...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Kinh Hoa Nghiêm
- Phẩm Hạnh Nguyện Phổ
Hiền
- Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
Lời
Nói Đầu [^]
Phẩm Hạnh Nguyện Phổ Hiền nằm
trong Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu, cuốn 10, các trang 844-848. Đó
là chính văn mà tôi căn cứ để dịch. Và dịch thì căn cứ ý kiến của
đại sư Thái hư, qua bản giảng lục của Ngài, nằm trong Thái hư toàn thư
tập 23, các trang 1027-1096. Có một chi tiết nhỏ xin ghi ở đây, là kinh
sách tôi dịch có mấy chỗ liên hệ đến phẩm này, nhất là Hồng danh;
nhưng tùy chỗ nên ý dịch không khác mà lời dịch phải khác chút ít.
Dịch phẩm này tôi không làm mục
lục mà kể như đã có. Vì phần trường hàng thì dễ thấy, còn phần chỉnh
cú thì coi các ghi chú 15, 16, 17, 18, 21, 24 sẽ thấy phân khoa rõ ràng.
Sánh với 4 hoằng thệ của đức
Thích Tôn tuy vắn tắt bậc nhất mà đầy đủ bậc nhất, thì 10 hạnh
nguyện của đức Phổ Hiền thật không bằng. Nhưng 10 hạnh nguyện ấy
cũng thật đặc biệt. Tựu trung có người cho "tùy hỷ công đức"
có gì khó khăn và quan trọng đâu; nhưng nếu biết con người có thể chết
cho người mà khó thể khen người một câu, thì đủ biết hạnh nguyện
ấy quan trọng biết bao cho tâm lý người tu.
Phẩm này có sự đặc biệt nhất
là hồi hướng Cực Lạc. Tôi dịch là vì sự đặc biệt ấy.
Trí Quang
- Mở Đầu
- Nhất tâm đảnh lễ Nam mô Hoa nghiêm giáo chủ Tỳ
lô giá na (1) như lai;
- Nhất tâm đảnh lễ Nam mô Đại phương quảng Phật
hoa nghiêm kinh;
- Nhất tâm đảnh lễ Như lai trưởng tử Phổ hiền
bồ tát ma ha tát.
- Kinh Hoa Nghiêm (2)
- Phẩm Hạnh
Nguyện Phổ Hiền (3) [^]
Vào lúc bấy giờ, Phổ hiền đại
sĩ tán dương công đức siêu việt của đức Tỳ lô giá na như lai rồi, bảo
chư vị Bồ tát qua Thiện tài đồng tử, rằng Thiện nam tử, công đức của
đức Như lai, giả sử chính tất cả chư vị Như lai trong mười phương trải
qua những thời kỳ (4) nhiều bằng số lượng cực vi (5) của những thế
giới đến số lượng hai lần không thể nói (6) , diễn nói liên tục, cũng
không thể cùng tận. Nếu muốn thành tựu công đức ấy thì phải tu tập
mười hạnh nguyện rộng lớn. Mười hạnh nguyện ấy là những gì? Một
là lễ kính Phật đà, hai là tán dương Như lai, ba là hiến cúng rộng lớn,
bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tùy hỉ công đức, sáu là xin
chuyển pháp luân, bảy là xin Phật ở đời, tám là thường học theo Phật,
chín là hằng thuận chúng sanh, mười là hồi hướng tất cả.
Thiện tài đồng tử thưa, kính bạch
Đại sĩ, thế nào là lễ kính Phật đà? cho đến thế nào là hồi hướng
khắp cả ?
Phổ hiền đại sĩ bảo Thiện tài
đồng tử, Thiện nam tử, [thứ nhất] lễ kính Phật đà là đối với
chư vị Thế tôn nhiều bằng số lượng của tất cả thế giới khắp mười
phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, tôi nhờ sức
mạnh hạnh nguyện phổ hiền mà tin hiểu sâu xa như đối diện trước mắt,
và toàn đem ba nghiệp thân miệng ý trong sạch mà thường xuyên lễ kính.
Nơi mỗi đức Thế tôn, tôi biến thể thân hình nhiều bằng số lượng cực
vi của những thế giới đến hai lần không thể nói, mỗi thân hình lạy
khắp chư vị Thế tôn nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới
đến hai lần không thể nói. Hư không cùng tận, sự lễ kính của tôi mới
cùng tận, nhưng hư không không thể cùng tận, nên sự lễ kính của tôi
không có cùng tận; như vậy, chúng sanh cùng tận, nghiệp của chúng sanh
cùng tận, phiền não của chúng sanh cùng tận, sự lễ kính của tôi mới
cùng tận, nhưng chúng sanh, nghiệp của chúng sanh, phiền não của chúng
sinh, không có cùng tận, nên sự lễ kính của tôi cũng không cùng tận,
liên tục trong từng sát na (7) , không có gián đoạn, cả thân miệng ý
không hề chán mệt.
Thiện nam tử, [thứ hai] tán dương
Như lai là bao nhiêu cực vi của những thế giới khắp mười phương, suốt
ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, mỗi cực vi ấy có chư vị
Thế tôn nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới, mỗi đức
Thế tôn đều có hải hội (8) Bồ tát vây quanh. Tôi đem sự tin hiểu siêu
việt, sâu xa, biết và thấy các Ngài như đối diện trước mắt. Tôi
dùng những cái lưỡi nhiệm mầu hơn cả Đại biện tài thiên nữ, mỗi
cái lưỡi xuất ra biển cả âm thanh vô tận, mỗi âm thanh xuất ra biển cả
từ ngữ phong phú, ca tụng tán dương biển cả công đức của tất cả
chư vị Như lai, cùng tận thì gian không có gián đoạn, cùng tận pháp giới
không có thiếu sót. Như vậy, hư không cùng tận, chúng sanh cùng tận, phiền
não của chúng sinh cùng tận, sự tán dương của tôi mới cùng tận; nhưng
hư không cho đến phiền não không có cùng tận, nên sự tán dương của tôi
cũng không cùng tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả
thân miệng ý không hề chán mệt.
Thiện nam tử, [thứ ba] hiến cúng
rộng lớn là bao nhiêu cực vi của tất cả thế giới khắp mười
phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới, mỗi cực vi
có chư vị Thế tôn nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới,
mỗi đức Thế tôn có hải hội Bồ tát vây quanh, tôi nhờ sức mạnh hạnh
nguyện phổ hiền mà tin hiểu sâu xa, biết và thấy các Ngài như đối diện
trước mắt. Tôi đem cúng phẩm thượng hạng và tinh tế mà hiến cúng.
Mây hoa, mây vòng hoa, mây âm nhạc chư thiên, mây tàn lọng chư thiên, mây
phục sức chư thiên, các loại hương liệu chư thiên, hương xoa, hương đốt,
hương bột, những mây cúng phẩm như vậy hình lượng mỗi thứ bằng núi
chứa Tu di. Tôi lại đốt các loại đèn, đèn bơ, đèn dầu, các loại đèn
dầu thơm, tim của mỗi thứ đèn lớn như núi Tu di, dầu của mỗi thứ đèn
nhiều như nước biển cả. Tôi đem những cúng phẩm như vậy mà hiến
cúng thường xuyên. Thế nhưng, Thiện nam tử, trong mọi sự hiến cúng, hiến
cúng chánh pháp là hơn hết: hiến cúng bằng cách làm đúng lời Phật, hiến
cúng bằng cách lợi ích chúng sanh, hiến cúng bằng cách giáo hóa chúng
sinh, hiến cúng bằng cách chịu khổ thay cho chúng sanh, hiến cúng bằng
cách siêng tu thiện căn, hiến cúng bằng cách không bỏ bồ tát hạnh, hiến
cúng bằng cách không rời bồ đề tâm. Thiện nam tử, công đức vô lượng
của sự hiến cúng trước, đối chiếu với một thoáng công đức của sự
hiến cúng chánh pháp, thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần
ngàn, một phần ức, một phần triệu, một phần trăm của một cái lông,
một phần của sự tính toán được, một phần của sự tính kể được,
một phần của sự ví dụ được, một phần của cực vi, tất cả đều
không bằng (9) . Tại sao? Vì chư vị Như lai tôn trọng chánh pháp, vì làm
đúng lời Phật thì xuất sinh chư Phật. Nếu các vị Bồ tát làm theo sự
hiến cúng chánh pháp thì thế là thành tựu sự hiến cúng Như lai, vì làm
theo như vậy là hiến cúng chân thật. Như vậy, hư không cùng tận, chúng
sinh cùng tận, phiền não của chúng sinh cùng tận, sự hiến cúng rộng lớn
và hơn hết của tôi mới cùng tận, nhưng hư không cho đến phiền não
không thể cùng tận, nên sự hiến cúng của tôi cũng không cùng tận,
liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề
chán mệt.
Thiện nam tử, [thứ tư] sám hối
(10) nghiệp chướng là Bồ tát tự nghĩ, trong bao thời kỳ quá khứ vô thỉ,
tôi do tham sân si mà phát động thân miệng ý, làm những nghiệp dữ vô lượng
vô biên. Nếu nghiệp dữ ấy có hình tướng thì cùng tận không gian cũng
không thể dung chứa. Nay tôi đem cả ba nghiệp thân miệng ý trong sạch, đối
trước chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát trong những thế giới nhiều
như cực vi và khắp cả pháp giới, thành tâm sám hối, sau không làm nữa,
thường sống trong tịnh giới và các công đúc. Như vậy, hư không cùng tận,
chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng
sinh cùng tận, sự sám hối của tôi mới cùng tận, nhưng hư không cho đến
phiền não không thể cùng tận, nên sự sám hối của tôi cũng không cùng
tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý
không hề chán mệt.
Thiện nam tử, [thứ năm] tùy hỷ
công đức là chư vị Như lai nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả
thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư
không giới, từ lúc mới phát tâm, vì Nhất thế trí mà siêng tu các khối
phước đức, không tiếc tính mạng; trải qua thời kỳ nhiều bằng số lượng
cực vi của những thế giới đến hai lần không thể nói, trong mỗi thời
kỳ, bỏ đầu mắt tay chân nhiều bằng số lượng cực vi của những thế
giới đến hai lần không thể nói; tất cả khổ hạnh khó làm như vậy viên
mãn các ba la mật, chứng nhập các bồ tát trí, thành tựu vô thượng bồ
đề, nhập vào niết bàn, phân bủa xá lợi, bao nhiêu thiện căn ấy tôi
tùy hỷ tất cả. Tất cả sáu đường và bốn loài chúng sinh trong hết thảy
thế giới khắp cả mười phương, có bao nhiêu công đức, dầu chỉ bằng
một cực vi, tôi cũng đều tùy hỷ tất cả. Khắp mười phương, suốt ba
đồi, tất cả các vị Thanh văn, Duyên giác, còn tu học, hết tu học, có
bao nhiêu công đức tôi cũng tùy hỷ tất cả. Vô lượng khổ hạnh khó
làm, chí cầu vô thượng bồ đề, và công đức rộng lớn, của hết thảy
Bồ tát tu hành, tôi cũng tùy hỷ tất cả. Như vậy, dầu hư không cùng tận,
chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của chúng
sinh cùng tận, sự tùy hỷ của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong từng
sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.
Thiên nam tử, [thứ sáu] xin chuyển
pháp luân là bao nhiêu cực vi của những thế giới khắp mười phương, suốt
ba đời, cùng pháp giới và hư không giới, mỗi cực vi có thế giới rộng
lớn, nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần
không thể nói. Trong mỗi thế giới ấy, mỗi sát na có chư vị Phật đà
nhiều bằng số lượng cực vi của những thế giới đến hai lần không
thể nói, đều thành bậc Đẳng chánh giác, với hải hội Bồ tát vây
quanh; nhưng tôi toàn đem ba nghiệp thân miệng ý, dùng mọi phương cách,
mà thiết tha khuyên mời các Ngài chuyển đẩy diệu pháp luân. Như vậy, dẫu
hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận,
phiền não của chúng sinh cùng tận, sự thường xuyên khuyên mời chư Phật
chuyển đẩy chánh pháp luân của tôi cũng không cùng tận, liên tục trong
từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.
Thiện nam tử, [thứ bảy] xin Phật
ở đời là đối với bao nhiêu chư vị Như lai nhiều bằng số lượng cực
vi của những thế giới khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp
giới và hư không giới, ý muốn thị hiện nhập vào niết bàn, đối với
chư vị Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, còn tu học, hết tu học, cho đến hết
thảy các bậc Thiện tri thức, tôi đều khuyên mời đừng nhập niết bàn,
hãy sống với những thời kỳ nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả
thế giới, để lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh. Như vậy, dẫu hư
không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền
não của chúng sinh cùng tận, sự khuyên mời này của tôi cũng không cùng
tận, liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý
không hề chán mệt.
Thiện nam tử, [thứ tám] thường học
theo Phật là như đức Tỳ lô giá na như lai của thế giới Sa bà này, ngay
khi mới phát tâm, đã tinh tiến không thoái chuyển, đem thân mạng nhiều
đến hai lần không thể nói mà bố thí; lột da làm giấy, chẻ xương làm
bút, chích huyết làm mực, sao chép kinh điển chất bằng núi Tu di, vì tôn
trọng chánh pháp mà thân mạng còn không tiếc, huống chi ngôi vua, hoàng
thành, đô thị, thôn xóm, cung điện, hoa viên, lâm viên, và tất cả những
vật sở hữu. Cọng với bao nhiêu khổ hạnh khó làm khác, cho đến ngồi
dưới bồ đề thọ, thành tựu đại bồ đề, thị hiện các thứ thần
thông, pháp khởi những sự biến hóa, biến thể các loại Phật thân, ở
giữa các loại đại hội: hoặc ở giữa đạo tràng của chư vị đại bồ
tát, hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của chư vị Thanh văn, Duyên
giác, hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của luân vương, quốc vương, và
hoàng gia của họ, hoặc ở giữa đạo tràng đại hội của sát đế lợi,
bà la môn, trưởng giả, cư sĩ, cho đến ở giữa đạo tràng đại hội của
tám bộ thiên long, nhân loại và loài khác, ở giữa những đại hội như
vậy mà đem tiếng nói viên mãn vang lên như sấm lớn, tùy ý thích của
chúng sinh mà thành thục cho họ; cho đến thị hiện nhập vào niết bàn, tất
cả [những việc Phật làm] như vậy tôi đều theo mà học tập. Y như đối
với đức Thế tôn Tỳ lô giá na hiện nay, thì cũng như vậy mà đối hết
thảy chư vị Như lai nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới
khắp mười phương, suốt ba đời, cùng tận pháp giới và hư không giới,
trong từng sát na, tôi toàn theo mà học tập. Như vậy, dẫu hư không cùng
tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não của
chúng sinh cùng tận, sự thường học theo Phật của tôi cũng không cùng tận,
liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề
chán mệt.
Thiện nam tử, [thứ chín] hằng thuận
chúng sinh là bao nhiêu chúng sinh trong biển cả thế giới khắp mười
phương, cùng tận pháp giới và hư không giới, có những chủng loại khác
nhau: có những loại sinh bằng trứng, bằng thai, bằng thấp khí, bằng tiến
thể, có những loại dựa vào đất nước lửa gió mà sinh sống, có những
loại dựa vào hư không hay các loại cây cỏ mà sinh sống; đủ loại cách
sinh, đủ loại màu sắc, đủ loại hình dáng, đủ loại tướng mạo, tuổi
loại tuổi thọ, đủ loại chủng tộc, đủ loại tên gọi, đủ loại tâm
tính, đủ loại thấy biết, đủ loại ưa thích, đủ loại ý thức, đủ
loại cử động, đủ loại phục sức, đủ loại ẩm thực: ở nơi đủ
loại làng xóm, đô thị, kinh thành, cung điện; cho đến tát cả tám bộ
thiên long, nhân loại và loài khác, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều
chân, có hình sắc, không hình sắc, có tư tưởng, không tư tưởng, không
phải có tư tưởng, không phải không tư tưởng; tất cả chủng loại như
vậy, đối với họ tôi đều tùy thuận cả: tôi phụng sự đủ cách,
cung dưỡng đủ cách, kính như kính cha mẹ, thờ như thờ sư trưởng, thờ
La hán cho đến như thờ Như lai, đồng đẳng không có gì khác cả. Bằng
cách ai bịnh khổ thì tôi làm thầy thuốc giỏi, ai lạc đường thì tôi
chỉ cho đường chính, trong đêm tối thì tôi làm ánh sáng, nghèo khốn
thì tôi làm cho được kho tàng giấu trong lòng đất. Bồ tát hãy bình đẳng
lợi ích chúng sinh như vậy, tại sao, vì Bồ tát có thể tùy thuận chúng
sanh thì thế là tùy thuận hiến cúng Phật đà, tôn trọng phụng sự
chúng sinh là tôn trọng phụng sự Như lai, làm cho chúng sinh vui vẻ thì thế
là làm cho Như lai vui vẻ. Tại sao? Vì chư vị Như lai thì lấy tâm đại
bi làm bản thể, mà do chúng sinh mới có tâm đại bi, do tâm đại bi mới
có tâm bồ đề, do tâm bồ đề mới thành Chánh giác. Tựa như đại thụ
ở trong đồng nội hay sa mạc mênh mông, đại thụ ấy nếu rễ được
nước thì nhánh lá hoa quả sum sê tươi tốt. Bồ đề đại thụ ở trong
đồng nội sinh tử mênh mông cũng là như vậy, lấy chúng sinh làm rễ, lấy
chư chư Phật Bồ tát làm hoa làm trái, đem nước đại bi lợi ích chúng
sinh thì sinh ra hoa trái tuệ giác là chư Phật Bồ tát, tại sao, vì nếu Bồ
tát đem nước đại bi lợi ích chúng sinh thì thế là thành tựu vô thượng
bồ đề. Do vậy, bồ đề là thuộc về chúng sinh, không chúng sinh thì
các vị Bồ tát không bao giờ có thể thành tựu vô thượng bồ đề. Thiện
nam tử, đối với ý nghĩa ấy ông hãy lý giải như vầy: đối với chúng
sinh mà tâm lý bình đẳng thì có thể thành tựu lòng đại bi viên mãn,
đem lòng đại bi tùy thuận chúng sinh thì thế là thành tựu sự hiến
cúng chư vị Như lai. Bồ tát tùy thuận chúng sinh như vậy, dẫu hư không
cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận, phiền não
của chúng sinh cùng tận, sự tùy thuận ấy cũng không cùng tận, liên tục
trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề chán mệt.
Thiện nam tử, [thứ mườ] hồi hướng
khắp tất cả là từ sự lễ kính cho đến sự hồi hướng có bao công đức,
tôi đều hồi hướng cho hết thảy chúng sinh cùng tận pháp giới và hư
không giới, nguyện nhờ công đức ấy mà làm cho chúng sinh thường được
yên vui, không mọi bệnh khổ, muốn làm việc ác thì bất thành tất cả,
muốn tu điều thiện thì mau thành hết thảy, đóng chặt cửa ngõ của
các nẻo ác, mở bày đường chính của nhân loại chư thiên và niết bàn.
Nếu chúng sinh vì làm bao nghiệp dữ mà bị những quả khổ nặng nề thì
tôi chịu thay hết cho họ, làm cho họ được giải thoát, cứu cánh thành
đạt vô thượng bồ đề. Bồ tát tu tập sự hồi hướng như vậy, dẫu
hư không cùng tận, chúng sinh cùng tận, nghiệp của chúng sinh cùng tận,
phiền não của chúng sinh cùng tận, sự hồi hướng ấy cũng không cùng tận,
liên tục trong từng sát na, không có gián đoạn, cả thân miệng ý không hề
chán mệt.
Thiện nam tử, như vậy gọi là mười
đại nguyện của bồ tát đại sĩ viên mãn đầy đủ. Nếu các vị Bồ
tát tùy thuận mà đi mau vào mười đại nguyện ấy thì có thể thành thục
tất cả chúng sinh, thì có thể tùy thuận vộ thượng bồ đề, thì có thể
thành tựu đầy đủ biển cả hạnh nguyện của Phổ hiền đại sĩ. Do vậy,
Thiện nam tử, đối với ý nghĩa ấy ông hãy nhận thức như vầy: Nếu có
thiện nam hay thiện nữ nào đem bảy thứ quý báu loại thượng hạng và
tinh tế, cùng với đồ dùng đem lại hạnh phúc hơn hết cho nhân loại và
chư thiên, đầy những thế giới nhiều bằng số lượng cực vi của những
thế giới khắp cả mười phương, vô lượng vô biên, hai lần không thể
nói, bố thí cho chúng sinh trong những thế giới cũng nhiều như trên, hiến
cúng chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát trong những thế giới cũng nhiều
như trên, và trải qua những thời kỳ nhiều bằng số lượng cực vi của
những thế giới cũng nhiều như trên, liên tục không ngừng; nhưng công đức
người ấy đạt được, đem đối chiếu với công đức đạt được của
người nghe mười nguyện vương này một lần lướt qua thính giác, thì
công đức người trước không bằng một phần trăm, không bằng một phần
ngàn, cho đến một phần cực vi cũng không bằng. Đối với mười đại
nguyện này, có ai đem lòng tin sâu xa mà tiếp nhận, ghi nhớ, đọc xét văn
nghĩa, tụng dọc thuộc lòng, cho đến chỉ sao chép được một bài chỉnh
cú bốn câu (11) , cũng mau chóng diệt được năm tội vô gián, bao nhiêu khổ
não trong đời như thân bịnh tâm bịnh vân vân, cho đến tất cả nghiệp
dữ nhiều bằng số lượng cực vi của thế giới cũng được tiêu cả; tất
cả quân đội của ma vương, quỉ ăn thịt người, quỉ bạo ác, quỉ ăn
tinh khí, quỉ điên cuồng, quỉ ăn thịt người loại tự hóa sinh (12) , những
quỉ ác thần ác uống huyết ăn thịt như vậy đều tránh xa người ấy,
hoặc có khi phá tâm thân gần hộ vệ. Thế nên người nào tụng được
thuộc lòng mười nguyện vương thì đi trong đời này không có gì trở ngại.
Người ấy như vầng trăng đã ra khỏi mây mù che khuất. Người ấy được
chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát tán dương ca tụng. Người ấy, tất
cả nhân loại và chư thiên nên lạy và tôn kính. Người ấy, tất cả chúng
sinh cùng nên hiến cúng. Người ấy khéo làm thân người, đầy đủ công
đức của Phổ hiền đại sỉ, không bao lâu sẽ như Phổ hiền đại sĩ,
mau chóng được cái sắc thân nhiệm mầu, đủ cả ba mươi hai tướng của
bậc đại trượng phu. Người ấy nếu sinh trong nhân loại hay chư thiên
thì ở đâu cũng thuộc dòng họ hơn hết, phá hoại được tất cả đường
ác, tránh xa được tất cả bạn dữ, chế ngự đựợc tất cả ngoại đạo,
giải thoát được tất cả phiền não. Người ấy như sư tử chúa làm cho
các loại thú vật phải khuất phục. Người ấy kham nhận sự hiến cúng
của tất cả chúng sinh.
Lại nữa, người ấy khi sắp chết,
sát na sau cùng thì tất cả giác quan đều hư hỏng, tất cả thân nhân đều
rời bỏ, tất cả uy thế đều tan mất, [và dầu là vua đi nữa, lúc ấy]
tể tướng, đại thần, nội cung, ngoại thành, voi ngựa, xe cộ, vàng ngọc,
kho tàng trong lòng đất, tất cả không ai và không gì đi theo. Chỉ có mười
nguyện vương này không hề rời bỏ người ấy, lúc nào cũng hướng dẫn
trước mắt. Và trong một sát na, người ấy tức khắc được sinh thế giới
Cực lạc. Sinh rồi tức khắc được thấy đức A Di Đà Phật, với các vị
Văn thù sư lợi bồ tát, Phổ hiền bồ tát, Quan tự tại bồ tát, Di lặc
bồ tát, và các vị bồ tát đồng đẳng, sắc tướng trang nghiêm, công đức
toàn hảo, cùng nhau vây quanh Ngài. Người ấy lại tự thấy bản thân sinh
trong hoa sen và được đức A di đà Phật thọ ký cho. Được thọ ký rồi,
trải qua vô số trăm ngàn vạn ức triệu thời kỳ, khắp trong thế giới
nhiều đến hai lần không thể nói, đem sức mạnh trí tuệ, tùy tâm ý
chúng sinh mà lợi ích cho họ, và không bao lâu sẽ ngồi nơi bồ đề tràng,
chiến thắng quân đội của ma vương, thành bậc Đẳng chánh giác, chuyển
đẩy diệu pháp luân, làm cho chúng sinh trong những thế giới nhiều bằng
số lượng cực vi của thế giới phát bồ đề tâm, tùy trình độ của
chúng sanh mà giáo hóa cho họ thành thục, cho đến cùng tận biển cả thời
kỳ vị lai, lợi ích toàn diện cho tất cả chúng sinh. Thiện nam tử, những
ai nghe và tin mười đại nguyện vương (13) này, tiếp nhận, ghi nhớ, đọc
xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, thì công đức
người ấy có được, ngoại trừ chư vị Thế tôn không ai biết hết. Thế
nên các người nghe mười đại nguyện vương này đừng có hoài nghi, mà
nên tiếp nhận cho chắc chắn, tiếp nhận rồi có thể đọc xét văn
nghĩa, xét văn nghĩa rồi có thể tụng được thuộc lòng, tụng được
thuộc lòng rồi có thể ghi nhớ, cho đến sao chép, giảng nói cho người.
Những người như vậy, ngay trong một sát na mà mọi hạnh nguyện đều viên
thành, các khối phước đức mà họ thu hoạch thì vô lượng vô biên.Trong
biển khổ phiền não to lớn, họ cứu vớt cho chúng sinh thoát khỏi và
cùng được vãng sinh thế giới Cực lạc của đức A di đà phật.
Lúc bấy giờ Phổ hiền đại sĩ
muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nhìn khắp tất cả khu vức mà nói những
lời chỉnh cú sau đây. [^]
- (1) Hết thảy chư Phật
- trong ba thì gian
- tại các thế giới
- khắp cả mười phương
- tôi vận dụng cả
- ba nghiệp trong sạch
- kính lạy khắp cả
- không có thiếu sót.
- (2) Năng lực uy thần
- của hạnh phổ hiền
- làm tôi hiện khắp
- trước chư Như lai,
- một thân lại hiện
- thân như cực vi,
- lạy khắp chư Phật
- cũng như cực vi.
- (3) Trong một cực vi
- có chư Phật đà
- nhiều bằng cực vi,
- và đều ở trong
- chúng hội bồ tát;
- cực vi tất cả
- pháp giới vô tận
- cũng là như vậy,
- tâm tôi tin Phật
- thật sâu và đầy.
- (4) Nên biển âm thanh
- tôi vận dụng cả,
- xuất ra vô tận
- lời chữ nhiệm mầu,
- cùng tận thời kỳ
- của thì vị lai
- tán dương biển cả
- công đức của Phật.
- (5) Tôi đem vòng hoa
- tốt đẹp hơn hết,
- âm nhạc, hương hoa,
- tàn lọng, bảo cái,
- những đồ trang hoàng,
- hơn hết như vậy,
- tôi đem hiến cúng
- chư vị Như lai.
- (6) Y phục hơn hết,
- hương liệu hơn hết,
- hương bột, hương đốt,
- cùng với đèn đuốc,
- tất cả đề như
- Diệu cao núi lớn,
- tôi đem hiến cúng
- chư vị Như lai.
- (7) Tôi đem cái biết
- cao rộng hơn hết
- tin tưởng sâu xa
- tam thế chư Phật,
- vận dụng sức mạnh
- hạnh nguyện phổ hiền
- mà khắp hiến cúng
- chư vị Như lai.
- (8) Bao nhiêu nghiệp dữ
- xưa kia tôi làm,
- đều bởi vô thỉ
- những tham sân si,
- động thân miệng ý
- mà phát sinh ra,
- ngày nay tôi nguyện
- sám hối tất cả.
- (9) Mười phương hết thảy
- các loại chúng sinh,
- cùng với các vị
- Thanh văn, Duyên giác,
- Tu học tiếp tục,
- Tu học hoàn tất,
- tất cả Như lai,
- cùng với Bồ tát,
- công đức có gì
- tôi tùy hỷ cả.
- (10) Mười phương đâu có
- Ngọn đèn thế giới
- khi mới thành tựu
- tuệ giác vô thượng,
- tôi xin thỉnh cầu
- tất cả các Ngài
- chuyển đẩy bánh xe
- diệu pháp vô thượng.
- (11) Chư vị Như lai
- muốn hiện niết bàn,
- thì tôi chí thành
- thỉnh cầu các Ngài
- sống với đời kiếp
- nhiều như cực vi,
- để làm lợi lạc
- hết thảy chúng sinh.
- (12) Lạy Phật, khen Phật,
- và hiến cúng Phật (14) ,
- Xin Phật ở đời
- và chuyển [háp luân,
- tùy hỷ sám hối
- bao thiện căn ấy.
- tôi đem hồi hướng
- lợi ích chúng sinh
- có nghĩa hồi hướng
- nguyện thành trí Phật (15) .
- (13) Tôi theo mà học
- chư vị Như lai,
- tu tập tất cả
- hạnh nguyện phổ hiền,
- phụng sự quá khứ
- chư vị Như lai,
- cùng với hiện tại
- chư vị Phật đà,
- (14) vị lai các bậc
- Thầy của trời người,
- bao nhiêu ý nguyện
- đều viên mãn cả,
- tôi nguyện học tập
- tam thế chư Phật,
- để mau hoàn thành
- tuệ giác vô thượng (16) .
- (15) Tất cả thế giới
- khắp cả mười phương
- rộng lớn trong sạch
- nhiệm mầu trang nghiêm,
- ở đâu cũng có
- đại hội Bồ tát
- bao quanh chư Phật,
- trong khi chư Phật
- cùng ngồi dưới cây
- bồ đề đại thọ.
- (16) Cầu nguyện chúng sinh
- khắp cả mười phương
- thoát hết lo sợ
- thường hưởng yên vui,
- thu hoạch lợi ích
- của Pháp sâu xa,
- diệt trừ phiền não
- không còn thừa sót (17) .
- (17) Khi tôi tu tập (18)
- vì đại bồ đề
- thì ở loài nào
- cũng biết đời trước,
- thường được xuất gia
- nghiêm giữ tịnh giới,
- không để giới thể
- bị dơ bị vỡ
- hay bị xuyên thủng
- hoặc bị sơ suất (19) .
- (18) Tất cả chư thiên
- cùng với quỉ thần,
- hết thảy nhân loại
- và bao loài khác,
- bao nhiêu chúng sinh
- bao nhiêu tiếng nói,
- tôi dùng tiếng ấy
- mà thuyết pháp cho.
- (19) Siêng tu các pháp
- ba la mật đa
- cực kỳ trong sáng,
- thường xuyên chuyên chú
- không để quên mất
- tâm đại bồ đề,
- diệt trừ dơ bẩn
- không cho sót lại,
- viên thành tất cả
- hạnh nguyện nhiệm mầu.
- (20) Đối với mê lầm
- cùng với nghiệp dữ,
- đối với cảnh ngộ
- hiện thân ma vương,
- trong cõi đời này
- mà được siêu thoát,
- tực như hoa sen
- không hề dính nước,
- cũng như nhật nguyệt
- không vướng không gian.
- (21) Tận trừ toàn bộ
- nỗi khổ đường dữ,
- bình đẳng cho vui
- bao loại sinh linh,
- trải qua thời kỳ
- nhiều như cực vi,
- lợi ích mười phương
- không có cùng tận.
- (22) Tôi hằng tùy thuận
- các loại chúng sinh,
- cùng tận thời kỳ
- của thì vị lai,
- thường xuyên tu tập
- hạnh nguyện phổ hiền
- cực kỳ rộng lớn
- viên mãn thành tựu
- tuệ giác bồ đề
- cực kỳ tối thượng.
- (23) Bao nhiêu những người
- đồng hành với tôi,
- nguyện ở chỗ nào
- cũng thường gặp nhau,
- thân miệng và ý
- đều như nhau cả,
- cùng nhau tu học
- hết thảy hạnh nguyện.
- (24) Những thiện trí thức
- lợi ích cho tôi,
- chỉ dẫn cho tôi
- hạnh nguyện phổ hiền,
- cũng nguyện thường xuyên
- được gặp gỡ nhau,
- lại nguyện thường xuyên
- hoan hỷ cho tôi.
- (25) Nguyện thường nhìn thấy
- chư vị Như lai,
- cùng chư Bồ tát
- vây quanh các Ngài,
- đối với các Ngài
- nguyện hiến cúng lớn,
- cùng tận vị lai
- không biết chán mệt.
- (26) Nguyện được duy trì
- pháp mầu của Phật,
- làm cho rực rỡ
- hạnh nguyện bồ đề,
- trong sạch rốt ráo
- đường đi Phổ hiền,
- cùng tận vị lai
- thường xuyên tu tập.
- (27) Ở trong tất cả
- thế giới ba cõi,
- tôi tu phước trí
- thường xuyên vô tận,
- định tuệ phương tiện
- cùng với giải thoát,
- được kho công đức
- vô tận như vậy.
- (28) Mỗi một cực vi
- có số thế giới
- nhiều bằng cực vi
- mỗi một thế giới
- có các đức Phật
- khó thể nghĩ thấu,
- mỗi một đức Phật
- đều ở chính giữa
- đại hội Bồ tát,
- và tôi nhìn thấy
- các Ngài thường nói
- hạnh nguyện Bồ đề.
- (29) Biển cả thế giới
- khắp mười phương hướng,
- biển cả thì gian
- nhiều bằng đầu lông,
- biển cả Phật đà,
- biển cả quốc độ,
- biển cả thời kỳ
- mà tôi tu hành.
- (30) Chư vị Như lai
- lời tiếng trong sáng,
- mỗi tiếng đủ hết
- biển cả âm thanh,
- những lời tiếng ấy
- tùy ý chúng sinh,
- mỗi tiếng xuất ra
- biển cả hùng biện.
- (31) Chư vị Như lai
- trong ba thì gian,
- vận dụng vô tận
- biển cả lời tiếng,
- thường chuyển pháp luân
- lý thú nhiệm mầu,
- nhưng trí tuệ lực
- sâu xa của tôi
- có thể hội nhập
- một cách toàn diện.
- (32) Tôi thấu hiểu được
- toàn thể thời kỳ
- của thì vị lai
- là một sát na,
- tôi cũng thấu hiểu
- toàn thể thời kỳ
- cả ba thì gian
- là một sát na.
- (33) Trong một sát na
- mà tôi thấy hết
- tất cả chư Phật
- trong ba thì gian,
- tôi thường thấu hiểu
- lĩnh vực của Phật
- thể chứng các pháp
- toàn như ảo thuật,
- giải thoát cao sâu,
- uy lực hùng mãnh.
- (34) Nơi mỗi cưc vi
- trên đầu sợi lông,
- xuất hiện thế giới
- quá khứ hiện tại
- cùng với vị lai
- cực kỳ trang nghiêm.
- Thế giới mười phương
- nhiều như cực vi
- trên đầu sợi lông,
- tôi thâm nhập cả
- mà làm toàn thể
- trang nghiêm trong sạch.
- (35) Cùng tận vị lai
- có bao Phật đà
- thành vô thượng giác
- chuyển chánh pháp luân
- mở mắt quần sinh
- ở trong ba cõi,
- việc Phật hoàn tất
- thị hiện niết bàn,
- tôi đều đi đến
- thân gần phụng sự.
- (36) Năng lực thần thông
- đến mau khắp cả,
- năng lực đại thừa
- biến thể toàn diện,
- năng lực công đức
- tu hết trí hạnh,
- năng lực đại từ
- che hết chúng sinh,
- (37) năng lực thắng phước
- trang hoàng khắp nơi,
- năng lực thắng trí
- không hề vướng mắc,
- năng lực uy thần
- đủ mọi phương tiện (20) .
- năng lực bồ đề
- qui tụ hết thảy,
- (38) năng lực thiện nghiệp
- làm sạch tất cả,
- nănglực diệt trừ
- tất cả phiền não,
- năng lực chiến thắng
- tất cả ma quân,
- năng lực viên mãn
- hạnh nguyện phổ hiền (21) .
- (39) Trang hoàng sạch sẽ
- biển cả thế giới,
- giải thoát hết thảy
- biển cả chúng sinh,
- khéo léo phân biệt
- biển cả các pháp,
- nhập vào sâu xa
- biển cả trí tuệ,
- (40) làm trong sáng hết
- biển cả đại hạnh,
- làm đầy đủ cả
- biển cả đại nguyện,
- thân gần hiến cúng
- biển cả Phật đà,
- tu không mệt mỏi
- biển cả thời kỳ.
- (41) Bao nhiêu hạnh nguyện
- tuệ giác tối thượng
- của chư Như lai
- trong ba thì gian,
- tôi tôn thờ cả
- và tu đầy đủ:
- Vận dụng tất cả
- hạnh nguyện phổ hiền
- tôi giác ngộ được
- vô thượng bồ đề.
- (42) Tất cả Như lai
- đều có trưởng tử,
- cùng một danh hiệu
- danh hiệu Phổ hiền (22) ;
- nay tôi hồi hướng
- bao nhiêu thiện căn (23) ,
- nguyện bao trí tuệ
- đồng đẳng các vị.
- (43) Cả thân miệng ý
- thường xuyên trong sáng,
- hạnh nguyện, quốc độ,
- cũng đều như vậy:
- trí tuệ đến thế
- nên tên Phổ hiền,
- nguyện tôi đồng đẳng
- với các vị ấy.
- (44) Tôi vì trong sáng
- hạnh nguyện Phổ hiền,
- nên bao hạnh nguyện
- của ngài Văn thù,
- tôi tu đủ cả
- không có thiếu sót,
- cùng tận vị lai
- không hề mỏi mệt.
- (45) Sự tu của tôi
- không có hạn lượng,
- công đức đạt được
- cũng không số lượng;
- đứng vững ở trong
- vô lượng hạnh nguyện,
- tôi thấu triệt hết
- bao thần thông lực.
- (46) Trí hạnh Văn thù
- cực kỳ dũng mãnh,
- tuệ hạnh Phổ hiền
- cũng là như vậy;
- nay tôi hồi hướng
- bao nhiêu thiện căn,
- để theo các ngài
- thường xuyên tu học.
- (47) Các đại nguyện vương
- tối thắng như vầy
- được sự ca tụng
- của chư Như lai,
- nay tôi hồi hướng
- bao nhiêu thiện căn
- để được hạnh nguyện
- Phổ hiền tối thượng (24) .
- (48) Nguyện tôi trong lúc
- sinh mệnh sắp chết,
- thì loại được cả
- mọi sự trở ngại,
- trực tiếp nhìn thấy
- đức A di đà,
- tức khắc được sinh
- thế giới Cực lạc.
- (49) Tôi đã sinh ra
- thế giới ấy rồi,
- trước mất thành tựu
- đại nguyện vương này,
- thành tựu đầy đủ
- không có thiếu sót,
- lợi lạc tất cả
- thế giới chúng sinh.
- (50) Bồ tát hải hội
- của đức Di đà
- ai cũng trong sạch,
- còn tôi lúc ấy
- hóa sinh ở trong
- hoa sen tối thắng,
- đích thân nhìn thấy
- đức A di đà,
- và Ngài đối diện
- thọ ký cho tôi
- thành tựu tuệ giác
- vô thượng bồ đề.
- (51) Nhờ ơn của Ngài
- thọ ký cho rồi,
- tôi liền biến thể
- vô số thân hình,
- với trí tuệ lực
- cực kỳ rộng lớn,
- tôi làm lợi lạc
- tất cả chúng sinh.
- (52) Hư không cho đến
- phiền não cùng tận,
- đại nguyện của tôi
- mới có cùng tận,
- nhưng bốn thứ ấy
- không có cùng tận,
- đại nguyện của tôi
- cũng không cùng tận.
- (53) Ai đem bảo vật
- đầy cả thế giới
- khắp mười phương hướng
- mà hiến cúng Phật,
- lại cho trời người
- hạnh phúc tuyệt vời,
- và làm như vậy
- trải qua thời kỳ
- bằng số cực vi
- của mọi thế giới.
- (54) Và ai đối với
- đại nguyện vương này
- một lần nghe đến
- mà sinh tin tưởng,
- với sự khao khát
- vô thượng bồ đề,
- thì được công đức
- quá hơn người trước.
- (55) Và rồi xa rời
- bạn bè xấu ác,
- với lại xa hẳn
- các nẻo đường dữ
- mau chóng nhìn thấy
- đức A di đà,
- và đủ hạnh nguyện
- phổ hiền tối thượng.
- (56) Người ấy khéo được
- đời sống đặc thù.
- người ấy khéo sinh
- ở trong loài người,
- người ấy không lâu
- sẽ được hoàn thành
- hạnh nguyện y như
- Phổ hiền đại sĩ.
- (57) Nếu mà xư kia
- không có trí tuệ
- nên tạo năm tội
- địa ngục Vô gián,
- nhưng nếu ngày nay
- tụng đại nguyện vương
- của đức Phổ hiền,
- thì một sát na
- tiêu diệt tức thì
- năm tội như vậy.
- (58) Lại còn toàn hảo
- dòng họ, thành phần,
- sắc tướng, trí tuệ;
- quân đội ma vương (25)
- và những ngoại đạo
- không thể đánh đổ,
- kham được ba cõi
- cùng nhau hiến cúng.
- (59) Và mau đến ngồi
- dưới bồ đề thọ,
- chiến thắng các đạo
- quân đội ma vương,
- thành đẳng chánh giác
- chuyển diệu pháp luân,
- lợi lạc hết thảy
- các loại chúng sinh.
- (60) Thế nên những ai
- đối với hạnh nguyện
- của đức Phổ hiền
- mà biết tiếp nhận,
- ghi nhớ, đọc tụng,
- và nói cho người,
- thì được kết quả
- chỉ Phật mới biết,
- quyết định thực hiện
- vô thượng bồ đề.
- (61) Người nào trì tụng
- hạnh nguyện Phổ hiền,
- mà tôi nói về
- chút ít thiện căn,
- là một sá na
- họ đủ tất cả
- đại thanh tịnh nguyện
- tác thành chúng sinh.
- (62) Hạnh nguyện phổ hiền
- tối thượng của tôi,
- vô biên thắng phước
- tôi hồi hướng cả,
- nguyện bao chúng sinh
- đang còn chìm đắm,
- mau chóng được sinh
- thế giới Cực lạc
- của đức Thế tôn
- A di đà Phật.
Bấy giờ, trước đức Tỳ lô giá
na như lai, Phổ hiền đại sĩ nói những lời chỉnh cú trong sáng về đại
nguyện vương phổ hiền rồi, Thiện tài đồng tử phấn chấn vô lượng,
các vị Bồ tát cùng đại hoan hỷ, và đức Như lai tán dương, rằng lành
thay, lành thay! (26) .
Khi đức Tỳ lô giá na như lai cùng
các vị Bồ tát đại sĩ nói về pháp môn "Lĩnh vực giải thoát bất
khả tư nghị" thì các đại bồ tát và sáu ngàn tỳ kheo đã được
thành thục do Văn thù đại sĩ làm thượng thủ; các đại Bồ tát thuộc
về Hiền kiếp do Di lạc đại sĩ làm thượng thủ; các đại bồ tát chỉ
còn một đời nữa là bổ xứ lên ngôi Pháp vương, cùng với các đại bồ
tát nhiều bằng số lượng cực vi của biển cả thế giới cùng đến pháp
hội này, do Phổ hiền đại sĩ (27) làm thượng thủ; các đại thanh văn
do các tôn giả Xá lợi phất và Mục kiền liên làm thượng thủ; cùng với
hết thảy thế chúa, tám bộ thiên long, nhân loại và loài khác, toàn thể
đại hội như vậy nghe những điều đức Như lai tuyên thuyết thì ai cũng
đại hoan hỷ, tín thọ, phụng hành (28) .
Nam mô Hoa nghiêm giáo chủ Tỳ lô
giá na như lai. Nam mô Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh. Nam mô Như
lai trưởng tử Phổ hiền bồ tát ma ha tát.
18-5-2538
- Ghi Chú (1)
- Là báo thân của đức Thích Ca.
-
- Ghi Chú (2)
- Chỉ cho Hoa Nghiêm 40 cuốn.
-
- Ghi Chú (3)
- Hạnh nguyện, đúng ra là hành nguyện: chú nguyện
và việc làm bất khả phân, gọi là hạnh nguyện. Phổ hiền: cát tường
một cách toàn diện. Hạnh nguyện phổ hiền có 2 nghĩa: có nghĩa là hạnh
nguyện của đức Phổ hiền, nhưng cũng có nghĩa là hạnh nguyện có đặc
tính phổ hiền.
-
- Ghi Chú (4)
- Thời kỳ: dịch chữ kiếp. Đúng ra phải dịch
là thời kỳ dài, và có 3 bậc: thời kỳ dài nhỏ (tiểu kiếp) thời kỳ
dài vừa (trung kiếp) thời kỳ dài lớn (đại kiếp).
-
- Ghi Chú (5)
- Cực vi (hay vi trần, cực vi trần) là bụi rất
nhỏ, tưởng tượng cũng không phân tích được nữa.
-
- Ghi Chú (6)
- Hai lần không thể nói, là 1 trong các cấp số
nhiều.
-
- Ghi Chú (7)
- Sát na (niệm) là đơn vị ngắn nhất của thì
gian, chỉ như ý nghì thoạt hiện hay thoạt biến.
-
- Ghi Chú (8)
- Hải hội: đại hội đông như biển.
-
- Ghi Chú (9)
- Dịch theo đại sư Thái hư.
-
- Ghi Chú (10)
- Đúng chính văn ở đây là sám trừ: sám hối trừ
diệt.
-
- Ghi Chú (11)
- Không phải là 1 bài 4 câu chỉnh cú thuộc thểvăn
chỉnh cú, mà bất cứ thể văn chỉnh cú hay thể văn trường hàng, hễ 32
chữ liên tiếp, thành 4 câu, mổi câu 8 chữ, thi gọi là một bài chỉnh
cú 4 câu.
-
- Ghi Chú (12)
- Dịch theo Phật học đại từ điển của Đinh Phúc
Bảo. Nguyên tên dịch âm thì thứ tự như sau: dạ xoa, la sát, cưu bàn
trà, tì xá xà, bộ đa.
-
- Ghi Chú (13)
- Đại nguyện vương (hay nguyện vương), đại nguyện
là hạnh nguyện vĩ đại, đại nguyện vương là đại nguyện chúa tể của
đại nguyện. Cũng có trường hợp đại nguyện vương chỉ cho đức Phổ
hiền: vị chúa tể của đại nguyện.
-
- Ghi Chú (14)
- Chính văn là "sở hữu lễ tán cúng dường
Phật". Câu này nếu nói rõ là sở hữu lễ Phật, tán Phật, cúng dường
Phật. Vậy chữ Phật chữa thành chữ Phước là rất sai.
-
- Ghi Chú (15)
- Mười hai bài chỉnh cú này nói về 8 đại nguyện:
1-2 là 1 lễ kính Phật đà; 3-4 là 2 tán dương Như lai; 5-7 là 3 hiến cúng
rộng lớn; 8 là 4 sám hối nghiệp chướng; 9 là 5 tùy hỷ công đức; 10 là
6 xin chuyển pháp luân; 11 là 7 xin Phật ở đời; 12 là, theo ý đại sư Thái
hư nói trước một cách tổng quát về đại nguyện 10 hồi hướng khắp cả.
-
- Ghi Chú (16)
- Theo ý đại sư Thái hư, các chỉnh cú 13-14 này
là đại nguyện 8 thưởng học theo Phật.
-
- Ghi Chú (17)
- Theo ý đại sư Thái hư, các chỉnh cú 15-16 này
là đại nguyện 9 hằng thuận chúng sanh.
-
- Ghi Chú (18)
- Theo ý đại sư Thái hư, các chỉnh cú 17-47 sau đây
là đại nguyện 10 hồi hướng khắp cả, nói đầy đủ hơn. Tựu trung
chia ra 2 đoạn lớn: đoạn một, các chỉnh cú 17-38 là phát thêm 10 nguyện
nhỏ, đoạn 2, các chỉnh cú 39-47 là tổng kết hồi hướng về 10 đại
nguyện.
-
- Ghi Chú (19)
- Lậu, dịch đúng là rỉ lọt, mà ở đây là sai
sót, sơ hở, sơ suất.
-
- Ghi Chú (20)
- Dịch đủ: Thiền định, trí tuệ, phương tiện.
-
- Ghi Chú (21)
- Coi lại ghi chú 18 . Ở đó đã nói các chỉnh cú
17-38 là phát thêm 10 nguyện nhỏ, đó là:
- (1) 17-18 là nguyện hộ vệ chánh pháp.
- (2) 19-20 là nguyện tự lợi tha.
- (3) 21-22 là nguyện thành thục chúng sinh.
- (4) 23-24 là nguyện không rời đồng hành.
- (5) 25-26 là nguyện hiến cúng chánh pháp.
- (6) 27-28 là nguyện được lợi công đức.
- (7) 29-31 là nguyện chuyển đẩy pháp luân.
- (8) 32-33 là nguyện nhập cảnh giới Phật,
- (9) 34-35 là nguyện phụng sự chư Phật.
- (10) 36-38 là nguyện mau thành chánh giác.
-
- Ghi Chú (22)
- Coi lại ghi chú 3 . Tất cả chữ Phổ hiền, trong
trường hàng cũng như chỉnh cú, có 3 nghĩa. Một, có khi chỉ cho đức Phổ
hiền, thì viết hoa. Hai, đa số chỉ cho tính cách phổ hiền, thì viết thường.
Ba, có khi chỉ cho các đức Phổ hiền khác, thì cũng viết hoa.
-
- Ghi Chú (23)
- Chữ này, ở đây và ở dưới, là chỉ cho 10 hạnh
nguyện Phổ hiền.
-
- Ghi Chú (24)
- Coi lại ghi chú 18 . Ở đó đã nói, theo ý đại
sư Thái hư, các chỉnh cú 39-47 là tổng kết hồi hướng về 10 đại nguyện.
Gồm lại, các chỉnh cú 17-47 là nói về đại nguyện 10 hồi hướng khắp
cả.
-
- Ghi Chú (25)
- Có hai nghĩa, nghĩa chính là quân đội của ma
vương thật; nghĩa nữa là dục vọng, cũng gọi là quân đội của ma
vương. Chưa kể có nơi từ ngữ này còn nói đến cơ thể (ngũ ấm) sự
chết và phiền não.
-
- Ghi Chú (26)
- Phẩm này đáng lẽ chấm hết ở đây mới phải.
-
- Ghi Chú (27)
- Đúng chính văn là Vô cấu phổ hiền đại sĩ.
-
- Ghi Chú (28)
- Đoạn này là lời kết của bộ kinh Hoa nghiêm.
http://buddhismtoday.com/viet/kinh/dt/002-phohien.htm
-oOo-
Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết
Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help
File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ 29-4-2000
|
|