Nhà khoa học trứ danh Bertrand Rusell đã tóm tắt lập trường về quan
điểm Triết học hiện đại như sau:”Giả sử vật lý học mà ông ta đại khái
trình bày đúng, chúng ta có thể biết nó là đúng hay không? Và nếu câu
trả lời là đúng trong sự khẳng định, điều này có bao hàm sự hiểu biết về
các chân lý khác bên cạnh những lý thuyết về vật lý không? Chúng ta có
thể nhận thấy rằng, nếu thế giới như vật lý học tuyên bố nó không phải
là một tổ chức biệt lập để chúng ta có thể hiểu được nó là cái này hoặc
cái kia. Nếu môt tổ chức có thể tự hiểu nó là như vậy, nó phải biết một
vài điều khác hơn vật lý học, nhiều nguyên tắc đặc biệt nào đó có thể
suy diễn.( “Physis and Experience”, Cambride University Press)
Lập trường này đòi hỏi một chút giải thích mở đầu. Vào những ngày khi
khoa học được tin tưởng nắm giữ chiếc chìa khóa với tất cả sự bí mật của
vũ trụ. Sự lý giải hão huyền về đời sống tiếp tục thống trị không thể
chố cãi. Khoa học, nó đã là quan điểm, chỉ có di chuyển cái chìa
khóa-nghĩa là mở hạt nguyên tử ra để khám phá-và tất cả căn nguyên hiện
tượng vật chất sẽ được phơi bày. Tất cả tiến trình đời sống và tư duy
được tin tưởng rằng có một nguồn gốc và căn bản cụ thể, và không có cơ
sở dành cho những khái niệm về Tôn giáo siêu nhiên. Mọi thứ là sự tiến
hành máy móc đối với nguyên do và hệ quả, không có gì vượt quá.
Tính hiển nhiên oh của vật lý học đến mức nó đi ào ào, và đã chứng minh
qua những sự phát minh về Thiên văn học, Tâm lý học và thuyết Tiến hóa
Darwinian, điều mà nhà khoa học cho rằng họ hiểu thế giới tự nhiên với
những tiến trình nguyên tử rõ ràng. Nếu lập trường liên quan trực tiếp
và ảnh hưởng đối với tất cả những phần thuộc về nguyên tử trong vũ trụ ở
bất kỳ phút giây nào đó đã đưa ra là đuợc biết đến, mỗi một biến cố
tương lai trong không gian và thời gian đã có thể dự đoán một cách chính
xác. Nó là câu hỏi duy nhất về việc tiếp thu dữ liệu.
Trong khi chìa khóa thời gian đã chuyển hướng, việc lập trình về nguyên
tử đã đựợc giải thích, nhưng nó đã tìm đến sự phân giải với chính nó tạo
thành tiềm năng. Một chu trình biến hóa từ một hình thái của sự phóng xạ
trở thành cái khác, một chu kỳ liên tục của sinh và diệt của những hạt
điện tử. Và sự khám phá về việc thay đổi cơ khí lượng tử khác đã bước
vào kế hoạch lập trường quan hệ nhân quả đã được chấp nhận.
Điều này được hiểu rằng, mặc dầu nguyên tắc về Tính có thể dự đoán vẫn
đúng với những số lớn đối với những tiền tố nguyên tử, nhưng nó không
làm căn cứ cho yếu tố về thuyết định mệnh vốn không tuyệt đối, nó có thể
ứng dụng duy nhất cho việc thống kê hoặc số học, nơi mà nhóm nguyên tử
lớn đang đang còn phối hợp nhau. Khái niệm mới này đã mở ra con đường
với những gì được gọi là nguyên lý không vững chắc.
Từ quan điểm Triết học, đó là sự trình bày một cách chính xác, không
liên quan đến các nhà khoa học thuần túy-những người chỉ bận tâm đến các
sự nghiên cứu hiện tượng không liên can chính nó. Nguyên tắc không vững
chắc này làm cơ sở cho quan điểm tự nguyện, điều này thiếu vắng tư tưởng
cần thiết về một vũ trụ được xác định hoàn toàn bởi nguyên lý quan hệ về
nhân được xác định là không biến đổi.
Với sự thay đổi hơn từ khái niệm Tĩnh đến Động của vật chất, khoa học đã
không thay đổi học thuyết Duy vật của họ, bởi vì khoa học bằng tự nhiên
của nó phải nắm bắt nội dung hoặc tính chất của sự vật với những điều mà
nó đang hoạt động, nhưng một sự thay đổi triệt để đã xảy ra trong những
khía cạnh tư tưởng nhận thức của chính nó, con người, và công việc tư
duy của ông ta là một phần của vũ trụ, và sự khảo sát của ông ta về hiện
tượng của nó giống như một người nhìn vào thao tác bộ óc của chính mình.
Ông ta đang nhìn vào đó với cái mà ông ta đồng nhất chính mình. Ông ta
không thể đi ra ngoài và quan sát nó một cách khách quan. Bức tranh của
vũ trụ đã hiện diện xuyên qua những giác quan của ông ta thì hoàn toàn
khác biệt từ bức tranh đã đựơc cho bởi vật lý học. Nơi mà tri giác của
ông ta bảo với ông ta sự kiên định từ vật chất, vật lý học bảo với ông
ta không có gì ngoài sự sắp xếp của những trạng thái thay đổi không
ngừng của sự sinh diệt nhanh chóng, và hơn nữa , những hình thái rắn
chắc đó thật sự không có gì, nhưng những biến cố trong không-thời gian
thì liên tục, và cái gọi là chủ thể vật chất chính là không gian chủ yếu
của chính nó. Không có một thể đồng nhất như thế khi chúng ta hiểu sự
giới hạn. Nó đơn thuần là sự quy ước diễn dịch dựa trên dữ liệu lừa dối
được cung cấp bởi những giác quan của chúng ta, chỉ có thể có nghĩa tiếp
xúc với những biến cố ngoài tự thân và dữ liệu của vật lý học, tương tự
như thế, nó phải ảnh hưởng đến chúng ta xuyên qua những giác quan. Do đó
vấn đề xuất hiện, chúng ta có thể biết nó luôn luôn là hình ảnh nào đó
được đại diện bởi vật lý là một điều đúng? Hình ảnh này, nó phải bị hồi
tưởng là một hình ảnh thuộc về lý thuyết thuần túy, nó là một đề tài lớn
của những công thức toán học, từ tư tưởng phải tạo nên bất cứ sự tưởng
tượng nào tương đương mà nó có thể. Vũ trụ của vật lý là một khái niệm
hoàn toàn của trí óc, chúng ta không thể tạo ra bất kỳ hình ảnh nào về
không gian và thời gian nhiều chiều của Einstein, cho nên chúng ta phải
dựa vào bằng chứng của toán học, điều này để lộ một khía cạnh mới hoàn
toàn nằm ngoài phạm vi kinh nghiệm thông thường của chúng ta. Tuy nhiên
nhà vật lý học đã đi đến sự ngờ vực ngay cả công việc đối với quan điểm
của chính ông ta, từ đó nó là một phần chính nó của sự bịa đặt hoàn toàn
không thật, và thế là ông ta phải thúc đẩy với việc tự đặt câu hỏi để
thay đổi “nếu vật lý học là đúng, thì nó có thể cho chúng ta biết nó là
đúng?” Toàn bộ sự liên hệ từ chủ thể này đến chủ thể khác là như vậy đã
quy về câu hỏi. Khi sự chú tâm đã ghi vào ấn tượng thì chúng ta gọi là
“quán chiếu một chủ thể”, chúng ta có thể là cái gì đó mà sự vật đã được
thấy thực sự tồn tại bên ngoài chúng ta, hoặc có bất kỳ biến cố nào đó
xảy ra trong không-thời gian chứa đựng sự tương đồng không đáng kể với
những gì mà chúng ta suy tư hoặc thấy được? Khoa học có thể không cho
chúng ta sự đảm bảo đối với điểm này.
Quan điểm khoa học về hiện tượng vũ trụ đã tác động đến bệ đài này. Và
dường như không thể đi qua nó, để thấy hình ảnh trong sự hoàn hảo của
chính nó, một tư tưởng được đòi hỏi tự thân nó không liên lụy trong tiến
trình hiện tượng, một tư tưởng siêu việt là bên ngoài lãnh vực của quan
hệ nhân quả và sự liên hệ từ chủ thể này đến chủ thể khác. Nó phải biết
vài điều khác hơn vật lý học.
Đến nay, khoa học đã hỗ trợ cho chúng ta với phương pháp của chính nó,
để hiểu những nguyên lý Phật giáo về Vô thường (anicca), Khổ (Dulkha) và
Vô ngã (Anatta), với sự giải thích mà nó đem đến cho thế giới là sự dung
hòa hoàn hảo qua triết học Phật giáo “tiến trình hằng chuyển của vũ trụ”
đẩy lùi cái Không cố hữu về vật chất là nguyên tắc cơ bản của Phât giáo.
Sự vận hành đã được quan sát một cách thực tế trong đỉnh của oh thiền
định. Những thành phần nguyên tử đã được thấy và hiểu, và cái khổ của
sinh và diệt đã tạo thành sự hiểu biết của chính nó với tư tưởng, chấm
dứt sự đồng hóa mà hắn ta vận hành với những gì mà chúng ta gọi là
“tôi”, ảo tưởng Sakkaya-ditthi (hành uẩn). Sự hiểu biết siêu phàm của
Phật giáo bắt đầu nơi mà khoa học từ bỏ, nhưng bởi Phật giáo đã y cứ vào
tri giác trực tiếp đối với chân lý cuối cùng, nó chỉ thuộc về tự nhiên
mà những khám phá của khoa học phải củng cố như họ đang làm hôm nay.
Toàn bộ tiến trình ảo thuật sinh và diệt của hiện tượng có thể được bao
hàm trong từ ngữ “Maya”. Từ này thường được dịch như “ảo tưởng” nhưng mà
không chính xác hoàn toàn, lãnh vực của Maya là sự quan hệ chặc chẽ,
nghĩa là nó hiện hữu trong tầng số của chính nó, nhưng nó không xác thực
trong bất kỳ ý thức tuyệt đối nào. Với sự vận hành nhận thức trên tầng
số tương tự, hoặc giống như tầng số rung động. Một thể rắn là sự đồng
nhất chính xác khi nó xuất hiện xuyên qua Panca-dwara của những giác
quan. Nhưng với sự tác dụng nhận thức trên một cấp số khác nhau, sự đồng
nhất sẽ được thấy trong một chiều khác biệt; nó sẽ xuất hiện như vật lý
nói với chúng ta nó là, một sự tập hợp của phân tử trong sự chuyển động
liên tục, cái thể khối vẫn được thấy như mãnh lực không gian, với những
phân tử rộng đã chia ra, giống như những ngôi sao trên bầu trời, và chỉ
có những cánh đồng trong khoảng không với ảnh hưởng điện từ của lực hút
và lực đẩy. Ngay như phương pháp liên hệ tương tự với những hệ thống
hành tinh của vũ trụ là được thiết lập chung nhau. Từ một tầng số khác
nó sẽ được đơn giản như thao tác của một nguyên tắc. Và từ mặt phẳng
khác của ý thức nó sẽ tìm thấy sự không tồn tại, ở đây có thể là sự
trống không, hoặc Pháp không. Mặt phẳng đó sẽ nằm bên ngoài của vòng
quan hệ nhân quả, một trạng thái không thể suy lường với tuệ giác vốn
có, điều này phụ thuộc trên những biến cố trong không gian-thời gian với
sự hiểu biết của chính nó, và chúng ta có thể coi như nó tương đương với
trạng thái cơ bản của Nibbania (Niết bàn). Trạng thái này không sinh mà
cũng không diệt. Sự liên tục của không gian và thời gian của khái niệm
về hiện tượng đã được vượt qua với sự vô tận, trạng thái vô điều kiện sẽ
có thể đạt tới.
Những tầng số cao của ý thức trong cái thể khối thì được thấy trong
những khác biệt, mỗi chiều hướng với những khía cạnh phi vật chất hơn
cái đứng trước nó, có thể được xem như bốn Brahma-viharas (trụ xứ thanh
tịnh), nơi mà ý thức đã được tự do từ ảo tưởng vật chất thô phù và những
cảm thức thay cho định luật thống trị tiếp sức để biết nó. Cuối cùng,
“vật chất” đó chỉ là sự biểu lộ của những qui tắc trên, xuất hiện trong
những khía cạnh khác biệt trên những mặt phẳng khác nhau của sự nhận
thức. Với Kamavàcara- citta (tâm), hoặc hình thái Rupa (sắc)xuất hiên
đồng nhất, và trên tầng số đó nó là những gì mà nó xuất hiện; nhưng ý
thức nhìn nó trong ánh sáng của Pháp, định luật nhân quả trở nên rõ
ràng, và trong vị trí của Rupa thì ba đặc tính thích hợp đã được nhận ra
là Vô thường, Khổ và Vô ngã. Có ba dấu hiệu mà người ta đã đi đến sự kết
thúc cuối cùng của chính mình trên mặt phẳng trí tuệ, họ đi tới điểm
thấp nhất trong việc nhận thức về hiện tượng vật chất, nhưng điểm bí mật
cuối cùng của nó vẫn xuyên qua chính họ. có nhiều kiếp sống trước kia,
cái mà tư tưởng không có khả năng khảo sát, bởi vì vòng nhân quả trong
chiều hướng chuyển động đã hoàn thành. Trạng thái kế tiếp của sự phát
triển phải nằm trong một khía cạnh khác biệt. Xảy ra trọn vẹn để mang
đến một sự tái định hướng của tất cả quan niệm chúng ta đối với con
người và không gian của nó trong mô hình vũ trụ, và nó tiêu biểu với một
lợi thế cao cho cả quan điểm Duy tâm và Duy vật đã thịnh hành trước đây.
Giống như mọi thứ khác, nhân tố xoay quanh trong một vòng tròn, giáp
điểm với sự hạn chế của suy tư thuộc về nhận thức, và điểm nhọn xung
quanh mà nó xoay là sự khác nhau của tiến trình phân biệt đang được
nghiên cứu từ “bản ngã”, đang khảo sát nó. Đây là sự chướng ngại căn bản
Sakkaya-ditthi, bởi vì sự thực thì không có “tự ngã” tách rời tiến
trình. Với quan điểm hiện đại thì không có cái như là “tôi”, thế giới là
sự đối thoại ngữ pháp một cách đơn thuần, mỗi một thế giới mà bây giờ
chúng ta biết thuộc về quá trình của tư tưởng, có thể được trình bày
không qua ngôn ngữ. Chúng ta hiểu điều này cũng đã dựa vào những thẩm
xét của Bertrand Rusell và những nhà nghiên cứu khác.
Những khám phá của Vật lý học có bản đối chiếu trong tâm lý học. Trong
sự phân tích đối với sự vận hành thuộc về tâm linh là sự phối hợp cao
của hành vi che dấu và được mang ra ánh sáng, và xác định những quan hệ
nguyên nhân đã tùy thuộc giữa cấp độ ý thức và không ý thức của tư
tưởng. Những điều không ý thức thì được lưu trữ trong kinh nghiệm tích
lũy của cá nhân, cung ứng những khuynh hướng để thúc đẩy những hành động
ý thức. Cho nên nó có thể đồng nhất với Bhavanga (tiềm thức), hoặc Đời
Sống Liên Tục, điều này thay thế vị trí của bất kỳ thực thể liên hệ nào
giữa phương diện ý thức và sự nối tiếp. Giáo sư William James là nhà tâm
lý học đầu tiên tạo ra công thức học thuyết Point-moments (điểm khoảnh
khắc) của ý thức. Ông ta chứng minh rằng những Points-moments này là sự
sinh ra và biến mất trở lại trong sự tiếp nối nhanh chóng, do vậy nó
phát sinh ấn tượng về một thực thể tiếp nối, trong khi chúng nó thật sự
chỉ là những phần Vi phân của chuỗi kế tiếp, mỗi sự tồn tại với một phân
số của một kẻ hở của tích tắc giây, và rồi diệt mất để nhường chỗ cho sự
kế tiếp của nó. Thực tế, chúng nó giống như hàng ngàn bức tranh Tĩnh học
trên một cuộn phim, khi nó chạy qua máy chiếu, tạo thành những ảo giác
về hình ảnh di động một chiều. Xa hơn, chúng ta chỉ biết được về sự rời
rạc trong khoảnh khắc diệt của nó, bởi vì chúng nó thỉnh thoảng được gọi
là những chỗ chết, và những ý thức tổng hợp thì còn tùy thuộc ở trên ký
ức.
Điểm khoảnh khắc này, phát triển trong sự phục tùng với định luật nhân
quả, mỗi cái có nguồn gốc nguyên nhân với cái đi trước nó, nhưng không
có sự liên hệ khác giữa chúng nó. Trong những chiều hướng tâm lý mà
chúng ta chợt bắt gặp là tiến trình nhân quả và trong trạng thái liên
tục của sự thay đổi không ngừng trong tư tưởng. Lần nữa, như trong vật
lý học, chúng ta chỉ tìm sự quan hệ về nguyên nhân và sự phân tích A tỳ
Đạt Ma có tác dụng tốt trong mọi chiều hướng của đời sống.
Freud đã tiến thêm với lập trường đối với mỗi một hành vi rõ ràng của sự
tỉnh thức bị xúi dục bởi một nguyên nhân đứng trước, và không có quan
điểm nào có thể xuất hiện một cách tự động. Điều mà ông ta chứng minh về
“ Tâm Lý Học Đời Sống Hằng Ngày” của ông ta. Khi nguyên nhân đã không
thể tìm được trong ý thức, ông ta tìm nó trong vô thức. Những sự nghiên
cứu của ông ta đã hướng dẫn ông ta đến học thuyết gọi là accidents (sự
tình cờ) vốn là kết quả mong mỏi của tiềm thức, trong thực tế chúng nó
đã được quản lý bởi tiềm thức vì những lý do của chính chúng. Học thuyết
này đã được tranh luận bởi những nhà nghiên cứu về sau, tuy nhiên Freud
đã tập hợp một khối lượng kinh khủng cho việc chứng minh trong khi
nghiên cứu về nó.
Dựa theo quan điểm Phật Giáo, điều này xuất hiện ít nhất một chân lý cục
bộ. Bởi vì ở tầng vô thức của tâm chứa đựng những khuynh hướng và sự
thiên lệch về cá nhân, đây là những ảnh hưởng của Nghiệp đã tích lũy, nó
là sự hoạt động của phần ý thức đó để xác định những kinh nghiệm và
những biến cố của đời sống chúng ta. Nó không phải là ý chí vô thức tác
động những biến cố, bởi vì nó có sự tự nhiên duy nhất của tiềm
thức(bhavanga), một sự luân chuyển đã trực tiếp bởi những tư tưởng tập
khí của quá khứ, và thiếu đi đặc tính của ý chí-một đặc trưng của giác
ngộ; tuy nhiên những biến cố, chẳng hạn như accidents được xác định một
cách chắc chắn bằng vô thức trong sự tháo gỡ những chức năng máy móc của
nó về việc phóng chiếu những tình thế trên để thiết lập những kinh
nghiệm cá nhân trong tình trạng giống với Kamma (Nghiệp) “Mano
Pubbangama dhamma; manosettha, manomaya,” “Muôn pháp khởi động từ tâm,
tâm là vị lãnh tụ, mọi thứ đều do tâm tạo”. Sự sai lầm đơn thuần của
Freud là ông ta mắc phải một sự nhận thức cục bộ về phương pháp nhân quả
trong tiềm thức đối với hoạt động của ý chí. Đó là tại sao học thuyết
của ông ta chẳng bao giờ được chứng minh một cách hoàn hảo, mặc dù có tỷ
lệ kết quả cao trong những cuộc thí nghiệm của ông ta. Nó là sự điển
hình khác về khoa học cho việc đến gần Phật giáo, nhưng thiếu đi chiếc
chìa khóa-sẽ không mở được cánh cửa cuối cùng.
Những nhà Duy vật khẳng định rằng tâm và hoàn cảnh bên ngoài có một căn
bản chủ yếu; với nhà Duy tâm, ngược lại, xác nhận rằng vật chất tồn tại
chỉ bởi tác dụng của tâm. Nhà duy vật viện dẫn bằng chứng rằng Tâm chỉ
là một sản phẩm của trí óc-môt vật thể thuần vật chất. Những vật thể vật
lý tồn tại trong không gian đã bị va chạm xuyên qua hệ thống dây thần
kinh hướng về mắt, tai, mũi, lưỡi và bề mặt của da. Kết quả cảm giác này
tùy thuộc vào sự tồn tại của não bộ, một trung tâm thần kinh phức tạp
của vật chất với chức năng đặc biệt của chính nó của sự tập hợp và tương
ứng với dữ liệu mà nó đã nhận. Nếu não bộ bị nguy hiểm nó hoạt động một
cách không hoàn hảo. Nếu nó bị tàn phá, nó không còn chức năng nào cả.
Tâm, do vậy được xem là một động lực tùy thuộc hoàn toàn vào nhân tố vật
chất.
Tính hợp lý của quan điểm này không thể chối từ được, nhưng nó không
biện minh được đối với tất cả trường hợp.Nếu sự tiến hành một cách chính
xác đối với máy móc đã quyết định những căn nguyên vật lý-có thể quay
lại với nguyên lý vật chất và tuân theo định luật nhân quả cứng ngắc,
không có cơ hội đối với việc thực nghiệm tự ý. Sự tiến triển rồi trở
thành một quá trình máy móc có quyết định, nó không có tự do chọn lựa
giữa những chọn lựa có thể. Nhưng ngay cả chu trình sinh vật học vẫn đòi
hỏi như một sự chọn lựa từ sản lượng của các loài đặc trưng được cho là
do sự chọn lựa của tự nhiên. Những loài đó, như là voi răng mấu, khủng
long brontosaurus, thằn lằn ngón cánh và tất cả những loài tuyệt chủng
khác-đã tạo thành động vật được chọn của sự phát triển, phù hợp với
chúng trong một môi trường thích hợp, và biến mất khi môi trường đó đã
thay đổi. Chúng nó đã quá đặc biệt và không thể thích nghi với bản thân
của chúng nữa. Không có sự tự động nào về quá trình của các loài, hay nó
đã được điều khiển bằng một hệ thống thử nghiệm sai lầm, và ít nhất cũng
chỉ ra rằng càng thất bại càng có kết quả. Có một vài người cho rằng,
con người tự thân phải bị kẹt vào giữa những sai lầm, từ đó ông ta chứng
minh một khuynh hướng tự hủy, bởi vì sự thật việc tiến triển tâm linh
của ông ta đã không theo kịp ưu thế tăng dần của vật lý.
Quan điểm về sự phát triển đúng đắn trong sự tiến hóa đã được loại bỏ
bởi khoa học, và nếu học thuyết hiện đại tăng thêm sự phù hợp với những
gì chúng ta biết về sự tiến hóa như nó ứng dụng đối với cá thể. Sự tiến
hóa đó đòi hỏi tự do về việc chọn lựa giữa sự xen kẻ của những hành động
đúng và sai. Có sự phát triển hoặc thoái bộ, xuyên qua sự hướng dẫn của
Nghiệp (Kamma) tốt hay xấu, và toàn bộ khái niệm về Nghiệp dựa trên ý
chí. Nó không phải là học thuyết định mệnh khi nó thỉnh thoảng bị giải
thích sai. Hành động trước quyết định những kinh nghiệm và những hoàn
cảnh mà con người phải đối diện trong đời sống, nhưng nó có những khuynh
hướng đặc biệt đối với cá nhân, nó là sản phẩm của những hành động tích
lũy của ý chí, cái mà quyết định cách mà chúng ta gặt hái những hoàn
cảnh đó khi chúng ta xuất hiện, không có sự “ tình cờ” như trong định lý
tự nhiên, nhưng “ nguồn gốc không căn cứ” mà chúng ta đã khám phá trong
vật lý học thừa nhận đối với sự nghiên cứu về những nguyên nhân chưa
được biết tới, như trong hoạt động không thể đoán trước của những nguyên
tử biệt lập. Trong trường hợp của một cá nhân, ví dụ, nó có thể dự đoán
tương đối chính xác cách mà cá nhân sẽ hành động trong một tình thế được
cho khi những xu hướng đặc biệt của ông ta đã được biết, nhưng không thể
bảo đảm tuyệt đối chắc chắn. Một người lương thiện có thể, dưới áp lực
của hoàn cảnh, hoặc vì khuynh hướng ngấm ngầm của Nghiệp, hành động một
cách không lương thiện, hoặc một người dũng cảm trở thành nhát gan và
ngược lại. Điều này giải thích sự tương phản và thường xuyên xảy ra đối
với bẩm sinh của con người. Chúng ta có thể chẳng bao giờ có sự tuyệt
đối nào đó về những cá nhân mà chúng ta suy nghĩ và biết như thế, sẽ
luôn luôn hành động một cách chính xác “trong cái đặc tính”. Cá nhân là
một mô hình thay đổi, biến đổi từng khoảnh khắc, và duy nhất bị hướng
dẫn bởi căn nguyên rộng lớn nào đó-tiêu biểu Sankkhara(hành uẩn). Những
xu hướng tích lũy hoặc thói quen tập nghiệp tạo thành. Liên quan với
những cơ cấu tập nghiệp này, nó được trình bày duy nhất trong hệ thống
Phật giáo, nó đưa ra vị trí quan trọng phù hợp với chính chúng trong
lược đồ của tiến trình cá nhân. Qua tập nghiệp đó mà chúng ta được
khuyên phải loại trừ những khuynh hướng xấu và đẩy mạnh những điều tốt.
Sự hình thành tâm lý của chúng ta như thế xuyên qua hành động tích chứa
của động lực tích cực như được biểu thị bằng bốn sự nỗ lực chân chánh
(sammappadhama), đây là một trong 37 phẩm trợ đạo. Bây giờ, tập nghiệp
và sự kết nối tư tưởng quan hệ chặt chẽ, như trong tâm lý học hiện đại
đã chứng minh, trong kinh nghiệm của chính hắn trên sự phản chiếu hoàn
cảnh. Plavlov đã xác minh sự quan hệ giữa những tư tưởng liên kết và
những phản ứng vật lý. Những con chó mà ông ta dùng cho sự nghiên cứu
của ông ta được huấn luyện để liên kết với âm thanh của một cái chuông,
hoặc một vài tiếng ồn khác, với tư tưởng về thức ăn, khi chúng nó nghe
tiếng đặc biệt đó, chúng đã biểu hiện những phản ứng giống nhau như thể
chúng nó đang nhìn hoặc đang ngửi thức ăn. Miệng của chúng chảy nước, và
chúng tỏ vẻ vui mừng, điều này chứng tỏ rằng âm thanh và tư tưỏng về
thức ăn đã trở nên liên kết chặt chẽ trong chúng. Tư tưởng của một con
chó thì rất đơn giản khi so sánh với con người, điều này dễ dàng hơn
trong việc tìm thấy sự tiếp nối của những biến cố và hệ quả vật lý của
nó. Nó hoạt động hầu hết hoàn toàn trên hệ thống này của sự phản chiếu
được quy định. Khả năng lý luận là sơ bộ, và khi chúng ta đi xuống trong
hình thức của hệ thống sinh vật chúng ta thấy rằng chúng nó trở nên
nhiều thuộc tính bản năng hoặc như cái máy. Ví dụ, con kiến nhỏ hơn phần
tử của cái máy, bị điều khiển bằng một tư tưởng nằm ngoài chính nó.
Những cuộc thí nghiệm gần đây với những loài kiến trắng đã cho thấy
rằng, đầu đàn là con kiến chúa, và đàn kiến phải được xem xét như một
vật đơn giản, với não bộ và tế bào thần kinh tập trung của nó đặt vào vị
trí của con chúa. Nếu con chúa bị tiêu diệt, những con kiến trở thành
hỗn độn, chạy cuồng loạn khắp nơi, và hệ thống trật tự của bầy kiến hoàn
toàn tan rã. Do vậy, cá thể của loài kiến không phải là một sinh vật
hoàn toàn với chính nó, nó duy nhất là một phần của tổng thể. Chúng nó
như chân tay của thân thể chính, bị tháo gỡ ra từ nó, nhưng chức năng
trong tất cả khía cạnh giống như những bộ phận của động vật đơn thuần.
Điều này cho thấy rằng, chúng nó được trực tiếp bằng một loại hệ thống
radar phát ra từ con kiến chúa. Khi con kiến chúa bị giết hoặc bị thương
giống như não bộ của loài kiến đó bị hãm hại; chức năng di chuyển không
còn sự phối hợp, giống như người mất trí. Nhưng não bộ của sinh vật-con
kiến chúa thì hoàn toàn giới hạn ở cơ giới (kỹ thuật), nó thực hiện
những chức năng đòi hỏi của nó đối với sự sống còn của đàn kiến. Xuyên
qua khuynh hướng cố hữu chuyển giao từ một thế hệ của những con kiến
chúa với vật cùng loại. Trong phạm vi giới hạn của nhu cầu chính nó là
một sinh vật hoàn hảo, nhưng nó không có khả năng phát triển xa hơn. Tại
sao như thế? Chúng ta chỉ có thể tổng kết rằng, có sự ảnh hưởng mục tiêu
phát triển giới hạn của nó, nó không cần phải luyện tập bất kỳ sự chọn
lựa nào nữa giữa những gì có khả năng thay đổi đồng loại; nó đã giao lại
năng lực tự nguyện và đã trở thành một sự sắp đặt tự động. Nó biểu thị
một trong những tầng số của ý thức bị thống trị hoàn toàn bởi
Nghiệp-những kết quả của nguyên nhân trước đã phát ra ngoài ở bất cứ cơ
hội nào cho việc dùng nó đối với sự lợi thế, và có thể được xem xét như
sự điển hình của ý thức đặc thù đối với tất cả bốn mặt phẳng của Apaya
trong những tầng số khác nhau. Câu hỏi là đã được phối hợp với lãnh vực
Puggala-bhedo trong Abhidhamma (A tỳ Đạt Ma).
Có một sự tương đương với loại ý thức tự động được tìm thấy trong một
vài con người và con kiến, có thể được xem như sự cảnh cáo đối với những
ai hy sinh nền độc lập của họ với quan điểm trở thành nô lệ cho quyền
thế và truyền thống. Họ hy sinh chính họ như một con kiến ý thức, và nếu
họ biểu lộ như những con kiến, đó là sự lựa chọn của chính họ. Sự trình
bày quan điểm với chủ nghĩa độc đoán là sự dễ dàng và phương thức tiện
lợi thoát khỏi mối nguy và sự đau đớn đối với việc tạo nên một sự chọn
lựa độc lập. Nhưng con người là môi giới tự do, và sinh làm người là một
trách nhiệm to lớn. Việc nhận thức những trách nhiệm đó là chúng ta
không nên ném chúng đi một cách nhẹ nhàng, bằng việc chứng minh một cách
chính xác nơi mà chúng ta đang đứng trong sự liên hệ với vũ trụ xung
quanh và bên trong chúng ta. Phật giáo cho chúng ta sự hiểu biết trong
sáng nhập vào tiềm lực thiêng liêng của bản tính vốn có. Nó là sự xác
nhận quả quyết về sự tự do của con người trong việc lựa chọn vận mệnh
của chính mình.
Các Triết gia Tây phương hiện đại đã bị hoang mang bởi sự nhầm lẫn trở
thành những điều suy đoán đã chỉ huy họ. Họ thấy một vũ trụ tác động hỗn
loạn không có điểm cố định, sự thay đổi ảo cảnh trong tổng thể là bóng
tối nhưng không có vật chất, và họ đã quan sát bằng ảo tính với những gì
họ thấy. Tư thế vận dụng trí óc của họ vẫn tương đối hiển nhiên như nỗi
“thất vọng của anh hùng.” Sự khảo sát không phải căn cứ cho niềm tin
trong những giá trị đạo đức, họ đi đến câu hỏi, chúng nó có bất kỳ nghĩa
tuyệt đối nào hay không, hay sau tất cả chỉ là sản phẩm tưởng tượng chọn
lọc của con người. Đời sống đối với họ đã trở thành “một câu chuyện ngắn
được kể bởi một thằng ngốc; đầy ắp âm thanh và sự giận dữ, chẳng có sự
biểu hiện gì cả.” Những tư tưởng trừu tượng, chẳng hạn như sự công bằng,
lòng nhân từ, trí tuệ và chân lý dường như đối với họ là những đặc tính
liên hệ, thôi thúc bởi tình huống và sự khác biệt từ thời đại này đến
thời đại khác. Thế là những tiêu chuẩn đạo đức theo sau để bỏ đi những
nhu cầu có tính thích hợp.
Phật giáo chỉ có thể cung cấp sự thiếu vắng cơ bản của trí tuệ cao
hơn-điều gì đó khác hơn vật lý học-nó làm nhân tố cho tất cả những căn
bản khác đặt vào vị trí và hình thể hoàn hảo với bức tranh dễ hiểu.
Quán chiếu thế giới như Đức Phật dạy, nhìn nó, chúng ta có thể cân nhắc
những giá trị của nó xuyên qua những trình độ cao nhất được biết với
chúng ta. Và trong tiến trình quán xét và thẩm định, Phật giáo khuyến
khích chúng ta thâm cứu tất cả những nhân tố của kinh nghiệm, không bao
vây chúng ta với những giáo điều độc đoán, hoặc cố chấp vào những tư
tưởng định kiến. Chính Đức Phật là Bậc Thầy Tôn giáo đầu tiên trong thế
giới này ứng dụng phương pháp khoa học chặt chẽ với sự phân tích về sự
hiện hữu của con người và hiện tượng vũ trụ là những điều mà chúng ta đã
vướng vào. Những pháp thoại của Ngài dành cho chúng ta ngày càng trở nên
rõ ràng như thể không phải 2500 năm cách đây. Những lời nói đó, không
chỉ xuyên qua sự duy trì giáo lý qua các quốc gia, nhưng còn băng qua
những sự khám phá của khoa học hiện đại. Những giáo lý như chúng ta
biết, có thể chứa đựng một vài điều thêm thắt của những người giải thích
sau này, nhưng những chân lý cốt lõi mà Đức Phật dạy là khả năng của mỗi
người để giúp chúng ta nhận ra manh mối đời sống-điều mà các tư tưởng
gia hiện đại tránh nó. Khi chúng ta có thêm sự khám phá với những học
thuyết Phật giáo, chúng ta thấy được rằng hệ thống xây dựng một mô hình
hết sức hoàn hảo, đến nay, những tư tưởng có lý trí thì có khả năng đánh
giá nó. Phần còn lại mà chúng ta phải tìm cho chính chúng ta ở trên
những bề mặt cao hơn của Phật giáo Thiền.
Hiện tại có thể nó có vẻ như người ta chỉ tìm kiếm những bí mật của vũ
trụ để tiêu diệt chính họ với sức mạnh mà họ đã đạt được; và chỉ có một
sự nguy hiểm nhất định nào đó. Nhưng tôi tin rằng một sự thay đổi trong
quan điểm đang bắt đầu và cuốn hút, và chính khoa học đang bị sự tàn phá
căn bản với nhiều tư duy sai lầm đó đang kéo chúng ta gần hơn với hiện
thực của chân lý đã được công bố bởi Đấng Giác ngộ. Đó là những gì mà
tôi định nghĩa “phương pháp khoa học đối với Phật giáo” không ngoài việc
thấy rõ về nó.Nhà Khoa học và Triết học hiện đại đang được đẩy tới một
cách không thể cưỡng lại trong phương pháp Phật giáo. Tính lưỡng lự và
nghi ngờ của họ khiến tăng trưởng thêm những nỗi đau tinh thần, nhưng
thời gian sẽ đến, và chúng ta hãy cầu nguyện rằng nó sẽ đến nhanh khi họ
thấy rằng, mặc dù họ đã loại ra mọi thứ trên niềm tin luân lý và tôn
giáo bình thường mà họ đã thấy được, có một Tôn giáo cao hơn-dựa trên sự
nghiên cứu có hệ thống và trung thực đối với chân lý, sẽ khôi phục niềm
tin của họ bị đánh mất trong nguyên lý công bằng của vũ trụ, chân lý và
tình thương. Bây giờ họ tin tưởng rằng con người đã đạt được sự kết thúc
quan niệm trói buộc chính mình, do vậy họ lãnh hội được sự khai sáng
những triển vọng vào tương lai, điều duy nhất mà họ hoài nghi mập mờ, và
sẽ nhận ra rằng, vượt qua tất cả, MỤC ĐÍCH cuối cùng của cuộc cách mạng
hoàn toàn từ sự giam cầm của vô minh và Ảo Tưởng.
http://www.bu