Thư ngỏ gửi
HĐND, UBND TP. Hà Nội và Hội
KHLS VN về việc dựng tượng
Alexandre Rhodes
Thích Thanh Thắng
Đại đức Thích Thanh Thắng, một tu sĩ Phật giáo tại TP. Hồ Chí Minh vừa
có thư ngỏ gửi Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân TP. Hà Nội và Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam về việc đề nghị dựng tượng giáo sĩ thực dân
Alexandre Rhodes tại Hà Nội nhân dịp Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long
- Hà Nội.
TP. Hồ Chí Minh, Ngày 23 tháng 7 năm 2009
Kính thưa quý vị,
Theo thông tin trên Tuổi Trẻ Online ngày 29/6/2009, tôi được biết ông
Phạm Văn Hạng (TP.HCM) vừa có “văn thư” gửi đến HĐND, UBND TP. Hà Nội
cùng Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam để nêu ý muốn tặng tượng ông
Alexandre de Rhodes cho thủ đô nhân kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà
Nội.
Bài báo cũng cho biết thêm, chính quyền Hà Nội cũng đã có thư trả lời
ông Phạm Văn Hạng, hẹn sẽ cử đoàn vào Bình Dương xem qua tác phẩm. Sau
bản tin ấy, liền có ý kiến nhắc lại tấm bia vinh danh Alexandre de
Rhodes từng được đặt tại Hồ Gươm năm 1941 để gợi ý nơi đặt tượng.
Việc một cá nhân ưa thích ai và tạc tượng người ấy để kỷ niệm, thờ
phượng hay muốn đặt ở đâu là chuyện riêng trong phạm vi quyền hạn của
họ, không nhất thiết phải có ý kiến. Nhưng việc nhân danh toàn dân tộc
đặt một pho tượng nơi công cộng để kỷ công một người nào đó thì mọi
người dân đều có quyền có ý kiến.
Muốn nhân danh toàn dân tộc để kỷ công một người nào đó thì người ấy
phải thật sự có công đối với toàn dân tộc. Công và tội của nhân vật
Alexandre de Rhodes đối với dân tộc Việt Nam từng là đề tài tranh luận
học thuật của nhiều người, nhiều giới và nhiều thời kỳ, đến nay vẫn chưa
ngã ngũ. Lập luận kỷ công vị thừa sai này chủ yếu xoay quanh việc ông là
người đầu tiên sáng tạo chữ quốc ngữ cho người Việt sử dụng, khiến người
Việt có thể đi trước thời đại vài trăm năm. Tuy nhiên, cũng có những lập
luận và tư liệu chứng tỏ vị thừa sai này chỉ là người tập hợp các
nghiên cứu của những người trước mình để thực hiện quyển tự điển
Việt-Bồ-La.
Mặt khác, cũng có không ít tư liệu chứng tỏ trước khi có chữ quốc ngữ
theo mẫu tự Latin thì người Việt cũng đã có cả một nền văn học chữ Nôm,
nghĩa là người Việt đã có chữ quốc ngữ do chính mình sáng tạo, và chỉ vì
sức mạnh của thực dân Pháp mà chữ quốc ngữ ấy mai một, nên không thể nói
rằng việc thủ tiêu chữ Nôm và thay thế bằng chữ Việt (Latin hóa) là một
việc làm tốt đẹp.
1. Sử liệu cho biết, Alexandre de Rhodes (1593-1660), người Pháp, gốc Do
Thái, gia nhập dòng Tên tại Roma ngày 24/4/1612, vào Việt Nam năm 1624
[thời điểm Lê/Trịnh đàng Ngoài và chúa Nguyễn đàng Trong có những chính
sách rất cởi mở với thương nhân và chú trọng đẩy mạnh quan hệ ngoại
thương. Chúa Trịnh còn nhận thương nhân Carel Hartsink người Hà Lan làm
con nuôi], học tiếng Việt từ một cậu bé 13 tuổi và được sự chỉ dạy bài
bản của giáo sĩ Francisco de Pina người Bồ. Tháng 7/1626 bị trục xuất về
Ma Cao. Ông tiếp tục trở lại và bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam năm
1630. Những năm 1640 ông vẫn lén trở lại cho đến lần cuối cùng bị trục
xuất vào năm 1645.
Alexandre de Rhodes không phải người sáng tạo ra chữ quốc mà chỉ là
người biên soạn từ điển qua các công trình của người khác. Chính ông đã
xác nhận: “… công việc này ngoài những điều tôi đã học được nhờ chính
người bản xứ trong suốt gần mười hai năm thời gian mà tôi lưu trú tại
hai xứ Cô-sinh và Đông-kinh, thì ngay từ đầu tôi đã học với Cha
Francisco de Pina người Bồ-đào-nha…, tôi cũng sử dụng những công trình
của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspar de Amaral
và Cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ
điển: ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ-đào,
nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn
thêm tiếng La-tinh theo lệnh các Hồng y, vì ngoài những tiện lợi khác,
nó còn giúp ích cho chính người bản xứ học tiếng La-tinh…” (1).
Roland Jacques đã phát hiện công bố bản viết tay năm 1623 của Francisco
de Pina: “Về phần tôi, tôi đã biên soạn một chuyên luận nhỏ về từ
vựng và các thanh của ngôn ngữ này (tức tiếng Việt) và tôi đang bắt tay
viết về ngữ pháp. Tuy nhiên, tôi cũng đã tập hợp được những cổ tích,
thuộc nhiều loại khác nhau, nhằm cung cấp các trích dẫn của các tác giả
để xác minh nghĩa của các từ và các quy tắc của ngữ pháp, cho đến nay
tôi có thể yêu cầu một người nào đó đọc để tôi phiên dịch sang các chữ
Bồ Ðào Nha (tức chữ La tinh)... Ngoài ra, tôi đã có ba bốn cuốn tập hợp
các bài viết có lý luận trong số các bài viết hay nhất mà tôi tìm thấy
được ở Vương quốc nầy". (Nguyễn Phước Tương, Ai là người thật sự
sáng chế ra chữ Quốc ngữ?, Tạp chí Huế, Xưa & Nay số 62 tháng 3-4/2004)
(2).
Kể kể từ khi cuốn từ điển này ra đời năm 1651, nó cũng không có tác dụng
gì tới việc học chữ quốc ngữ của người Việt Nam. Vì vốn dĩ khi ấy người
Việt sử dụng chữ viết chính thức là chữ Hán và chữ quốc ngữ (chữ Nôm).
Chữ Nôm đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều thể loại sáng tác văn
chương và đã đạt đến đỉnh cao qua tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du) và
nhiều truyện thơ Nôm, văn xuôi quốc ngữ khác.
Đặc biệt trong các tác phẩm chữ Nôm của Thiền sư Minh Châu Hương Hải
(1628-1715), lối hành văn tiếng Việt không khác nhiều so với ngày nay
[trong Hương Hải thiền sư ngữ lục cũng nói đến sự kiện một số giáo sĩ
Hoa Lang bị trục xuất khỏi Việt Nam – Lê Mạnh Thát, Toàn tập Minh Châu
Hương Hải, NXB TPHCM, 2000, tr.116]. Vua Quang Trung (1753-1792) không
chỉ sử dụng chữ Nôm trong văn bản hành chính mà còn chính thức đưa chữ
Nôm vào trong thi cử. Ông chủ trương thay toàn bộ sách học chữ Hán sang
chữ Nôm nên năm 1791 đã cho lập “Sùng chính viện” để dịch kinh sách từ
Hán sang Nôm.
Chữ Nôm [ký âm tiếng Việt] chính là chữ Quốc ngữ mà ông cha ta sáng tạo.
Điều đó khẳng định VIỆT NAM LÀ MỘT NƯỚC CÓ VĂN TỰ. Người Pháp đã tìm mọi
cách thủ tiêu văn tự (Nôm) của chúng ta, thế mà còn lớn lối nói rằng đã
đem đến cho chúng ta một chữ viết (Latin). Đây là hành vi thủ tiêu (chữ
viết) và tranh công (sáng tạo) nực cười nhất trong lịch sử chữ viết của
nhân loại. Không những thế, vì một cuốn từ điển được biên soạn lại qua
công trình của người Bồ, mà một số người Pháp không ngượng miệng nói
rằng: “Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, Alexandre de Rhodes đã
đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ” (Nguyệt san MISSI).
Ngày 23/1/1576, Giáo hoàng La Mã Gregory VIII ban sắc lệnh, chính thức
thành lập giáo phận Bồ Đào Nha tại Ma Cao. Phạm vi cai quản của giáo
phận này gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam và các vùng lân
cận.
Nhưng đến nửa đầu thế kỷ 18, tại châu Âu dấy lên cuộc vận động trục xuất
các giáo sĩ dòng Tên. Ngày 3/9/1759, Thủ tướng Pombal ban hành pháp
lệnh, coi dòng Tên là kẻ phản bội, kẻ địch và kẻ xâm lược của vua và nhà
nước. Ngày 21/7/1773, Giáo hoàng Clement XIV ban sắc lệnh, tuyên bố
chính thức thủ tiêu dòng Tên. Những sự kiện này dẫn đến sự tan rã của
giáo phận Bồ tại Macao (3).
Một điều đáng chú ý, tại Giáo phận Macao, năm 1594, Học viện St. Paul's
- trường đại học phương Tây đầu tiên ở Viễn Đông đã hình thành, ngoài
các môn thần học, văn học và nghệ thuật ra, trường còn dạy các ngôn ngữ
của khu vực Viễn Đông như tiếng Hán và tiếng Việt...
Theo GS. Thang Khai Kiến, Đại học Ký Nam, Quảng Châu, Trung Quốc: “Sau
khi Nhật Bản xẩy ra nạn cấm đạo, các dòng tu Macao hết sức coi trọng
việc khai thác và phát triển công cuộc truyền giáo ở Việt Nam. ở Học
viện St. Paul's, để đáp ứng nhu cầu truyền giáo ở Việt Nam, việc dạy
tiếng Việt là điều hết sức quan trọng. Theo ghi chép của Linh mục
Maldonado, năm 1667, học viện có hai môn học tiếng, tiếng Việt là một
trong hai môn đó. Năm đó có 8 linh mục học tiếng Việt, nhưng chỉ có 6
linh mục học tiếng Trung Quốc. Theo thống kê không đầy đủ, trong thế kỉ
XVII, có 70 giáo sĩ phương Tây đã đến Việt Nam, trong đó số giáo sĩ đến
từ Macao chiếm tỉ lệ rất lớn” (4).
Như thế, rõ ràng tiếng Việt được ký âm bằng chữ cái La-tinh đã được phát
triển dần dần từ rất lâu trước đó do nhu cầu tiếp cận với người bản địa
của các giáo sĩ thuộc Giáo phận Bồ Đào Nha [làm nền tảng cho quyển tự
điển Việt-Bồ-La mà Alexandre de Rodhes đã cho in năm 1651].
2. Alexandre de Rhodes là người có ý định xin vua Louis XIV của Pháp
cung cấp binh lính để chinh phục phương Đông. Trong cuốn Divers voyages
et missions (Các cuộc hành trình và truyền giáo), xuất bản tại Paris năm
1653 ở đoạn cuối chương 19, phần thứ 3 có một câu nguyên văn: “J’ai
cru que la France, étant le plus pieux royaume de monde, me fournirait
plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour
l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y trouverais
moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos pères et nos maitres en ces
Églises. Je suis sorti de Rome à ce dessein le 11e Septembre de l’année
1652 après avoir baisé les pieds du Pape”.
Câu này được Hồng Nhuệ (linh mục Nguyễn Khắc Xuyên) dịch:“Tôi tưởng
nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp
cho tôi mấy chiến sĩ đi chinh phục toàn cõi Đông Dương đưa về quy phục
chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và Thày
chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Roma ngày 11 tháng
9 năm 1652 sau khi tôi hôn chân Đức Giáo hoàng.” ("Hành trình và
truyền giáo” - Ủy ban Đoàn kết Công giáo TP.HCM, 1994, tr. 263. Người
dịch còn chú thích từ chiến sĩ ở đây: nói chiến sĩ Phúc Âm tức là nhà
truyền giáo, chứ không phải binh sĩ đi chiếm xứ xăm lăng - tr. 289).
Trong bài viết “Ai làm ra chữ quốc ngữ?” đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày
31/1/1993, Giáo sư Hoàng Tuệ đã dịch plusieurs soldats là binh lính như
sau: “Tôi nghĩ nước Pháp, vương quốc mộ đạo nhất, có thể cấp cho tôi
binh lính để chinh phục toàn phương Đông, đặt nó dưới quyền Jésus
Christ”. Linh mục Nguyễn Khắc Xuyên đã viết bài “Gửi GS Hoàng Tuệ bàn về
chữ Quốc ngữ trên tờ Tuổi Trẻ” đăng trên báo Ngày Nay số 277 ngày
1/7/1993 ở Houston, Texas. Linh mục Nguyễn Khắc Xuyên đã mạt sát GS
Hoàng Tuệ là "ngu xuẩn", "ngu dốt", "thật là dốt lại thích nói chữ"...
và đã chất vấn GS. Hoàng Tuệ như sau: “Từ điển Pháp Việt của Trương Vĩnh
Ký dịch soldat là ‘lính, binh lính, lính tráng’. Từ điển Pháp Việt của
Đào Duy Anh dịch soldat là ‘lính, bộ đội, chiến sĩ...’” Như vậy GS Hoàng
Tuệ lùi lại hơn nửa thế kỷ khi chỉ dịch theo Trương Vĩnh Ký mà không
theo từ điển mới nhất 1981 (sic) (5).
Theo Tự Điển Từ Nguyên (Dictionaire Étymologique), từ Soldat: mượn từ
tiếng Ý, Soldato (từ Soldare, Solde); được biến đổi từ chữ Sondart (từ
thế kỷ 14 đến thế kỷ 17) thành Soldat, có nghĩa là người đi bắn thuê,
giết thuê - Tiré de Soudoyer "Dictionaire Étymologique, par Albert
Dauzat (à l'école pratique des hautes Études) librairie Larousse - Paris
6, 1938, tr. 671, 672."
Hai tác giả phương Tây đã hiểu và dịch từ “plusieurs soldats” ra tiếng
Anh như sau:
1. Solange Hertz dịch: “…I thought that France, as the most pious
kingdom of the world, could furnish me many soldiers for the conquest of
all the Orient in order to subject it to Jesus Christ and especially
that I could find there some way of getting bishops for our Fathers and
masters in those Churches. I left to Rome for this purpose on the
eleventh of September of the year 1652, after kissing the Pope’s feet…”
(Divers Voyages & ..., Solange Hertz, Newman Press, Westminter, Maryland
1966, trang 237).
2. Helen B. Lamb: “Alexandre de Rhodes held to his dream that France
should play the key role in colonizing Vietnam: “I believe that France,
as the most pious of all kingdoms, would furnish me with soldiers who
would undertake the conquest of the whole Orient, and that I would find
the means for obtaining bishops and priests who were Frenchmen to man
the new churches. I went toRome with this plan in mind on September 11,
1652. ” (Vietnam’s Will to Live, Helen B. Lamb, N.Y. 1972, trang 38, 39)
(6).
Nhưng “Plusieurs soldats” vẫn được dịch là “mấy chiến sĩ” (Nguyễn Khắc
Xuyên), “chiến sĩ có nghĩa bóng là thừa sai” (Nguyễn Đình Đầu), “chiến
sĩ truyền giáo” (Đinh Xuân Lâm) và ông Chương Thâu thì đồng ý với cách
dịch này.
Với những tranh luận xảy ra trên chữ "soldat" này, GS. Cao Huy Thuần đã
dẫn theo từ điển Robert của Pháp:
Soldat: 1. Homme équipé et instruit par l'Etat pour la défense du pays.
2. Tout homme qui sert ou qui a servi dans les armées.
Dịch: 1. Người được nhà nước trang bị và huấn luyện để bảo vệ xứ sở. 2.
Bất kỳ người nào phục vụ hoặc đã phục vụ trong quân đội.
Như vậy "soldat” bao hàm ý nghĩa quân sự, quân đội. Đó là người mà nhiệm
vụ là làm chiến tranh, chiến tranh phòng vệ hay chiến tranh xâm lược, dù
là nghĩa đen hay nghĩa bóng. Trong tôn giáo, dùng chữ "soldat” không làm
mất đi cái ý nghĩa đánh nhau. Dù đánh nhau vì chân lý đi nữa, thì cũng
đánh nhau và đánh nhau vì chân lý thì ghê rợn lắm. Đừng trách ai dịch
soldat là "binh sĩ”.
Vậy, việc Alexandre de Rhodes từng có ý định xin vua Louis XIV của Pháp
cung cấp binh lính để chinh phục phương Đông là đã rõ. Dù đã có một số
người thêm “nghĩa bóng” cho từ soldats nhưng ý đồ tiêu diệt các nền văn
hóa và tôn giáo khác để đem toàn cõi Đông Dương về quy phục chúa Kitô
vẫn lồ lộ ra đó.
Thực tế 12 năm ở Việt Nam, Alexandre de Rhodes chẳng để lại bất cứ một
ấn tượng gì ngoài việc 6 lần bị trục xuất.
3. Năm 1858 Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Ngày 14/11/1874, Đô đốc Hải
quân - Thống soái Nam kỳ François Krantz ký nghị định mở trường
Chasseloup-Laubat (tên của Bộ trưởng Hải quân Pháp) ở Sài Gòn để dạy
tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ cho con em của quan chức người Pháp và người
Việt đang cai trị Nam kỳ. Ngày 15/4/1865, tờ báo tiếng Việt - Gia Định
Báo bằng thứ chữ mới, phiên âm theo mẫu tự la-tinh, lần đầu tiên được
phát hành tại Sài Gòn. Ngày 6/4/1878, Đô đốc Hải quân - Thống soái Nam
kỳ Louis Lafont ra nghị định số 82 bắt buộc các công văn, thư từ hành
chính phải viết bằng chữ Quốc ngữ thay vì chữ Hán hay chữ Nôm.
Tháng 5/1906, dụ của vua Thành Thái về tổ chức giáo dục hệ 3 cấp cho bản
xứ được một nghị định của Paul Beau phê chuẩn: ở cấp I, học sinh học cả
chữ Hán và chữ Quốc ngữ; lên cấp II học chữ Hán, chữ Quốc ngữ và một
phần tiếng Pháp không bắt buộc; đến cấp III thì cả 3 thứ chữ đều bắt
buộc học như nhau.
Lợi dụng đúng lúc áp dụng thành công chính sách giáo dục “đồng hóa”
triệt tiêu chữ Hán - Nôm, họ đã tô vẽ cho từ điển công cụ của Alexandre
de Rhodes bằng những từ mà lâu nay một số người nhầm lẫn sử dụng như
“cha đẻ”, “sáng tạo”, “công đầu”… Thực tế, thứ chữ đó sau hơn 200 năm
chìm lỉm đã bất ngờ “sống dậy” trong sự cổ xúy của chính quyền bảo hộ
Pháp. Trong hoàn cảnh bị thực dân cai trị và không đủ tư liệu tham khảo
như bây giờ, việc một số người lầm tưởng rồi cổ vũ và tiến hành việc đặt
bia kỷ niệm vị thừa sai này ngay bên cạnh trái tim của thủ đô Hà Nội là
điều không đáng ngạc nhiên.
4. Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội nhằm tôn vinh tinh thần độc lập,
tự chủ, tự cường, lòng tự hào dân tộc, cũng như bản sắc và văn hiến
Thăng Long. Thăng Long là mảnh đất được thành lập gìn giữ và xây dựng
phát triển bởi công lao của các vị vua Phật tử, các thiền sư, cư sĩ và
trí thức Tam giáo, cùng vô số những người nông dân chân chất tin vào lẽ
nhân quả tự ngàn đời, luôn kính ngưỡng Phật, Pháp, Tăng.
Có thể thấy Thăng Long - Hà Nội là cái nôi của Phật giáo Việt Nam, của
tư tưởng văn hóa truyền thống dân tộc. Ở đó đã có tượng đài tôn vinh Lý
Công Uẩn, người đặt nền móng cho thủ đô Hà Nội ngày nay. Nếu Ngô Quyền
là người đặt nền móng cho sự độc lập của người Việt thì chính Lý Công
Uẩn đã xây dựng cho nền độc lập đó phát triển nguy nga thêm. Tư tưởng
chủ đạo để Lý Thái Tổ xây dựng nguy nga nền độc lập ấy chính là tư tưởng
Tam giáo, mà cốt lõi là Phật giáo. Ông cũng là người xuất thân nơi nhà
chùa.
Thế mà chúng ta hãy nghe vị thừa sai Alexandre de Rhodes phỉ báng và mạt
sát Đức Phật: “Bởi Tam giáo này, như bởi nguồn độc, nhiều sự dối
khác. Song le bắt mỗi sự dối ấy chẳng có làm chi, vì chưng biết là bởi
đâu mà ra, cho hay tỏ tường là dối thì vừa. Như thế có chém cây nào độc
cho ngã, các ngành cây ấy tự nhiên cũng ngã với. Vậy thì ta làm cho
Thích-Ca là thằng hay dối người ta, ngã xuống, ...” (Aleaxandre de
Rhodes, Phép giảng tám ngày, tr. 115 & 116, Tủ sách Ðại Kết, TP. HCM,
1993).
Trong tư tưởng, vẫn có người áp dụng luật mâu thuẫn đối kháng để phủ
định cái có trước. Nhưng khi đã đặt tượng Lý Công Uẩn làm biểu tượng cho
tinh thần người Việt, lại đặt tượng vị thừa sai người Pháp gốc Do Thái
vào đó, phải chăng người ta muốn tinh thần thừa sai người Pháp gốc Do
Thái phủ định tinh thần người Việt? Không bàn đến công hay tội của
Alexandre de Rhodes, người ta thấy ngay rằng pho tượng của người Pháp
gốc Do Thái này không nên để vào bất kỳ một nơi công cộng nào.
Dân tộc chúng ta có thiếu người để tôn vinh? Ai đó đã từng nói “lịch
sử là một phòng tranh, trong đó nguyên bản chỉ có một còn phiên bản thì
nhiều”. Vì thế, nếu xem thường việc khinh trọng mà cứ cố dựng cho
bằng được tượng Alexandre de Rhodes tại Hà Nội có thể sẽ di hại đến muôn
đời.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một định chế thừa kế tinh thần từ các vị
quốc sư Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh, Khuông Việt…, tôi nghĩ rằng, Giáo hội
nên có ý kiến chính thức về vấn đề này. Tôi mong rằng Nhà nước và chính
quyền Thành phố Hà Nội cũng cần cân nhắc kỹ trước khi nhận “quà tặng”
tượng Alexandre de Rhodes. Nếu để “sự đã rồi” thử hỏi Đại lễ 1.000 năm
Thăng Long - Hà Nội có còn nguyên vẹn ý nghĩa văn hóa, hòa bình cao đẹp
nữa không?
Kính thưa quý vị,
Lịch sử rất cần nêu cao sự thật, và chân lý thì không cần “người bảo hộ”.
Một câu nói có thể có nghĩa đen và nghĩa bóng, nhưng một nửa sự thật thì
vĩnh viễn không phải là sự thật. Mong sao chúng ta đừng để những nhầm
lẫn trong ứng xử trở thành những nhầm lẫn của lịch sử.
Tôi xin gửi tới quý vị những ý kiến chân thành trên đây.
Kính chúc quý vị sức khỏe, hạnh phúc và thành tựu.
Thích Thanh Thắng
Ghi chú:
(1) Alexandro de Rhodes, Từ điển An Nam - Lusitan - La tinh (Thường gọi
Từ điển Việt - Bồ - La), phiên dịch Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt và Đỗ
Quang Chính, biên tập Hồ Lê, Cao Xuân Hạo và Hồ Tuyết Mai, nhà xuất bản
Khoa học Xã hội, TP Hồ Chí Minh, 1991.
(2) Xem thêm: Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt Ngữ
học, Roland Jacques, NXB Khoa học Xã hội-2007, tr. 43, 44).
(3), (4) Địa vị và vai trò của công giáo Macao thời Minh - Thanh trong
công cuộc truyền giáo ở Viễn Đông, Thang Khai Kiến, Tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo, (Số 4(40)/2006), Nguồn:
http://www.vae.org.vn/News_print.asp?id=3561
(5) Lý Đương Nhiên, Xin góp ý dịch chữ “soldat”, Nguồn:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7309&rb=12
(6) Đoạn trên dẫn theo Lý Đương Nhiên, Chữ "Plusieurs Soldats" Thời A.D.
Rhodes (Kính gửi Viện Sử học), nguồn:
http://www.sachhiem.net/LICHSU/LyDuongNhien1.php
http://www.buddhismtoday.com/viet/khac/thungo.htm