúng ta phải xét đến cái mặt dụng của Kinh này. Vì chúng ta đã
biết, trong Phật Giáo, Kinh Phật thật là vô ích nếu chúng ta chỉ để ý
tới phần lý thuyết mà không áp dụng chúng vào đời sống thường ngày. Các
thiền sư thường ví những người tìm hiểu kinh mà không thực hành như là
những người "đọc thực đơn mà không ăn" hay là "đếm tiền của
thiên hạ trong ngân hàng".
Nói một cách ngắn gọn, Kinh Hoa Nghiêm cho chúng
ta một tập hợp những phương thức tu tập - một lối nhìn sự vật trên mọi
góc cạnh, từ đó khám phá ra sự hòa hợp và bổ túc lẫn nhau tiềm ẩn sau
những khác biệt và mâu thuẫn biểu kiến của mọi sự vật ở trên đời.
Giá trị của sự tu tập này là sự phát triển một quan điểm tròn đầy, lành
mạnh, giúp ta khám phá ra sự thống nhất của mọi Pháp nhưng không phủ
nhận sự khác biệt của các Pháp. Từ quan điểm này, con người vượt
qua được những ngăn ngại tâm linh do sự chấp vào các sai biệt của vạn
vật mà sinh ra. Quan niệm về Chân Đế và Tục Đế của Bồ Tát Long Thọ
trong Đại Trí Độ Luận sẽ giúp chúng ta tu tập trong Chân Đế nhưng không
quên Tục Đế. Từ đó, với sự phát triển bồ đề tâm, cái quan điểm viên
dung này vận hành bất tuyệt trên cách hành xử của các bồ tát trong công
cuộc tự giác, giác tha. Một khi hội nhập được vào ý tưởng dung thông vô
ngại của Kinh Hoa Nghiêm, với căn bản là bồ đề tâm, hành giả sẽ không
còn bị ngăn ngại bởi bất cứ cái gì về cách hành xử trong Bồ Tát Đạo.
Hành giả sẽ tự do hành xử để giúp chúng sinh ra khỏi chỗ mê mờ của những
giáo lý những điều mê tín không còn thích hợp với sự tiến bộ tri thức
của con người ngày nay.
Bài trên đây chỉ có mục đích chứng tỏ rằng các tư
tưởng trong Phật Giáo đã đi trước và sâu sắc hơn các quan niệm của khoa
học hiện đại nhiều, hiển nhiên tôi không thể đi vào chi tiết của khoa
học cũng như Kinh điển Phật Giáo trong một bài viết ngắn. Bạn đọc nào
muốn hiểu thêm về bồ đề tâm hay những quan niệm như tương duyên, tương
tức, dung thông vô ngại trong Phật Giáo xin hãy chăm đi lễ Chùa và thụ
huấn quý Thày. Tôi bảo đảm là các bạn sẽ không cảm thấy lãng phí thì giờ
trong việc tìm hiểu kinh Phật vì Kinh Phật là một kho tàng vô giá và vô
tận để phát triển trí tuệ con người thay vì giam hãm đầu óc con người
trong những ngục tù tâm linh.
http://www.bu