Phần lớn các học giả Phật giáo phương
Tây biết đến ngài Mã Minh qua trường ca “Phật Sở Hành Tán” (佛所行讚,
S. Buddha-carita-kāvya), thi phẩm nổi tiếng về cuộc đời đức
Phật, được viết bằng thơ Sanskrit. Với thiên tài thi ca (poetical
genius) Sanskrit vô tiền khoáng hậu,
ngài Mã Minh đã góp phần đưa văn học Sanskrit Phật giáo đến đỉnh cao
văn chương và triết lý. Ngài Mã Minh không chỉ là một nhà thơ lớn mà
còn là nhà đại diễn giả đầu tiên về giáo nghĩa và triết lý Đại thừa,
thuộc vào hạng các nhà tư tưởng tiên phong sâu sắc, có nhiều đóng góp
cho lịch sử phát triển tư tưởng Phật giáo. Ngài còn là một nhà biện
tại vô ngại, một tác gia lớn và một nhạc sĩ.
Theo các luận sư Trung Quốc, quê quán
của ngài Mã Minh ở nước Ba-la-nại thuộc Trung Ấn. Cha ngài là Lư-già (廬伽),
mẹ ngài là Cù-na (瞿那),
sống vào khoảng thế kỷ thứ sáu sau đức Phật niết-bàn vô dư.
Bản Sớ giải của Khởi Tín Luận
giải thích về nguyên do ngài Mã Minh đã được dân gian gọi bằng biệt
hiệu này. Sở dĩ ngài được gọi là “Mã Minh” (馬鳴)
với nghĩa đen “ngựa cất tiếng hí,” là vì, theo truyền thuyết có ba lý
do sau đây:
a) sự ra đời của ngài đã làm cho loài
ngựa (mã) cảm động, hí (minh) hoài không dứt,
b) khả năng khảy điệu nhạc
Rāstavara rất tài tình nhằm để tuyên dương pháp âm của ngài đã làm
cho loài ngựa (mã) nghe được đều cảm kích hí vang (minh).
c) Có lần quốc vương nước Nhục Chi (月氏)
muốn kiểm chứng hai điều nêu trên liền ra lệnh bỏ đói đàn ngựa đến 6
ngày liền. Khi ngài Mã Minh lên toà thuyết pháp, vua mới cho phép cung
cấp cỏ cho đàn ngựa ăn. Thật ngạc nhiên, đàn ngựa say mê nghe pháp
thoại, không thèm ăn cỏ, và do cảm động quá, chúng đã hí lên nhiều
tiếng thán phục.
Sở dĩ học giả phương Tây ít biết đến
ngài Mã Minh là vì các tài liệu liên quan đến cuộc đời và đóng góp của
ngài được viết bằng tiếng Sanskrit, trong khi đó, các tài liệu viết
bằng chữ Hán và Tây Tạng lại chứa quá nhiều huyền thoại, đã làm cho
một số học giả, chẳng hạn như giáo sư Kern cho rằng ngài Mã Minh không
phải là một nhân vật lịch sử, mà chỉ là một nhân cách hoá của thần
Kāla, một hình thái khác của thần Śiva.
Trước khi xuất gia, ngài Mã Minh nổi
tiếng chủ trương “ngã thể bất biến.” Khi được nghe tôn giả Phú-na-xa (富那奢)
phân tích về triết lý vô ngã trong đạo Phật, ngài Mã Minh đã cảm kích
mà xuất gia tu Phật. Cuộc đối thoại lịch sử đó diễn ra như thế này.
Nghe danh ngài Phú-na-xa, đạo lý uyên
thâm, chứng đạo giải thoát, ngài Mã Minh đã đến chất vấn rằng:
- Thưa sa-môn, tất cả ngôn luận của
thế gian, tôi đều có thể phi bác hết, giống như lưởi liềm cắt sạch cỏ.
Nếu sa-môn thắng được tôi, tôi xin tự cắt lưởi.
Tôn giả Phú-na-xa nói rằng:
- Tất cả lời Phật dạy không ngoài hai
chân lý. Đứng từ chân lý tương đối (thế tục đế), tạm gọi là ngã. Đứng
từ chân lý tuyệt đối (đệ nhất nghĩa đế), tất cả đều rỗng không. Theo
triết lý này, có cái gì trong đời này có ngã thể đâu. Ông hãy suy nghĩ
thật tường tận, xem học thuyết của Phật và của ông, ai hơn ai?
Ngài Mã Minh suy nghĩ:
- [Quả thật là đứng từ] chân lý tương
đối [thì ngã] là giả lập. [Đứng từ] chân lý tuyệt đối, [thì ngã] là
rỗng không. Cả hai chân lý này không có gì để nắm bắt được thì làm thế
nào để đánh đổ được!
Suy nghĩ xong, ngài Mã Minh cảm thấy
học thuyết vô ngã của Phật quá cao siêu, nên đã phát tâm xuất gia tu
Phật.
Nhờ sự giáo hoá của ngài Hiếp Tôn Giả
(S. Pārśva, Hán phiên âm là Bà-lật-thấp-bà),
ngài Mã Minh người Đông Ấn đã trở thành một trong “bốn mặt trời minh
triết” có khả năng soi sáng thế gian.”
Ba vị còn lại là Đề-bà ở Đông Ấn, Long Thụ ở Tây Ấn và Đồng Thọ (tức
Cưu-ma-la-thập?)
ở Bắc Ấn.
Tưởng cũng cần nói thêm về niên đại ra
đời của ngài Mã Minh. Có nhiều thuyết khác nhau, chênh lệch đến 300
năm. Theo các tác phẩm thuộc Nhất Thiết Hữu Bộ, bồ-tát Mã Minh sinh ra
trong một gia đình Bà-la-môn ở miền Đông Ấn,
vào khoảng 300 năm sau khi đức Phật niết-bàn. Theo tổ Huệ Viễn (慧遠)
trong tác phẩm sớ giải về Đại Trí Độ Luận (Mahā-prajñā-pāramitā-śāstra, ngài
Mã Minh sinh năm 370 sau khi đức Phật niết-bàn.
Mã Minh được tác phẩm “Cuộc
Đời ngài Thế Thân” (The Life of Vasubandhu) giới
thiệu như người cùng thời với ngài Kātyāyana, sống vào khoảng thế kỷ
thứ năm sau khi Phật niết-bàn. Tác giả của bài tựa bản dịch đời Đường
về Khởi Tín Luận ghi rằng Mã Minh ra đời vào khoảng 500 năm sau
khi đức Phật niết-bàn.
Tác phẩm Fu tsou t‘ung chi (tập
V) ghi rằng theo lời thọ ký của đức Phật, khoảng 600 năm sau khi đức
Phật niết-bàn, chánh pháp nhãn tạng đã được truyền thừa cho ngài Mã
Minh. Ngài Pháp Tạng,
đại luận sư có công sớ giải Khởi Tín Luận đã dựa vào dữ liệu
này khẳng định rằng đó là niên đại không thể phủ định. Ngay cả tổ Trí
Khải người trợ lý thủ bút cho ngày Chân Đế dịch Khởi Tín Luận
cũng khẳng định rằng sáu trăm năm sau Phật niết-bàn, trong bối cảnh
các học thuyết ngoại đạo phát triển thịnh hành, làm suy giảm ảnh hưởng
của Phật pháp, có một vị tỳ-kheo tên là Mã Minh, bậc tuệ giác khéo
được huấn luyện trong Đại thừa, vì lòng thương tưởng chúng sinh bị vô
minh chi phối, khéo trình bày tinh hoa chính pháp, sáng tác Luận
Khởi Tín nhằm xuyển phục hương giáo nghĩa của Phật, bẻ gãy tất cả
nguỵ thuyết của ngoại đạo, thắp sáng ngọn đuốc chánh pháp.
Dựa vào các dữ liệu và các cứ liệu
khác trong kinh, có ít nhất năm vị tên là Mã Minh. 1) Kinh Thắng Đảnh
Vương (勝頂王經)
ghi rằng ngày thứ 17 sau khi bồ-tát Tất-đạt-đa thành Phật, có một
ngoại đạo, tên là Mã Minh đã đến vấn nạn đức Phật về ý nghĩa của giải
thoát. 2) Kinh Ma-ni Thanh Tịnh (摩尼清淨經)
ghi sau khi đức Phật qua đời 100 năm, có một vị bồ-tát ra đời, tên là
Mã Minh. 3) Kinh Biến Hoá Công Đức (變化工德經)
chép sau khi Phật qua đời 300 năm, có một vị bồ-tát ra đời, tên là Mã
Minh. 4) Kinh Thường Đức Tam Muội (常德三昧經)
ghi sau khi Phật diệt độ 800 năm, có vị bồ-tát ra đời tên là Mã Minh,
5) Kinh Trang Nghiêm Tam Muội (莊嚴三昧經)
ghi trong thời quá khứ có một vị bồ-tát tên là Mã Minh. Ngoài vị thứ
năm thuộc về đời quá khứ, bốn vị có tên là Mã Minh được nêu trên có
phải là ngài Mã Minh của Khởi Tín Luận hay không, là một câu
hỏi khó có lời giải đáp thích đáng. Điều chúng ta có thể khẳng định ở
đây là ngài Mã Minh đã được các bản kinh ghi chép với các niên đại
khác nhau đến mấy trăm năm, làm cho chúng ta khó có thể xác định chính
xác thời đại ra đời của ngài.
Thông qua một vài cứ liệu về niên đại
nêu trên, chúng ta có thể tạm kết luận ngài Mã Minh sinh vào khoảng
thế kỷ thứ năm và thứ sáu.
II. CÁC TÁC PHẨM CỦA MÃ MINH
Ngoài trừ
Đại Thừa Khởi Tín Luận
(大乘起信論),
mang ký hiệu Đại 1646,
các tác phẩm còn lại của
ngài Mã Minh đều được viết bằng thi ca tiếng Sanskrit, hoặc pha trộn
giữa văn xuôi và thi kệ tràn đầy nhạc điệu. Các tác phẩm của ngài Mã
Minh rất nhiều, một số được đưa vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
như:
1) Phật Sở Hạnh Tán Kinh (佛所行讚經; S. Buddha-carita-kāvya),
mang ký hiệu Đại 192. Đây là tác
phẩm thi hoá cuộc đời đức Phật đầu tiên trong lịch sử văn học Phật
giáo. Thi phẩm này gồm có 28 bài thơ, được Dharmarakśa dịch vào năm
414-421; hiện tại còn 13 bài bằng văn Sanskrit giới thiệu bao quát từ
lúc thái tử Tất-đạt-đa được sinh ra, thời niên thiếu, xuất gia tầm đạo,
thành tựu đạo quả giải thoát và giáo hoá rồi nhập niết-bàn vô dư.
Phật Sở Hạnh Tán là một trong những tác phẩm được phổ biến rộng
rãi trong dân gian Ấn-độ, góp phần truyền bá Phật giáo cho giới văn
nghệ sĩ và hạng bình dân. Tập 19 của Thánh Điển Phương Đông (The
Sacred Books of the East) in trọn bản dịch tiếng Anh của Beal từ
tiếng Hán (佛所行讚經)
và bản dịch tiếng Anh của Cowell từ tiếng Sanskrit được in trong tập
XLIX của Thánh Điển Phương Đông là hai tài liệu quý, giúp giới
nghiên cứu có thêm tư liệu để so sánh và đối chiếu văn bản.
2) Đại Tông Địa Huyền Văn Bản Luận
(大宗地玄文本論;
S. Mahāyāna-bhūmi-guhya-vācā-mūla-śāstra), mang ký hiệu Đại
1669, được ngài Chân Đế dịch vào năm 557-569. Đây là luận bản nền tảng giới thiệu về 51
giai đoạn tâm chứng giải thoát của hành giả. Học thuyết huyền nhiệm
của Kim Cang Bồ-đề (Vajrabodhi)
đã chịu ảnh hưởng rất lớn từ tác phẩm này.
3) Đại Trang Nghiêm Kinh Luận (大莊嚴經論;
S. Mahālaṇkāra-sūtra-śāstra),
mang ký hiệu Đại 201,
được ngài Cưu-ma-la-thập dịch ra chữ Hán vào khoảng năm 405 sau TL.
Tác phẩm này là một tuyển tập các câu chuyện lịch sử xảy ra tại Tây Ấn,
được viết dưới hình thức thi kệ để xiển dương học thuyết nghiệp và tái
sinh. Một số chuyện trong tác phẩm này đã được
Beal dịch trong tác phẩm “Văn Học Phật Giáo ở Trung Quốc” (Buddhist
Literature in China).
4) Ni-kiền-tử Vấn Vô Ngã Nghĩa
(尼犍子問無我義),
mang ký hiệu Đại 1643, là luận phẩm kể lại ngoại đạo loã thể (Nirgrantha)
tham vấn về học thuyết vô ngã. Giáo nghĩa về hai chân lým, tức chân lý
tuyệt đối (Parmārtha-satya)
và chân lý tương đối (Samvṛtti-satya)
cũng như học thuyết tánh không (śūnyatā) làm nền tảng cho Trung Quán
tông của Long Thọ được giới thiệu rất chi tiết trong luận này.
5) Sự Sư Ngũ Thập Tụng (事師五十頌),
mang ký hiệu Đại 1687, trình bày về phương pháp hầu thầy thế
nào để được lợi ích và an vui, qua 50 bài thi kệ.
Ngoài ra, tương truyền rằng ngài Mã
Minh còn là tác giả của gần 100 luận bản khác, bao gồm Cam-giá Luận
(甘蔗論),
Thích Lăng-già Kinh (釋楞伽經),
Nhất Tâm Biến Mãn Luận (一心遍滿論),
Dung Tục Quy Chân Luận (容俗歸真論)
và Chân Như Tam-muội Luận (真如三昧論).