Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

Những lời Chúa phán!

Bùi Thúc Định


 

Thưa quý độc giả:

Trong thánh kinh, lời của Chúa Cha được ghi trong cựu ước và lời của Chúa Con được ghi trong Tân ước. Nhưng vì theo niềm tin của người Công Giáo thì cả ba ngôi Thiên Chúa đều là một. Cho nên tôi xin ghi chung tất cả vào đây . Và những lời dạy này tự nó đã nói lên đầy đủ  ý nghĩa của nó. Cho nên tôi sẽ giới hạn tối đa phần giải thich của tôi:

Sách sang thế ký dạy rằng: Mặt đất phẳng như tấm thớt, đứng yên một chỗ, có những cột chống đỡ, bầu trời được Chúa đúc bằng đồng thau có hình dạng như cái chảo úp lên trên và có đèn đóm tức mặt trăng, mặt trời và các vì sao gắn trên đó. Bên trên cái chảo úp này có chứa nước, khi nào Chúa muốn cho mưa thì Chúa chỉ cần rút những cái nút này thì sẽ có mưa. Thiên Chúa tạo ra trời đất, cây cỏ, muôn loài trong vòng 6 ngày, ngày thứ bảy mệt quá Chúa nghỉ và việc tạo dựng xảy ra cách đây từ 6.000-10.000 năm. Điều đặc biệt là Chúa tạo ra ngày đêm, cây cỏ trước rồi mới gắn mặt trời mặt trăng lên sau.

Vì thuyết Tạo Dựng mà Thánh Kinh mô tả như trên quá sai lầm mà một em bé lớp 6 cũng thấy rõ, nên giáo hội lại sữa đổi lối giải thích: "Một ngày nói trong Thánh Kinh phải hiểu là một thời đại mà một thời đại có thể là 10 triệu năm, 50 triệu năm, hay vài trăm triệu năm chứ không phải là một ngày bình thường có 24 giờ". Nhưng lúc có người hỏi: Chúa tạo ra cây cỏ trước rồi vài chục triệu năm sau Chúa mới tạo ra mặt trời, cây cỏ không có diệp lục tố làm sao sống được? Thì họ lại quanh co trả lời một cách xã hóa cho qua thế bí: "Thánh kinh không dạy khoa học, đây chỉ là những ẩn dụ của Thiên Chúa, chúng ta không thể nào hiểu nổi".

Ngày nay, khoa học đã chứng minh thuyết Big Bang là đúng, vũ trụ này đã có cách đây khoản 15 tỷ năm. Sau nhiều năm chối bỏ, năm 1999 Giáo Hoàng John Paul II cũng thừa nhận thuyết Big Bang là đúng.

John 10:30: Ta với cha ta là một.

John 10:36: Ta là con thiên Chúa. (câu trên và câu dưới hoàn toàn trái nghịch nhau)

John 12: 49: Ta không nói theo ý ta: Chính người cha sai ta xuống đây đã ra lệnh cho ta phải nói những gì và nói như thế nào. (câu trên: Ta với cha ta là một. Bây giờ lại nói ta nói theo lệnh cha ta).

MA-THI-Ơ: 10: 34-Chớ tưởng rằng ta đến để đem bình an cho thế gian; ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm dáo. 35-Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, con dâu với bà gia; 36-và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình. 37-Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không đáng cho ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn ta thì cũng không đáng cho ta;

Cũng những ý này, nhưng Lucas thì chép với lối hành văn khác:

LU-CA: 12: 51: Các ngươi tưởng ta đến đem sự bình an cho thế gian sao? Ta nói cùng các ngươi, không, nhưng thà đem sự phân rẽ. 52-Vì từ nay về sau, nếu năm người ở chung một nhà, thì sẽ phân li nhau, ba người nghịch cũng hai, hai người nghịch cùng ba; 53- cha nghịch cùng con trai, con trai nghịch cùng cha; mẹ nghịch cùng con gái, con gái nghịch cùng mẹ; bà gia nghịch cùng dâu, dâu nghịch cùng bà gia.

LU-CA: 14: 26- Có đoàn dân đông cùng đi với Đức Chúa Giê-su; ngài xây lại cùng họ mà phán rằng: Nếu có ai đến theo ta mà không căm ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta. 

LU-CA: 19: 26- Hãy đem kẻ thù của ta ra đây. Những kẻ không chịu thờ kính ta trên họ, và chém đi trước mặt ta.

Malachi, chương 2: "Nếu ai không nghe lời ta và không làm rạng danh ta, Chúa Trời sẽ trét phân lên mặt người đó"

Matthew 23: 9: "Không được gọi ai trên trái đất này là cha, vì các ngươi chỉ có một cha ở trên trời"

 Tân Ước viết rõ, Giê-su thực sự có 4 người em trai và ít nhất là 2 người em gái,

MARK 6: 3: “Đây có phải là anh thợ mộc (Giê-su), con bà Mary, anh của James, Joses, Judas, và Simon? Các em gái của hắn chẳng phải đang có mặt tại đây sao?” và nhiều đoạn khác trong Tân ước có ghi rõ họ đều là em của Giê-su, và còn ghi rõ James là em ruột Giê-su.. [Xin đọc: (John 2:12); Matthew 12:46-50; Matthew 27: 56; Mark 3:31-35; Luke 8:19-21; Acts 1:13-14; 1 Corinthians 9:5; Acts 12:17; 15:13; Galatians 1:18-19]. Vậy mà các Cha vẫn cứ giảng là Đức Mẹ đồng trinh trọn đời!

Xin các bạn cứ bình tĩnh đọc tiếp về đức độ của Chúa trời:

Jeremiah: 19: 9: “Và ta sẽ làm cho chúng nó ăn thịt con trai, con gái của chúng nó, và chúng nó sẽ ăn thịt lẫn nhau, người nọ ăn thịt người kia”

(And I will make them eat the flesh of their sons and the flesh of their daughters; and they will eat each one the flesh of his fellowman).

Isaiah: 13: 9-15-18: “Hãy chứng kiến ngày Chúa đến, độc ác vì tức giận và hết sức phẫn nộ. Tất cả mọi người bắt gặp phải được đem tới. Con cái của họ bị xé ra từng mảnh trước mặt họ và vợ của họ bị hãm hiếp”

(Behold, the day of the Lord cometh, cruel both with wrath and fierce anger...Every one that is found shall be thrust through...Their children also shall be dashed to pieces before their eyes...and their wives ravished).

XUẤT Ê-DÍP-TÔ KÝ: 22: 20- Kẻ nào tế các thần khác hơn một mình Đức Giê-Hô-Va sẽ bị diệt

DÂN SỐ KÝ: Chương 31:

1-Đức Giê-Hô-Va lại phán cùng Môi-Se rằng: 2-Hãy báo thù dân Ma-đi-an cho dân Y-sơ-ra-ên; rồi ngươi sẽ được về cùng tổ phụ. 3-Vậy, Môi-se truyền cho dân sự rằng: Trong các ngươi hãy sắm sửa binh khí mà ra trận hãm đánh dân Ma-đi-an đặng báo thù dân đó cho đức Giê-hô-va. 4-về mỗi chi phái Y-sơ-ra-ên, các ngươi phải sai một ngàn lính ra trận.

5-Vậy, trong dân Y-sơ-ra-ên người ta cứ mỗi chi phái chọn một ngàn lính, là mười hai ngàn người sắm sửa binh khí đặng ra trận. 6-Môi se sai mười hai ngàn người đó ra trận, tức là sai một ngàn người về mỗi chi phái, với Phi-nê-a, con trai của Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, đem đi theo mình những khí giới thánh cùng kèn có tiếng vang. 7-Vậy, chúng giao chiến cùng dân Ma-đi-an, y như Đức Giê-Hô-Va đã phán dặn Môi-se, và giết hết thảy nam đinh. 8-Trong các người bị giết chúng cũng giết năm vua Ma-đi-an, là: Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ, và Rê-ba; cũng lấy gươm giết Ba-la-am, con trai của Bê-ô. 9-Dân Y-sơ-ra-ên bắt đờn bà và con nít Ma-đi-an dẫn theo, cướp hết thảy súc vật, bầy chiên và của cải họ. 10-đốt hết những thành, nhà ở, và hương thôn chúng nó, 11-cũng lấy đem theo hết thảy của đoạt được, bất kỳ người hay vật. 12-chúng dẫn những kẻ bị bắt và những của đoạt được đến cho Moi-se, cho Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và cho hội dân Y-sơ-ra-ên đương đóng trại tại đồng bằng Mô-áp, gần sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô.

13-Bãy giờ, Môi-se, Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và hết thảy hội trưởng đi ra đón rước chúng binh ngoài trại quân. 14-Môi-se nổi giận cùng các quân trưởng, tức là quan tướng một ngàn quân và quan tướng một trăm quân đi đánh giặc này trở về. 15-Môi-se nói cùng họ rằng; các ngươi để hết thảy người nữ còn sống sao? 16-Kìa, ấy là chúng nó theo mưu kế của Ba-la-am mà dụ dỗ dân Y-sơ-ra-ên cúng thờ Phê-rô, và phạm một tội trọng cùng Đức Giê-hô-va; và tội đó xui cho hội chúng của Đức Giê-hô-va bị tai vạ. 17-Vậy bây giờ, hãy giết hết thảy nam đinh trong bọn con trẻ, và giết người nữ nào đã kết bạn cùng một người nam; 18-nhưng hãy để sống cho các ngươi hết thảy con gái chưa hề kết bạn cùng người nam. 19-Còn về phần các ngươi, hãy đóng trại ngoài trại quân trong bảy ngày. Ai có giết một người và có đụng đến một xác chết, thì ai đó cùng kẻ bị bắt, phải dọn cho mình được sạch ngày thứ ba và ngày thứ bảy. 20-Cũng phải làm cho sạch hết thảy áo xống, mọi vật bằng da, mọi vật bằng lông dê, và mọi đồ vật bằng cây.

21-Ê-lê-sa, thầy tế lễ, nói cùng những lính đi trận về, mà rằng: Nầy là đều luật pháp dạy mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se: 22-vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, chì, 23-tức là mọi vật đưa vào lửa được, thì các ngươi phải đưa ngang qua lửa đặng luyện nó; nhưng người ta cũng phải dùng nước tẩy uế mà làm cho nó được sạch nữa. Còn mọi vật chi không đưa qua lửa được, thì phải ngâm nó trong nước. 24-Ngày thứ bảy các ngươi phải giặt áo xống mình, thì sẽ được sạch; đoạn mới được vào trại quân.

25-Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng: 26-Ngươi, Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và các quan trưởng của những tông tộc, hãy dựng sổ về của giặc mà người ta đã đoạt được, nào người, nào vật, 27-rồi chia của đó cho các người đã ra trận và cho cả hội chúng. 28-Trong phần thuộc về quân binh đã ra trận, hoặc người, hoặc bò, hoặc lừa hay chiên, ngươi phải cứ thâu một phần trong năm trăm mà đóng thuế cho Đức Giê-hô-va, 29-tức phải thâu thuế đó trong phân nửa thuộc về quân binh và giao cho Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, làm lễ vật dâng cho Đức Giê-hô-va. 30-Còn trong phân nửa kia thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, hoặc người, hoặc bò, hay lừa hay chiên, tức các súc vật, ngươi phải cứ mỗi năm chục mà để riêng ra một, và giao cho người Lê-vi có chức phận coi sóc đền tạm của Đức Giê-hô-va.

31-Môi-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, làm y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. 32-Vả, của giặc còn lại mà quân binh cướp lấy được, là sáu trăm bảy mươi lăm ngàn con chiên cái; 33-bảy mươi hai ngàn con bò, 34-sáu mươi mốt ngàn con lừa đực. 35-Người nữ chưa kết bạn cùng người nam nào, hết thảy được ba mươi hai ngàn người. 36-Phân nửa thuộc về kẻ đã đi trận, là ba trăm ba mươi bảy ngàn năm trăm con chiên cái, 37-đóng thuế cho Đức Giê-hô-va là sáu trăm bảy mươi lăm con; 38-ba mươi sáu ngàn con bò, đóng thuế cho Đức Giê-hô-va là bảy mươi hai con; 39-ba mươi ngàn năm trăm con lừa đực, và đóng thuế cho Đức Giê-hô-va sáu mươi mốt con; 40-mười sáu ngàn người, và đóng thuế cho Đức Giê-hô-va là ba mươi hai người. 41-Môi se giao cho Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, của thuế làm lễ vật dâng cho Đức Giê-hô-va, y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.

42-Phân nửa kia thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, tức là phân nửa mà Môi-se chia ra với phân nửa của quân binh đã đi trận, 43-phân nửa nầy thuộc về hội chúng, số là ba trăm ba mươi bảy ngàn năm trăm con chiên cái, 44-ba mươi sáu ngàn con bò, 45-ba mươi ngàn năm trăm con lừa, 46-Và mười sáu ngàn người. 47-Trong phân nửa nầy thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, Môi-se cứ mỗi năm chục thì để riêng ra một. Bất luận người hay vật, và giao cho người Lê-vi có chức phận coi sóc đền tạm của Đức Giê-hô-va, y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn mình.

48-Những quân trưởng, tức là quan tướng một ngàn quân và quan tướng một trăm quân, đến gần Môi-se 49-mà rằng: Những kẻ tôi tớ ông đã dựng sổ chiến sĩ, là người ở dưới quyền chúng tôi, và không thiếu một tên. 50-Mỗi người trong chúng tôi có đem đến đồ bằng vàng mình đã được, hoặc dây chuyền, hoặc vòng, hoặc cà rá, hoặc hoa tai, hoặc kiềng, làm lễ vật dâng cho Đức Giê-hô-va đặng chuộc tội cho mình trước mặt ngài. 51-Môi-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, bèn nhận vàng, và hết thảy đồ trang sức làm công kỹ. 52-Hết thảy vàng và lễ vật mà những quan tướng một ngàn quân và quan tướng một trăm quân dâng cho Đức Giê-hô-va, cọng là mười sáu ngàn bảy trăm năm mươi siếc-lơ. 53-Vả, mỗi người trong quân binh đều có cướp lấy vật cho mình. 54-Vậy, Môi-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ,, nhận lãnh vàng của quan tướng ngàn quân và quan tướng trăm quân, rồi đem vào hội mạc làm kỷ niệm về dân Y-sơ-ra-ên trước mặt Đức Giê-hô-va”.

        Tôi không hiểu Chúa Trời là đấng toàn trí, toàn năng, tạo ra mọi thứ….Thì chia gái trinh, chia trừu, chia bò để làm gì ? Xin các Cha giảng dùm.

Sau đây là những lời phán của các thánh Ki Tô Giáo

Thánh Fulgentius (467-533):

"Những bào thai chết trong lòng mẹ, hoặc những trẻ mới sinh ra đã chết mà chưa chịu phép bí tích rửa tội ...phải chịu hình phạt đau đớn trong ngọn lửa không bao giờ tắt."

Thánh Anthony (1195-1231): "Khi các ngươi thấy một người đàn bà, hãy coi như là các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính là một con quỷ. Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con rắn." (When you see a woman, consider that you face not a human being, but the devil himself. The woman's voice is the hiss of the snake.)

Với nội dung cuốn thánh kinh như trên, chúng ta không lấy làm lạ khi gần đây (2008), ở Hồng Kông đang có phong trào đòi Ủy Ban Đạo Đức Hồng Kông phải xếp lại thánh kinh Ki Tô Giáo vào loại sách tục tĩu, khiêu dâm, tàn bạo, loạn luân và kinh thánh phải bọc kỹ, bên ngoài phải khuyến cáo độc giả về nội dung và không được bán cho trẻ em dưới 18 tuổi

Những chủ trương của một số Giáo Hoàng:

 Trong thánh kinh nói: "Bất cứ ai dâng đồ cúng cho một Thần nào khác mà không phải là JEHOVAH thì phải bị tiêu diệt" ( Exodus :22-20). Do điều này mà các Giáo Hoàng đã chủ trương:

_ Sắc lệnh của Giáo Hoàng Henry Martin V viết "Sắc lệnh được phát xuất từ nguyên lý rằng: Đất thuộc về Chúa Ki-Tô, và người đại diện của chúa Ki-Tô có quyền xử dụng tất cả những gì không do tín đồ của Chúa chiếm hữu, những kẻ ngoại đạo không thể là kẻ sở hữu hợp lý bất cứ một mảnh đất nào". Nghĩa là tất cả đất đai và của cải trên thế gian này chỉ có những người theo đạo Chúa mới có quyền hưởng. Còn những người theo đạo khác mà hưởng ké ngày 2 bữa cơm tự mình làm ra, thì được họ coi là bất hợp lý. (Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa Thực Dân tại Việt Nam . Luận án tiến sĩ của Cao Huy Thuần trang 7).

_ Giáo Hoàng Callistus (Người Y Pha Nho) ký sắc lệnh cho (Thái Tử) Henry Le Navigateur bắt Thổ dân những đất khám phá được làm Nô-Lệ. Ngày ký sắc lệnh ấy là ngày ảm đạm nhất trong lịch sử chế độ Thực Dân ( theo Học giả Nguyễn Hiến Lê-Lịch sử Thế Giới-Văn nghệ 1994 trang 349 ). Trong thánh kinh Chúa cũng khẳng định "Ta được phái xuống trần chỉ để cứu dân Do Thái mà thôi" và Giê-su coi các dân tộc khác là chó (Matthew: 15:21-28). Như Charles Davidson (thượng nghị sĩ Mỹ) quan niệm: "Chúa sinh ra các giống dân da màu, mục đích là để làm nô lệ cho dân da trắng" và ông vận động chính phủ Mỹ lập lại chế độ nô lệ. Cho nên khi dân Âu Châu đi chiếm thuộc địa ở Phi Châu và Úc Châu họ đã đi săn và bắn dân bản địa như săn bắn thú rừng. Như vậy dân da vàng mũi tẹt đừng hòng Chúa cho lên thiên đàng.

_ Năm 1493 Giáo Hoàng ALEXANDER VI vạch một đường thẳng tưởng tượng ở phía Tây quần đảo Cape Verde chạy qua Bắc và Nam cực để chia trái đất ra làm hai. Nửa phía Tây giao cho Tây Ban Nha, nửa phía Đông giao cho Bồ Đào Nha, ngoại trừ Ba Tây (Brasil). Đến nỗi Pháp Hoàng tức giận tuyên bố một câu lịch sử "Ai là người có thể chỉ cho ta biết tờ di chúc của ông Tổ Adam nói rằng quả địa cầu này để lại cho hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha " (Tham khảo sách This is America's story, Đạo Thiên Chúa và Chủ nghĩa Thực Dân tại VN trang 7, và Nguyễn Mạnh Quang trong "Vatican Thú tội và xin lỗi" trang 202).

Một Số Tiêu Biểu Các Giáo Hoàng Dâm Loạn:

* Giáo Hoàng John XXIII (1419-1415. Khác với Giáo Hoàng Jhon XXIII 1958-1962) bị hàng chục Giám Mục và rất nhiều nhân chứng tố cáo đã xâm phạm tiết hạnh ba trăm nữ tu và có một cung viện chứa trên hai trăm cô gái. John XXIII còn bị Công Đồng kết án về 54 tội đại hình khác.

Hồ sơ lưu trử tại Vatican còn ghi nhận John XXIII thông dâm với em dâu, phá trinh nhiều cô gái, dụ dỗ nhiều phụ nữ có chồng và phạm đủ loại tội dâm dục. Công Đồng gọi y là con quỷ hóa thân.

* Pio II: (1458-1464) và Paul II (1464-1471) là hai Giáo Hoàng kế tiếp nhau đều có cung viện (harems) chứa rất nhiều cung nữ.

* Giáo Hoàng Innocent VIII (1484-1492) thông dâm với nhiều phụ nữ và có 16 đứa con. Nhiều con của y được tổ chức đám cưới linh đình ngay tại Vatican ( The Catholic Encyclopedia Vol.8,p.19)

* Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) có vợ 5 con lúc còn làm Hồng Y. Sau khi lên ngôi GH, y loạn luân với hai em gái và với con gái ruột tên Lucretta. Y có một đứa con với con gái ruột của mình (History of the Reformation D'Aubigne P.11). Ngày 31-10-1501, Alexander VI tổ chức dạ hội với 50 cô gái thoát y. Giáo Hoàng treo giải thưởng cho người đàn ông nào làm tình lâu nhất.

_ * G. H. Paul III:( 1534-1549). Lúc còn là Hồng Y đã có 3 con trai, một con gái. Lúc lên làm GH, y làm lễ rửa tội cho hai đứa cháu nội và ngoại. GH này hay tin dị đoan và thường hỏi ý kiến các thầy bói.

* Giáo Hoàng Cléo X (1513-1521) đi tu năm 7 tuổi, được phong chức Hồng Y năm 13 tuổi và lên làm GH lúc 38 tuổi. Y sống cuộc đời của một GH hết sức xa hoa, thường xuyên tổ chức dạ vũ với những mục giải trí đắt giá và trụy lạc.

Kính thưa quý vị

Hôm nay tôi chỉ lượm lại các tài liệu này trong những bài tôi đã viết trước đây, nên chưa được đầy đủ . Tôi sẽ bổ túc sau, khi nào thuận tiện. Xin quý vị thông cảm

Bùi Thúc Định

 

Bài Đọc thêm: Nếu ai có thì giờ thì đọc thêm phần sau đây,  trích trong bài “Ngày Tận thế của Ki Tô Giáo (Trần Chung Ngọc) sachhiem.net 26-5-2008:

Chúng ta hãy nghe “thánh John” kể lại, Khải Thị 1 : 10-16, và nên nhớ rằng thánh John khi đó đang...bị đi đày ở đảo Patmos :

            “...Tôi được linh cảm và nghe có tiếng gọi sau lưng vang dội như tiếng kèn đồng (trumpet):  Hãy ghi chép những điều con thấy và gửi cho 7 hội thánh tại..... [xin xem đoạn sau].

            Quay lại xem ai vừa nói, tôi thấy 7 giá đèn bằng vàng.  Giữa các giá đèn có ai giống như Chúa Giê-su [xin nhớ là Giê-su đã chết và táng xác trước đó ít ra là 30 năm], mặc áo dài, ngực thắt đai vàng.  Tóc ngài trắng như lông chiên, như tuyết, mắt sáng như ngọn lửa, chân như đồng sáng loáng trong lò, tiếng nói vang ầm như thác đổ.  Tay phải ngài cầm “7 ngôi sao”, “miệng có thanh gươm hai lưỡi sắc bén”, mặt sáng rực như mặt trời chói lọi giữa trưa...” [Đây có phải là hình ảnh của một Chúa nhân từ hay không hay đúng là hình ảnh của một Hung Thần?  Và chúng ta nên nhớ: mặt trời chỉ là một ngôi sao nhỏ, đường kính chỉ vào khoảng “1 triệu 3 trăm 90 ngàn cây số” và nhiệt độ ngoài biên khoảng 6000 độ, và Chúa Giê-su của Ki Tô Giáo đã cầm trong tay một lúc 7 ngôi sao (chắc là bằng giấy của các em mẫu giáo trong các lớp học Kinh Thánh ở nhà thờ sáng chủ nhật vẽ)] và rồi Chúa đọc cho John chép 7 bức thư viết cho 7 hội thánh...

            Chép xong, thánh John nhìn lên và thấy có một cánh cửa mở ra ở trên trời. [Tầm mắt của thánh John nhìn được bao xa trên trời??] Rồi thánh John nghe tiếng Giê-su gọi: “Lên đây, ta sẽ chỉ cho ngươi thấy những gì sắp phải xảy ra trên thế gian.”  Lập tức, xuyên qua cánh cửa trên trời, thánh John thấy God ngồi trên ngai, [không thấy nói là thánh John “lên đây” bằng cách nào, và ngai đặt ở đâu, hay lơ lửng trên trời.  Thượng đế, Chúa Giê-su và Thánh John tuyệt đối không biết rằng, trái đất thực sự đang di chuyển trong không gian với một vận tốc khoảng 100000 cây số/giờ và quay xung quanh trục Nam Bắc khoảng 1600 cây số/giờ] xung quanh có 24 trưởng lão mặc áo trắng ngồi trên 24 ngai khác.  Gần nơi ngai giữa, chỗ God ngồi, có 4 sinh vật, có mắt phủ khắp trước và sau.  4 sinh vật này, một giống như con sư tử, một giống con bò đực, một giống như mặt người, và một giống như con chim ưng đang bay.  Mỗi sinh vật này đều có 6 cái cánh, và khắp thân có mắt phủ, ngay cả dưới cánh. (each of the 4 living creatures had six wings and was covered with eyes all around, even under his wings).  4 sinh vật này ngày đêm ca tụng [không thấy nói ca tụng bằng thứ tiếng nào, Hebrew, Phú Lăng Sa, Ý Tà Lồ, hay tiếng Việt Bùi Chu Phát Diệm] không ngớt: “Thánh thay, thánh thay, thánh thay, Là God toàn năng, là đấng đã có, hiện có, và sẽ có.” (Day and night they never stop saying: Holy, holy, holy is the God Almighty, who was, and is, and is to come)...

     Rồi thánh John thấy trên tay God có một cuộn giấy trên cả hai mặt đều có chữ viết, có 7 chỗ được gắn xi niêm phong. [Nếu thấy một cuộn giấy có chữ viết trên cả hai mặt thì cuộn giấy đó đã được mở ra rồi, vậy gắn xi niêm phong ở 7 chỗ nào? và niêm phong cái gì? 7 cái bao thơ gắn trên cuộn giấy?]  Ai là người hay vật xứng đáng để mở những chỗ niêm phong gắn xi này.  Một trưởng lão nói với John: “Chỉ có Chúa Giê-su: con sư tử của đại tộc Judah , chồi của David, đã chiến thắng (the lion of the tribe Judah, the Root of David, has triumphed) mới có thể mở được những niêm phong này.”  Rồi thánh John thấy nơi ngai chính giữa, Chúa Giê-su hiện thân ra như một con chiên trông như đã bị giết, có 7 sừng và 7 mắt, là 7 thần linh của God phái xuống trần.  (Then I saw a Lamb, looking as if it had been slain, standing in the center of the throne...  He had seven horns and seven eyes, which are the seven spirits of God sent out into all the earth). [Tất cả các học giả ngày nay đều đồng ý ở một điểm: con Chiên ở đây chính là Giê-su đã bị đóng đinh trên thập giá (Scholars are in agreement that “a Lamb” refers to the crucified Christ), và đó chính là hình ảnh của một thiên chúa mà các tín đồ tôn thờ, và rất hãnh diện được làm tôi tớ của con chiên này]  Rồi con chiên, tức Chúa Giê-su, bắt đầu mở từng chỗ niêm phong gắn xi một cho thánh John thấy những gì sẽ xảy ra trong “Ngày lịch sử con người dẹp tiệm” alias “Ngày Tận Thế”, alias “Ngày Chúa Trở Lại Trần Lần Thứ Hai” (Second Coming), alias “Ngày một số nhỏ, vô cùng nhỏ, các tín đồ của 12 bộ lạc Do Thái (tuyệt đối không có người Việt Nam trong số này) được lên thiên đường ở cùng Chúa, như được viết rõ trong sách Khải Huyền 7: 4-8, mà tôi sẽ trích dẫn trong một phần sau, nếu các bạn còn đủ can đảm và hứng thú đọc tiếp.

Một đoạn khác…….

Khải Huyền 8-11:  Khi Giê-su mở niêm phong thứ bảy..tôi thấy 7 thiên sứ đứng trước mặt Thượng đế và được trao cho 7 chiếc kèn đồng (trumpets).

            Thiên sứ thứ nhất thổi kèn, liền có mưa đá và lửa pha với máu đổ xuống mặt đất.  Một phần ba đất bị thiêu đốt, một phần ba cây cối bị thiêu đốt, và mọi loài cỏ xanh đều bị thiêu đốt.

            Thiên sứ thứ hai thổi kèn, liền có một vật giống như hòn núi lớn toàn bằng lửa bị ném xuống biển.  Một phần ba biển biến thành máu. [1/3 nước biển biến thành máu, vậy 2/3 còn lại vẫn là nước biển, không hề bị hòa lẫn với máu?]  Một phần ba sinh vật trong biển chết, và một phần ba tàu bè trên biển bị tiêu diệt.

            Thiên sứ thứ ba thổi kèn, một ngôi sao lớn trên trời rơi xuống, ngôi sao ấy rơi vào một phần ba sông ngòi và suối nước.  Tên ngôi sao đó là Ngải Đắng (Wormwood).  Một phần ba nước hóa đắng. [1/3 nước đắng đứng riêng một mình trong sông ngòi, trong suối nước?] Nhiều người chết vì uống nước đắng ấy.

Thiên sứ thứ tư thổi kèn, một phần ba mặt trời, một phần ba mặt trăng, một phần ba các ngôi sao bị phá hủy, trở thành tối đen.  Một phần ba ngày không có ánh sáng, cũng như một phần ba đêm không có ánh sáng.  [Miễn phê bình]

Thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một vị sao rơi xuống mặt đất.  Vị sao ấy được trao cho một chìa khóa của Vực Thẳm. [Vị sao đưa tay ra nhận chìa khóa?] Khi vị sao này mở Vực Thẳm ra [Vực Thẳm có cửa?], liền có khói bay ra che khuất làm cho mặt trời và bầu trời tối sầm.  Từ đám khói bay xuống đất những con châu chấu.  Chúng được ban cho nọc độc như những con bọ cạp ở dưới đất.  Chúng được lệnh không được phá hại cây cỏ mà chỉ nhắm vào những người không có dấu ấn của Thượng đế đóng trên trán. Chúng không được quyền giết mà chỉ được tra tấn hành hạ những người này trong 5 tháng.  Và sự đau đớn cùng cực của những người này giống như khi bị bọ cạp chích.  Trong 5 tháng này, những người này muốn chết đi cho rồi mà không chết được. [They (the locusts) were not given power to kill them (those people who did not have the seal of God on their forefronts), but only to torture them for five months.  And the agony they suffered was like that of the sting of a scorpion when it strikes a man.  During those days men will seek death, but will not find it; they will long to die, but death will elude them.] [Chúa lòng lành của Ki Tô Giáo?]

Thiên sứ thứ sáu thổi kèn, tôi nghe từ những chiếc sừng của bàn thờ bằng vàng đặt trước ngai Chúa có tiếng nói ra: Hãy thả bốn thiên sứ bị trói giữ tại sông Euphrates .  Và bốn thiên sứ, dược giữ ở đây để chuẩn bị sẵn sàng, đúng ngày giờ được thả ra để đi giết một phần ba nhân loại (to kill a third of mankind).

Thiên sứ thứ bảy thổi kèn,  có những tiếng lớn vang ra trên trời:

Từ nay thế gian thuộc quyền Thiên Chúa và đấng Cứu Thế.  Ngài sẽ cai trị mãi mãi... 24 trưởng lão quỳ xuống và ca: Chúa là đức Chúa Trời toàn năng, là đấng đã có, hiện có và sẽ có...Cơn thịnh nộ của Ngài đã đến: Giờ đã tới, là giờ phán xét kẻ chết, thưởng cho tôi tớ Chúa blah..blah...blah..

Sách Khải Huyền gồm có 22 chương.  Tôi mới chỉ lướt qua một nửa, đến hết chương 11.  Nếu người nào đọc những đoạn trên mà không cho đó là “tác phẩm” của một kẻ dốt nát điên khùng thì chính người đó là kẻ dốt nát điên khùng.

 

 

http://www.buddhismtoday.com/viet/khac/nhungloichuaphan.htm

 


Vào mạng: 10-12-2009

Trở về mục "Các bài pháp luận khác"

Đầu trang