Kinh Thắng Man
HT. Thích Trí Quang dịch
Mục Lục
- A. Tài Liệu
- B. Ba Phần
- C. Mười Lăm Đoạn
- D. Khởi Tín Liên Quan
- E. Liên Quan Pháp Hoa
- F. Phật, Bồ Tát, La Hán
- II. Kinh Thắng Man :
- A. Được Thọ Ký:
- 1. Đức Tính Chân Thật Của
Như Lai
- B. Phát Bồ Đề Tâm:
- 2. Mười Điều Nhận Lãnh
- 3. Ba Điều Đại Nguyện
- 4. Thu Nhận Chánh Pháp
- C. Nhập Như Lai Tạng:
- 5. Xác Quyết Nhất Thừa
- 6. Chân Lý Vô Biên
- 7. Như Lai Tạng
- 8. Pháp Thân
- 9. Chân Thật Bị Aẫn
- 10. Thánh Đế Duy Nhất
- 11. Nương Tựa Duy Nhất
- 12. Thác Loạn, Chắc Thật
- 13. Bản Tánh Thanh Tịnh
|
Ghi Sau
Khi Duyệt Thắng Man
Ở đây nên ghi thêm về 2 điều. Một
là kinh này liên hệ Pháp hoa. Hai là kinh này liên hệ Khởi tín.
Kinh này không công nhận nhị thừa
có niết bàn. Ngay tư tưởng hệ tứ đế, nhị thừa cũng chưa thấu hiểu
tận cùng. Nhưng nhị thừa có khả năng xoay về đại thừa, tin mà nhập
được đại thừa. Phật thì "đồng đẳng với thì gian cuối
cùng", "là thường trú, bất tận", "làm nơi nương tựa
cho cái thế giới không ai che chở". Thu giữ Pháp là sự thu giữ Pháp,
là người thu giữ Pháp, là Phật: đề cao giữ Pháp và thuyết Pháp đến
như vậy. Phật là pháp thân, Pháp chỉ nhất thừa... Ấy thế nhưng chủ
ý kinh này nói về Như lai tạng, chủ ý Pháp hoa nói ai cũng sẽ làm Phật,
điều này nói khác nhau cũng đúng, nói hỗ trợ cho nhau càng cũng đúng.
Đến như Khởi tín thì có thể
nói luận ấy là hệ thống hóa toàn bộ chủ ý và chi tiết của kinh này.
Thậm chí văn tự và văn khí cũng không ít chỗ luận ấy sử dụng của
kinh này. Dẫu vậy, 2 bên vẫn còn là bổ túc cho nhau. Đọc bên kia sẽ dễ
dàng hiểu được bên này hơn lên.
Chủ ý lời ghi này là như vậy.
- Mười bốn tháng 5, 2537.
- Trí Quang
Tài Liệu [^]
Kinh này có 2 bản dịch. Bản thông
hành và chú giải nhiều nhất, vì là bản dịch trước và cũng là bản dịch
sáng sủa, là của ngài Cầu na bạt đà la (dịch quãng 435-443), đề Thắng
man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinh, mang số
353 của Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu (Chính 12/217-223). Bản này
tôi gọi tắt là bản Cầu na.
Vì kinh này là 1 hội của kinh Đại
bảo tích (số 310 của Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu), hội 48,
mang tên Thắng man phu nhân hội, dịch giả là ngài Bồ đề lưu chi, dịch
quãng 508-535. Tôi gọi tắt là bản Lưu chi (Chính 11/672-678). Đại bảo tích
là tòng thư, gồm có nhiều kinh. Một số trong đó đã có những bản dịch
cũ mà ngài Lưu chi thấy thích đáng thì lấy. Bản nào cần dịch lại mới
dịch. Thắng man là bản dịch lại. Đối chiếu 2 bản thì thấy dịch lại
cũng phải, mặc dầu bản Cầu na cũng là xứng đáng.
Tôi lấy bản Lưu chi trong Đại bảo
tích làm chính văn, và đối chiếu rất nhiều với bản Cầu na. Về chú
thích thì tôi tham khảo 2 bản của các ngài Cát tạng và Khuy cơ, mặc dầu
cả 2 bản đều chú thích bản Cầu na. Nhưng húy krong sự phiên dịch
là không có một vài bản in khác nữa để đối chiếu. Tôi bị điều này
trong lúc dịch bản Lưu chi. Có vài chỗ in sai quá rõ thì chữa được,
nhưng có mấy chỗ hết sức đáng ngờ mà không biết làm sao. Nhất là chỗ
ghi chú số 24 .
Ba Phần
Bản dịch Lưu chi vốn không chia
đoạn lạc gì cả. Trái lại, bản Cầu na chia 15 đoạn, y theo lời kết thúc
kinh này. Tất cả 15 đoạn này tôi đưa vào bản dịch của tôi với sự mở
đóng vòng đơn. Tôi sẽ tóm tắt 15 đoạn ấy sau đoạn này. Ở đây hãy
nói nên chia nội dung kinh này ra 3 phần lớn: 1 được thọ ký, 2 phát bồ
đề tâm, 3 nhập Như lai tạng.
Phần được thọ ký thì nói Thắng
man được thọ ký làm Phật. Phần này chỉ có 1 đoạn trong 15 đoạn, nguyên
đề là đức tính chân thật của Như lai. Thắng man là một hoàng hậu
quá lợi căn. Nên mới thấy Phật là được Ngài thọ ký liền. Hai phần
sau sẽ cho thấy sự thọ ký ấy rất xứng đáng. Sự thọ ký của Phật,
ở đây, còn cho thấy phụ nữ cũng có người là bồ tát, mà là bồ tát
cao. Hoặc không muốn nói thế thì nói sự thọ ký của Phật, ở đây, cho
thấy phụ nữ cũng có thể làm Phật.
Có một điều nên ghi chú ở đây,
là mới gặp Phật mà sao Thắng man được thọ ký liền, rồi lại nói như
một vị đại bồ tát vậy. Trường hợp này có thể so sánh với trường
hợp ngài A nan trong Pháp hoa: được Phật thọ ký rồi tức khắc nhớ được
kho tàng chánh pháp của vô lượng ngàn vạn ức chư Phật quá khứ, thông
suốt vô ngại, như thể hiện tại mới nghe, lại nhớ được cả bản
nguyện của mình.
Phần phát bồ đề tâm thì chữ
phát ở đây có nghĩa phát giác, phát ra và phát huy. Phát giác là phát
giác bản tánh của mình chính là tuệ giác của Phật. Phát ra là lập chí
nguyện thực hiện tuệ giác ấy. Phát huy là phát triển và thực hiện tuệ
giác ấy. Phần này có 2 - 3 đoạn nhỏ, nói về 10 nguyện (mà có chú giải
nói là thọ giới), về 3 đại nguyện và về sự thu nhận chánh pháp.
Trong đây, sự thu nhận chánh pháp là quan trọng nhất. Thu nhận có nghĩa
thu nhận mà giữ gìn. Nhận giữ chánh pháp là căn bản tối quan trọng của
sự phát bồ đề tâm.
Phần nhập Như lai tạng, Như lai tạng
là bào thai Như lai, tức chính chúng ta đây. Lăng nghiêm có cái ví dụ
cánh tay chỉ xuống chỉ lên. Cánh tay lúc nào cũng có tất cả năng tính
quí báu và vô tận. Khi cánh tay ấy chỉ xuống thì mọi năng tính ấy làm
cái việc chỉ xuống, nhưng khi cánh tay ấy chỉ lên thì mọi năng tính ấy
làm cái việc chỉ lên. Vấn đề chỉ là đổi cách chỉ. Ta đây cũng vậy,
mọi cái gì đang là chúng sinh đây thì mọi cái đó sẽ là đức Phật. Thế
nên ta đây chính là bào thai của một đức Như lai. Rồi tùy giai đoạn và
vị trí mà Như lai tạng ấy gọi là nhất thừa, là niết bàn, là pháp
thân, là bản tánh thanh tịnh... Tức 5-14 đoạn còn lại của 15 đoạn nhỏ.
Và Như lai tạng đúng là vấn đề trọng tâm của kinh Thắng man.
Được thọ ký rồi phát bồ đề
tâm, nhập Như lai tạng, thứ tự này cũng có thể đặt ngược lại: nhập
Như lai nên phát bồ đề tâm, và nhờ vậy mà được thọ ký.
Mười Lăm Đoạn
Bây giờ nên tóm tắt ý chính của
15 đoạn nhỏ kinh này.
Đoạn 1, đức tính chân thật của
Như lai, chính văn lời kết cũng là như vậy, nói về sự ứng hiện thọ
ký của Phật cho Thắng man phu nhân, cũng nói về đức tính của Phật mà
bà này ca tụng.
Đoạn 2, mười điều nhận lãnh,
chính văn lời kết là 10 điều thệ nguyện bất khả tư nghị. Mười điều
này có nhà chú thích cho là sự thọ giới.
Đoạn 3, ba điều đại nguyện, chính
văn lời kết là 1 đại nguyện thống nhiếp mọi thệ nguyện. Trong 3 đại
nguyện này quan trọng là điều cuối "vì thu nhận giữ gìn chánh pháp
mà nguyện không tiếc thân mạng".
Đoạn 4, thu nhận chánh pháp, chính
văn lời kết nói sự thu nhận chánh pháp là bất khả tư nghị. Sự này
thật ra là quảng diễn đại nguyện thứ 3 nói trên.
Đoạn 5, xác quyết nhất thừa,
chính văn lời kết là hội nhập nhất thừa. Đoạn này như Pháp hoa, hội
qui nhị thừa và tam thừa về nhất thừa, nói ai cũng sẽ thành vô thượng
giác.
Đoạn 6, chân lý vô biên, chính văn
lời kết là thánh đế vô biên. Nói tứ đế của tiểu thừa chưa phải tứ
đế hoàn toàn, tiểu thừa cũng chưa chứng hoàn toàn tứ đế.
Đoạn 7, Như lai tạng, chính văn lời
kết cũng là như vậy. Nói Như lai tạng chính là thánh đế vô biên.
Đoạn 8, pháp thân, chính văn lời
kết nói pháp thân của Như lai. Nói Như lai tạng đã ra khỏi phiền não,
"tuệ giác giải thoát và những pháp bất khả tư nghị nhiều hơn hằng
sa, nên gọi là pháp thân".
Đoạn 9, Chân thật bị ẩn, chính
văn lời kết là bản tánh siêu việt và chân thật bị ẩn khuất. Bản
tánh siêu việt là dịch chữ không tánh: bản tánh mà ngôn ngữ đạo đoạn,
tâm hành xứ diệt. Đoạn này nói Như lai tạng có như thật không và như
thật hữu: không là tách rời phiền não, hữu là đủ pháp bất khả tư
nghị.
Đoạn 10, thánh đế duy nhất, chính
văn lời kết là ý nghĩa thánh đế duy nhất. Tức là nói thánh đế khổ
diệt. Khổ diệt là niết bàn.
Đoạn 11, nương tựa duy nhất, chính
văn lời kết là sự nương tựa duy nhất, thường trú, bất động và vắng
lặng. Tức là nói về thánh đế khổ diệt.
Đoạn 12, thác loạn, chắc thật,
chính văn lời kết cũng nói như vậy. Tức nói phàm phu thì kiến thức nhị
biên, nhị thừa thì tuệ giác chưa toàn. Cũng nói thánh đế khổ diệt là
thường lạc ngã tịnh. Trong đoạn này có pháp số 4 nhập lưu, tôi tra
không ra.
Đoạn 13, bản tánh thanh tịnh,
chính văn lời kết nói là cái tâm bản tánh thanh tịnh mà bị phiền não
che khuất. Cũng là nói về Như lai tạng, căn bản của sống chết, của tất
cả.
Đoạn 14, con thật của Phật, chính
văn lời kết nói là con thật của Như lai. Tức Phật tử thứ thật, tin cái
tâm bản tánh thanh tịnh (tức Như lai tạng).
Đoạn 15, Thắng man phu nhân, chính
văn lời kết nói là sự nói như sư tử gầm, của Thắng man phu nhân. Quan
trọng là bà hoàng này đã nói không dưới 2 lần về nghịch hành pháp
môn, ở đoạn 2 và đoạn này. Chữ phương tiện trong đề kinh bản Cầu
na là nghịch hành pháp môn ở đây.
Khởi Tín Liên Quan
Khởi tín luận, ngoài sự liên quan
rõ và sâu với Lăng dà, còn có sự liên quan với Thắng man rõ và sâu hơn
nữa. Ở đây sẽ không nói về Như lai tạng, về 2 mặt như thật không
và như thật hữu, về chân như huân tập và duyên khởi... Mà chỉ nói 1
chi tiết nhỏ cũng đủ. Khởi tín luận nói, tịnh pháp được huân tập
liên tục như thế nào? Vì có chân như nên huân tập bất giác, do sức mạnh
của sự huân tập này mà làm cho vọng tâm chán cái khổ sinh tử và cầu
cái vui niết bàn... Ở đây vọng tâm huân tập là một, ý thức huân tập,
làm cho người thường và nhị thừa chán cái khổ sinh tử, tùy năng lực
mà tiệm tiến về tuệ giác vô thượng; và hai, ý huân tập, làm cho các vị
bồ tát nổi lên cái tâm chí dũng mãnh, mãnh tiến đến niết bàn vô thượng.
Kinh này nói vô minh trú địa cũng vậy, chính nó làm duyên tố mà nghiệp
nhân vô lậu tạo ra ý sinh thân của la hán duyên giác và bồ tát đại lực.
Liên Quan Pháp Hoa
Sở trường của Pháp hoa là hội
tam qui nhất, hội qui tiểu thừa về đại thừa, thọ ký cho thành Phật cả.
Sự hội qui này Thắng man nói thật tắt và thật rõ.
Điều quan trọng là cách nói của
Thắng man. Thắng man căn cứ ngay nơi tứ đế của tiểu thừa mà chỉ cho
họ thấy tiểu thừa chưa toàn như Phật về tứ đế, nhất là thánh đế
khổ diệt (Niết bàn). Chính ở đây mà thấy Phật không phải là La hán.
Phật là bất diệt.
Phật, Bồ Tát, La Hán
Tiểu thừa quan niệm Phật cũng chỉ
là 1 vị La hán. Thế rồi hỏi những phẩm chất 10 lực, 4 vô úy, v/v, của
Phật thì La hán có không, tiểu thừa bèn trả lời Phật là 1 vị La hán
đặc biệt!
Tiểu thừa nói về Bồ tát thì có
2 loại. Một, Bồ tát là tối hậu thân của Phật mà trước khi thành Phật.
Hai, Bồ tát như trên tu bách phước trang nghiêm, trải qua 100 kiếp, về 32
tướng đại trượng phu. Nghĩa là nếu hỏi ai cũng có thể là Bồ tát
không, thì tiểu thừa cũng chỉ trả lời có vị đặc biệt mà thôi.
Tiểu thừa nói về La hán thì đơn
giản lắm: dứt kiến hoặc là sơ quả, dứt kiến hoặc và tu hoặc là La
hán. Hoặc ở đây là 5 lợi sử và 5 độn sử, hiện quán tứ đế mà diệt
trừ. Rồi La hán là ta sinh đã hết, phạn hạnh đã lập, việc làm đã
xong và không còn đời sau (nghĩa là biết khổ, đoạn tập, chứng diệt và
tu đạo). Thắng man cực lực cho thấy ngay 4 sự ấy tiểu thừa chưa trọn,
nhất là thánh đế khổ diệt. Thắng man nói tiểu thừa sẽ hướng về đại
thừa -- về tuệ giác của Phật cả.
Nhân tiện cũng nói tiểu thừa
không công nhận nhiều Phật và nhiều thế giới. Thiên văn học và không
gian học ngày nay cho biết dứt khoát vũ trụ không phải chỉ có địa cầu
này mới có sự sống. Vấn đề là phải tìm sự sống còn ở đâu nữa.
Ấy vậy, những vị tự gọi mình là nguyên thỉ, dầu sự thật không
nguyên thỉ gì bao nhiêu, hãy trầm tĩnh mà cứu xét vần đề, đúng hơn là
thái độ không thích hợp.
22.10.2535
1. Đức Tính
Chân Thật Của Như Lai (1) [^]
Tôi nghe như vầy. Một thời đức
Thế tôn ở nước Xá vệ, trong khu lâm viên Chiến thắng Thiện thí. Bấy
giờ hoàng đế Ba tư nặc và hoàng hậu Mạt lới chứng về Pháp và
bàn với nhau. Rằng con gái ta là Thắng man (2) , hiền lành, thông minh, học
rộng, nhiều trí. Nếu con gái ta được thấy đức Thế tôn thì sẽ hiểu
biết mau chóng mà không hoài nghi gì cả về Pháp cực kỳ sâu xa. Ta nên
phái một người khéo khuyến dụ đến phát khởi sự chân thành tin tưởng
cho con ta. Bàn như vậy nên hoàng đế với hoàng hậu viết thư ca tụng đức
tính chân thật của đức Thế tôn. Rồi phái một sứ giả tên Chân đề
la (3) kính cẩn mang thư ấy đến quốc đô Vô đấu (4) , dâng cho hoàng hậu
Thắng man. Hoàng hậu mở đọc thì kính theo, vui mừng, lòng thấy hiếm
có, và nói với Chân đề la những lời chỉnh cú sau đây.
- Ta nghe cái tiếng
- Như lai thế tôn,
- lại nghe nói rằng
- Ngài rất khó gặp.
- Những lời trên đây
- nếu thật như vậy
- thì ta sẽ thưởng
- y áo cho người.
- Và nếu chính xác
- đức Phật thế tôn
- vì lợi thế giới
- mà Ngài xuất hiện,
- thì tất thương ta
- cho ta thấy Ngài.
Mới nghĩ và nói như vậy thì tức
khắc đức Thế tôn đã ở trong không gian. Ngài biểu hiện cái thân không
thể nghĩ và bàn một cách bình thường, và phóng ra khắp cả ánh sáng rất
lớn. Hoàng hậu Thắng man và thân quyến đều qui tụ lại, chắp tay mà
chiêm ngưỡng và lễ bái, tán dương đức Đại đạo sư như sau (5) .
- Sắc thân tinh tế
- của đức Thế tôn,
- cả thế giới này
- không ai bằng được,
- Ngài đã siêu việt
- so sánh nghĩ bàn,
- thế nên chúng con
- tôn quí kính lạy.
- Sắc thân Thế tôn
- thật vô cùng tận,
- tuệ giác của Ngài
- cũng là như thế,
- Pháp đức Thế tôn
- thường trú bất diệt,
- thế nên chúng con
- tôn quí qui y.
- Ngài khéo thuần hóa
- tội ác của tâm,
- lại còn chế ngự
- nhược điểm của thân (6) ,
- Ngài đến vị trí
- không thể nghĩ bàn,
- thế nên chúng con
- tôn quí kính lạy.
- Thế tôn lý giải
- các pháp sở tri,
- cái thân trí tuệ (7)
- không gì chướng ngại,
- đối với các pháp
- Ngài không quên mất,
- thế nên chúng con
- tôn quí kính lạy.
- Chúng con lạy bậc
- Vượt quá cân lường,
- chúng con lạy bậc
- Không gì sánh bằng,
- chúng con lạy bậc
- Tự tại với pháp,
- chúng con lạy bậc
- Siêu việt tư duy.
- Xin Ngài thương xót
- che chở chúng con,
- làm cho chúng con
- tăng trưởng giống Pháp.
- Con nguyện từ nay
- đến thân cuối cùng,
- hường xuyên đối diện
- trước đức Thế tôn.
- Con tu phước đức
- đời này đời khác,
- nguyện nhờ sức mạnh
- phước đức như vậy,
- con được Thế tôn
- thường xuyên thu nhận.
Hoàng hậu Thắng man nói những lời
chỉnh cú ấy rồi, cùng thân quyến và mọi người đem đỉnh đầu của mình
lạy dưới chân đức Thế tôn. Và lúc bấy giờ Ngài đã nói những lời
sau đây cho hoàng hậu.
- Như lai quá khứ
- đã vì tuệ giác
- mà từng khai thị
- chỉ dạy hoàng hậu.
- Ngày nay hoàng hậu
- lại gặp Như lai,
- rồi suốt vị lai
- cũng gặp như vậy.
Nói những lời ấy rồi, tức thì
ở giữa đại hội, đức Thế tôn đã thọ ký vô thượng bồ đề cho hoàng
hậu Thắng man. Rằng hôm nay hoàng hậu đã ca tụng đức tính siêu việt của
Như lai. Do thiện căn này, trải qua vô số kiếp, ở trong chư thiên và
nhân loại, hoàng hậu sẽ làm đế vương tự tại. Mọi sự hưởng dụng
đều đủ tất cả. Và sinh ra ở đâu cũng được gặp Như lai, đối diện
ca tụng không khác gì hôm nay. Hoàng hậu lại hiến cúng vô lượng Thế tôn,
qua hai mươi ngàn vô số kiếp, sẽ được trở thành đức Phật, với danh
hiệu Phổ quang, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc
Biết đúng và khắp. Thế giới của đức Phổ quang không có các nẻo đường
dữ, không có suy già bịnh khổ, không có những cái tên của ác nghiệp.
Người của thế giới ấy thân hình đẹp đẽ, hưởng đủ 5 thứ vui đẹp
tinh tế, thuần túy thích thú, hơn cả chư thiên Tha hóa tự tại. Người của
thế giới ấy lại toàn là đi mau đến đại thừa. Những ai tu học đại
thừa như vậy thì sinh đến thế giới ấy.
Khi hoàng hậu Thắng man được đức
Thế tôn thọ ký như vậy thì vô số chư thiên và nhân loại trong lòng phấn
chấn, cùng nguyện vãng sinh thế giới của đức Phổ quang. Đức Thế tôn
thọ ký cho họ được vãng sinh cả.
2. Mười Điều
Nhận Lãnh (8) [^]
Lúc bấy giờ hoàng hậu Thắng man
nghe đức Thế tôn thọ ký cho rồi, thì tức khắc chắp tay đứng trước
Ngài mà phát 10 lời thề rộng lớn, bằng cách tác bạch như vầy.
(Thứ 1) bạch đức Thế tôn, từ
nay cho đến ngày toàn giác, con không nổi lên tư tưởng vi phạm đối với
giới pháp đã thọ.
(Thứ 2) bạch đức Thế tôn, từ
nay cho đến ngày toàn giác, con không nổi lên tư tưởng khinh thường đối
với các bậc sư trưởng.
(Thứ 3) bạch đức Thế tôn, từ
nay cho đến ngày toàn giác, con không nổi lên tư tưởng giận dữ đối với
mọi người.
(Thứ 4) bạch đức Thế tôn, từ
nay cho đến ngày toàn giác, con không nổi lên tư tưởng ganh ghét đối với
những người và những việc hơn mình.
(Thứ 5) bạch đức Thế tôn, từ
nay cho đến ngày toàn giác, con không nổi lên tư tưởng keo lẫn dầu lúc
chỉ có một ít thực phẩm.
(Thứ 6) bạch đức Thế tôn, từ
nay cho đến ngày toàn giác, con không vì bản thân mà nhận lãnh và cất chứa
của cải; con có nhận lãnh gì cũng chỉ vì giúp đỡ những người nghèo
khổ.
(Thứ 7) bạch đức Thế tôn, từ
nay cho đến ngày toàn giác, con không mong trả ơn mà thực thi 4 nhiếp
pháp; con thu nhận mọi người một cách không có tâm lý ham lợi, không có
tâm lý chán đủ, không có tâm lý hạn chế.
(Thứ 8) bạch đức Thế tôn, từ
nay cho đến ngày toàn giác, con thấy những ai không nơi nương tựa, bị
giam cầm, bịnh tật, và bao nhiêu nguy khốn, thì không bao giờ con bỏ họ,
nguyện đem lại yên ổn cho họ, lợi ích cho họ khỏi mọi khốn đốn.
(Thứ 9) bạch đức Thế tôn, từ
nay cho đến ngày toàn giác, con thấy những ai thề làm ác giới, phá hủy
tịnh giới của đức Thế tôn, thì, trong thành thị và thôn xóm thuộc
trách nhiệm của con, đáng chế ngự thì con chế ngự, đáng thu phục thì
con thu phục. Tại sao, vì chế ngự và thu phục thì chánh pháp tồn tại
lâu dài, chánh pháp tồn tại lâu dài thì chư thiên nhân loại tăng lên mà
các nẻo đường ác giảm xuống. Có nghĩa con làm cho bánh xe chánh pháp của
đức Thế tôn luôn luôn chuyển tới phía trước.
(Thứ 10) bạch đức Thế tôn, từ
nay cho đến ngày toàn giác, con nhận lãnh chánh pháp mà không bao giờ quên
mất, tại sao, vì quên mất chánh pháp là quên mất đại thừa, quên mất
đại thừa là quên mất các pháp ba la mật, mà quên mất các pháp ba la mật
thì thế là bỏ mất đại thừa. Nếu bồ tát không quyết định về đại
thừa thì nhận lãnh chánh pháp không có bền chắc, và như thế thì không
đủ khả năng vượt ra ngoài lĩnh vực phàm phu, mất mát thật là lớn
lao.
Bạch đức Thế tôn, hiện tại và
vị lai có những vị bồ tát nhận lãnh chánh pháp, đầy đủ lắm sự
ích lợi rộng lớn, phát nguyện rộng lớn như trên, và được đức Thế
tôn, chúa tể của thánh hiền, chứng biết cho. Nhưng người thiện căn kém
cỏi, có thể có kẻ hoài nghi -- Vì 10 nguyện rộng lớn khó mà thành đạt,
nên có thể có kẻ (đã phát 10 nguyện ấy rồi mà) quay lại với những
thói bất thiện, lãnh lấy khổ não. Vì lợi ích cho những người như vậy
mà hôm nay, đối trước đức Thế tôn, con xin phát nguyện chân thành. Rằng
bạch đức Thế tôn, ngày nay con phát 10 nguyện rộng lớn như thế này, nếu
chắc thật, không hư ngụy, thì ngay bây giờ con cầu nguyện trên đại hội
này sẽ mưa xuống bông hoa của chư thiên, tấu lên âm nhạc của chư thiên.
Hoàng hậu Thắng man đối trước đức Thế tôn tác bạch như vậy thì
trong không gian tức thì mưa thiên hoa, tấu thiên nhạc, tán dương như vầy:
Tốt lắm, hoàng hậu Thắng man, đúng như hoàng hậu đã nói, chắc thật
chứ không thể khác được. Bấy giờ đại hội nhìn thấy quang cảnh linh
thiêng như vậy thì hết cả hoài nghi, lòng đại hoan hỷ, đồng thanh nói
lớn: Chúng tôi nguyện cùng hoàng hậu Thắng man sinh ra ở đâu cũng đồng
nhất chí nguyện và hoạt động. Đức Thế tôn, vào lúc bấy giờ, thọ
ký cho cả đại hội đều được như ý.
3. Ba Điều Đại
Nguyện [^]
Vào lúc bấy giờ, đối trước đức
Thế tôn, hoàng hậu Thắng man lại lập ra 3 nguyện vĩ đại, và bằng sức
mạnh của 3 nguyện ấy mà lợi ích vô biên cho các loại chúng sinh. Nguyện
thứ nhất là con đem thiện căn của con mà nguyện đời nào cũng được cái
trí về chánh pháp. Nguyện thứ hai là con sinh ra ở đâu cũng được cái
trí về chánh pháp rồi thì con nguyện diễn nói cho chúng sinh một cách
không mỏi mệt. Nguyện thứ ba là con vì thu nhận giữ gìn chánh pháp mà
nguyện không tiếc thân mạng. Nghe 3 lời nguyện như vậy, đức Thế tôn
nói với hoàng hậu Thắng man, rằng như mọi hình sắc đều ở trong không
gian, hằng sa các nguyện của bồ tát đều gồm trong 3 nguyện như vậy. Ba
nguyện như vậy thật là chân thật, vĩ đại.
4. Thu Nhận Chánh
Pháp [^]
Hoàng hậu Thắng man, lúc ấy, lại
thưa, bạch đức Thế tôn, nay con muốn dựa vào sức mạnh uy thần và
hùng biện của đức Thế tôn mà trình bày về 1 (trong 3) đại nguyện (nói
trên). Kính xin đức Thế tôn cho phép. Đức Thế tôn bảo, Thắng man,
hoàng hậu cứ nói theo ý mình. Hoàng hậu Thắng man bạch đức Thế tôn, rằng
hằng sa các nguyện của bồ tát tất cả đều nhập vào một đại nguyện.
Một đại nguyện ấy chính là nguyện thu nhận chánh pháp của đức Thế
tôn. Thu nhận chánh pháp, cái nguyện như vậy vĩ đại thật sự. Đức Thế
tôn dạy, tốt lắm, Thắng man; hoàng hậu từ lâu thật đã tu tập trí tuệ,
và phương cách của trí tuệ, một cách sâu sắc, tinh tế. Ai hiểu được
lời hoàng hậu nói thì người ấy trường kỳ gieo trồng gốc rễ điều
lành (9) . Cái nguyện thu nhận chánh pháp mà hoàng hậu nói, thì chư vị
Như lai quá khứ vị lai và hiện tại đã nói, sẽ nói và đang nói. Như
lai được vô thượng bồ đề, cũng thường nói bằng nhiều dạng thức về
sự thu nhận chánh pháp. Tuệ giác của Như lai không có giới hạn, Như lai
tán dương công đức của sự thu nhận chánh pháp cũng không có giới hạn,
tại sao, vì sự thu nhận chánh pháp thật có công đức vĩ đại, có lợi
ích vĩ đại.
Hoàng hậu Thắng man lại thưa, bạch
đức Thế tôn, con xin dựa vào sức mạnh uy thần của Ngài mà trình bày
thêm nữa về tính cách vĩ đại của sự thu nhận chánh pháp. Đức Thế tôn
bảo, Như lai cho phép hoàng hậu trình bày. Hoàng hậu Thắng man nói, tính
cách vĩ đại của sự thu nhận chánh pháp là thủ đắc tất cả vô lượng
Phật pháp, cho đến thu nhận tám vạn hành uẩn (10) .
(Một), bạch đức Thế tôn, như
khi thành kiếp (11) mở đầu, thì không gian nổi lên những sắc mây và mưa
xuống những châu ngọc, sự thu nhận chánh pháp cũng vậy, nó là đám mây
thiện căn mưa xuống vô lượng phước báo.
(Hai), bạch đức Thế tôn, lại như
thành kiếp mở đầu, nước lớn tạo ra đại thiên thế giới và 400 ức
đại lục, sự thu nhận chánh pháp cũng vậy, xuất sinh vô lượng pháp tạng
đại thừa, cùng với thần lực của bồ tát, các loại pháp môn, sự yên
vui đầy đủ của thế gian và xuất thế, sự chưa từng có của chư thiên
nhân loại.
(Ba), bạch đức Thế tôn, lại như
địa cầu gánh vác được 4 gánh nặng, đó là biển cả, núi non, cây cỏ
và sinh vật, những thiện nam hay thiện nữ thu nhận chánh pháp cũng vậy,
có sức gánh vác 4 trọng trách quá hơn địa cầu, ấy là đem thiện căn
thuộc nhân loại và chư thiên mà thành thục cho những kẻ xa rời bạn tốt,
không có đa văn, sống phi chánh pháp; ai cầu thanh văn thì chỉ dạy pháp
thanh văn; ai cầu duyên giác thì chỉ dạy pháp duyên giác; ai cầu đại thừa
thì chỉ dạy pháp đại thừa. Như thế đó gọi là thiện nam hay thiện nữ
thu nhận chánh pháp có sức gánh vác 4 trọng trách hơn cả địa cầu. Tựa
như địa cầu, những thiện nam hay thiện nữ thu nhận chánh pháp có sức
gánh vác 4 trọng trách ấy, làm người bạn không mời cho cả mọi người,
lòng thương to lớn thương xót và đem lại lợi ích cho mọi người, làm
người mẹ chánh pháp cho đời.
(Bốn), bạch đức Thế tôn, lại
như địa cầu sinh ra 4 loại ngọc: ngọc vô giá, ngọc giá cao, ngọc giá vừa,
ngọc giá thấp, những thiện nam hay thiện nữ thu nhận chánh pháp cũng vậy,
y như địa cầu xây dựng cho người: mọi người gặp họ thì được 4 thứ
ngọc lớn, hơn hết trong mọi thứ ngọc, ấy là mọi người gặp được
người bạn tốt này thì có kẻ thu hoạch thiện căn chư thiên nhân loại,
kẻ có thu hoạch thiện căn của thanh văn, có kẻ thu hoạch thiện căn của
duyên giác, có kẻ thu hoạch thiện căn của đại thừa. Như thế đó gọi
là những thiện nam hay thiện nữ tựa như địa cầu xây dựng cho người,
ai gặp cũng được thu hoạch một trong 4 thứ ngọc lớn.
Bạch đức Thế tôn, sản xuất ngọc
lớn nói trên là do thu nhận chánh pháp một cách chân thật. Bạch đức Thế
tôn, thu nhận chánh pháp là không có chánh pháp nào khác, không có sự thu
nhận chánh pháp nào khác, mà chánh pháp chính là sự thu nhận chánh pháp.
Bởi vì, bạch đức Thế tôn, không có ba la mật nào khác, không có sự
thu nhận chánh pháp nào khác, mà sự thu nhận chánh pháp chính là ba la mật.
Tại sao, vì những thiện nam hay thiện nữ thu nhận chánh pháp đối với
ai đáng đem bố thí mà thành thục thì đem bố thí mà thành thục cho, đến
nổi hy sinh cả thân mạng, tùy thuận ý họ mà thành thục, làm cho họ an
trú trong chánh pháp, như thế đó gọi là bố thí ba la mật; đối với ai
đáng đem trì giới mà thành thục, thì giữ 6 căn, sạch 3 nghiệp, cho đến
hoàn chỉnh uy nghi, tùy thuận ý họ mà thành thục, làm cho họ an trú trong
chánh pháp, như thế gọi là trì giới ba la mật; đối với ai đáng đem nhẫn
nhục mà thành thục, thì dẫu họ chưởi mắng, lăng nhục, phỉ báng, quấy
phá, cũng đem tâm không giận và tâm lợi ích, đem sức mạnh nhẫn nhục tối
thượng, đến nỗi thần sắc cũng không biến đổi, tùy thuận ý họ mà
thành thục, làm cho họ an trú trong chánh pháp, như thế gọi là nhẫn nhục
ba la mật; đối với ai đáng đem tinh tiến mà thành thục, thì không có
tâm biếng nhác, lơ là, mà lại nổi dậy ý muốn mãnh liệt, siêng năng
thượng thặng, bốn cử động đi đứng nằm ngồi đều tùy thuận ý họ
mà thành thục, làm cho họ an trú trong chánh pháp, như thế đó gọi là
tinh tiến ba la mật; đối với ai đáng đem thiền định mà thành thục,
thì đem sự không rối loạn mà thành tựu chánh niệm, không bao giờ quên
mất nhữngviệc đã làm, tùy thuận ý họ mà thành thục, làm cho họ an
trú trong chánh pháp, như thế gọi là thiền định ba la mật; đối với ai
đáng đem trí tuệ mà thành thục, thì họ vì lợi ích mà hỏi pháp nghĩa,
mình phải không mỏi mệt mà giảng giải một cách trọn vẹn về các học
thuyết, các minh xứ, cho đến mọi thứ kyՠthuật, tùy thuận ý họ mà
thành thục, làm cho họ an trú trong chánh pháp, như thế đó gọi là trí tuệ
ba la mật. Do vậy, bạch đức Thế tôn, không có ba la mật nào khác, không
có sự thu nhận chánh pháp nào khác, mà thu nhận chánh pháp chính là ba la
mật.
Hoàng hậu Thắng man lúc ấy lại
thưa, bạch đức Thế tôn, nay con xin dựa vào uy thần và hùng biện của
Ngài mà nói về sự vĩ đại (của sự thu nhận chánh pháp). Đức Thế tôn
hỏi, sự vĩ đại ấy như thế nào? Hoàng hậu thưa, bạch đức Thế tôn,
thu nhận chánh pháp không biệt lập với sự thu nhận chánh pháp, không biệt
lập với người thu nhận chánh pháp. Thiện nam hay thiện nữ thu nhận
chánh pháp thì chính họ là sự thu nhận chánh pháp. Tại sao? Vì thiện nam
hay thiện nữ thu nhận chánh pháp thì họ vì chánh pháp mà hy sinh thân thể
tính mạng và tài sản. Vì họ hy sinh thân thể nên đạt đến cái thì
gian cuối cùng của sự sống chết, tách xa già bịnh, được pháp thân của
đức Thế tôn, cái thân thường còn không hư hỏng, không biến đổi, tuyệt
đối vắng lặng, không thể nghĩ bàn. Vì họ hy sinh tính mạng nên đạt
đến cái thì gian cuối cùng của sự sống chết, tách hẳn sự chết, được
sự thường còn không giới hạn, thành tựu mọi phẩm chất không thể nghĩ
bàn, an trú nơi thần lực của hết thảy Phật pháp. Vì họ hy sinh tài sản
nên đạt đến cái thì gian cuối cùng của sự sống chết, siêu việt
chúng sinh, quả báo viên mãn một cách không cùng tận và không giảm bớt,
công đức trang nghiêm một cách không thể tư duy mà mô tả, được chúng
sinh tôn trọng hiến cúng. Bạch đức Thế tôn, thiện nam hay thiện nữ hy
sinh thân thể tính mạng và tài sản mà thu nhận chánh pháp thì được
chư vị Thế tôn thọ ký. Bạch đức Thế tôn, khi chánh pháp sắp mất,
có những tỷ kheo tỷ kheo ni ưu bà tắc ưu bà di kết phe kết nhóm với
nhau, nổi lên mọi sự tranh chấp, khi đó nếu thiện nam hay thiện nữ nào
đem cái tâm không dua nịnh, quanh co, không lừa đảo, dối trá, ưa thích
chánh pháp, thu nhận chánh pháp, thì họ nhập vào trong nhóm thiện hữu
(12) . Nhập vào nhóm thiện hữu thì chắc chắn được chư vị Thế tôn thọ
ký. Bạch đức Thế tôn, con thấy sự thu nhận chánh pháp có sức mạnh vĩ
đại đến như thế đó. Chính đức Thế tôn (cũng lấy sức mạnh vĩ đại
của sự thu nhận chánh pháp) mà làm con mắt, làm căn bản của Pháp, làm
sự lãnh đạo Pháp, làm sự thông suốt Pháp.
Bấy giờ, khi nghe hoàng hậu Thắng
man nói về uy lực vĩ đại của sự thu nhận chánh pháp, thì đức Thế tôn
tán dương như vầy: Đúng như vậy, đúng như vậy, tốt lắm, Thắng man,
đúng như hoàng hậu đã nói về uy lực vĩ đại của sự thu nhận chánh
pháp. Một đại lực sĩ mà chạm nhẹ vào tử huyệt (13) , người ta cũng
đau đớn, bịnh nặng thêm lên: cũng y như vậy, Thắng man, chút ít sự thu
nhận chánh pháp cũng làm cho ma vương đau khổ, buồn rầu, kêu gào, than thở.
Thắng man, Như lai không thấy một thiện pháp nào làm cho ma vương buồn rầu
bằng một chút của sự thu nhận chánh pháp. Thắng man, con bò chúa hình đẹp,
thân lớn, thì làm mờ cả đàn bò; cũng y như vậy, Thắng man, người tu
đại thừa thì giả sử mới có chút ít sự thu nhận chánh pháp cũng có
khả năng làm khuất mờ tất cả thiện pháp của thanh văn duyên giác. Thắng
man, núi chúa Tu di cao lớn tráng lệ, làm mờ tất cả núi non; cũng y như vậy,
Thắng man, người mới tới đại thừa, vì lợi ích cao cả mà không kể
thân mạng, thu nhận chánh pháp, như thế cũng đã hơn tất cả thiện căn
của những người ở lâu trong đại thừa mà đoái hoài thân mạng. Thế
nên, Thắng man, hãy đem sự thu nhận chánh pháp mà khai thị hoán cải mọi
người. Như vậy, Thắng man, sự thu nhận chánh pháp có phước lợi vĩ đại,
có quả báo vĩ đại. Thắng man, chính Như lai tán dương công đức của sự
thu nhâển chánh pháp đến vô số kiếp cũng không thể cùng tận giới hạn,
cho nên sự thu nhận chánh pháp thành tựu vô số công đức (như trên đã
nói).
5. Xác Quyết Nhất
Thừa [^]
Đức Thế tôn dạy Thắng man,
hoàng hậu nay hãy nói thêm nữa về sự thu nhận chánh pháp mà Như lai đã
nói toàn thể chư vị Như lai đều ưa thích. Thắng man thưa, bạch đức Thế
tôn, thu nhận chánh pháp thì gọi là đại thừa. Tại sao, vì đại thừa
thì xuất ra tất cả thiện pháp của thế gian và xuất thế, của thanh văn
và duyên giác. Bạch đức Thế tôn, như hồ A nậu là nơi phát nguyên của
8 con sông lớn, đại thừa là nơi phát nguyên tất cả thiện pháp của thế
gian và xuất thế, của thanh văn và duyên giác. Bạch đức Thế tôn, mọi
hạt giống, mọi cây cỏ rừng rú đều do địa cầu mà sinh ra và lớn
lên, cũng y như vậy, mọi thiện pháp của thế gian và xuất thế, của
thanh văn và duyên giác đều do đại thừa mà sinh ra và lớn lên. Thế
nên, bạch đức Thế tôn, trú ở đại thừa, thu nhận đại thừa, thì như
thế là trú ở và thu nhận mọi thiện pháp của thế gian và xuất thế, của
thanh văn và duyên giác.
Bạch đức Thế tôn, như Ngài dạy
về 6 điều, đó là chánh pháp còn, chánh pháp mất, biệt giải thoát, tỳ
nại da, chính xuất gia, thọ cụ túc. Ấy là đức Thế tôn vì đại thừa
mà nói 6 điều như vậy. Làm sao biết được? Vì chánh pháp còn thì chánh
pháp ấy là đại thừa: đại thừa còn là chánh pháp còn. Chánh pháp mất
thì chánh pháp ấy là đại thừa: đại thừa mất là chánh pháp mất. Biệt
giải thoát với tỳ nại da, 2 điều này nghĩa một mà tên khác. Tỳ nại
da (hay biệt giải thoát) là giới học đại thừa, tại sao, vì nương tựa
(14) đức Thế tôn mới chính xuất gia và thọ cụ túc. Do vậy, giới học
đại thừa là tỳ nại da (hay biệt giải thoát), là chính xuất gia, là thọ
cụ túc.
Bạch đức Thế tôn, la hán không
có chính xuất gia và thọ cụ túc, vì sao, vì la hán không nương tựa đức
Thế tôn thì (không có) chính xuất gia và thọ cụ túc (15) . La hán còn có
tư tưởng sợ hãi nên qui y đức Thế tôn. La hán đối với các hành vẫn
có tư tưởng sợ hãi, tình trạng như một kẻ cầm kiếm muốn tự hại mình,
do vậy, la hán không chứng được sự xuất ly và sự an lạc tuyệt đối.
Bạch đức Thế tôn, nương tựa là nương tựa với bậc không cầu sự nương
tựa nữa. Mọi sinh vật không có nơi nương tựa, nên sinh vật nào cũng sợ
hãi, và muốn yên ổn nên sinh vật nào cũng tìm nơi nương tựa. La hán cũng
vậy, vì có tư tưởng sợ hãi nên qui y đức Thế tôn. Thế nên la hán và
duyên giác sinh pháp đang còn, phạn hạnh chưa lập, việc làm chưa xong, còn
có đoạn trừ, chưa được cứu cánh, cách xa niết bàn. Tại sao, vì chỉ
có đức Thế tôn, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc
Biết đúng và khắp, mới chứng niết bàn, thành tựu vô lượng công đức
ngoài tầm tư duy và thảo luận, cái gì đáng đoạn trừ thì đã đoạn trừ
cả rồi, đã thanh tịnh tuyệt đối, làm một bậc cho chúng sinh chiêm ngưỡng,
siêu việt lĩnh vực nhị thừa và bồ tát. La hán đâu có được như vậy.
La hán được niết bàn, đó chỉ là lời nói phương tiện của đức Thế
tôn. Thế nên la hán cách xa niết bàn. Bạch đức Thế tôn, ngài nói la
hán duyên giác quán sát giải thoát bằng 4 tuệ giác (16) cứu cánh, được
chỗ yên nghỉ; nói như thế toàn là đức Thế tôn nói theo ý người khác,
nói không trọn nghĩa. Tại sao con biết như vậy? Vì chết có 2 loại, một
là từng đời, hai là thay đổi. Chết từng đời là chúng sinh (chết đời
này rồi chết đời khác) một cách liên tục. Chết thay đổi là ý sinh
thân của la hán, duyên giác và bồ tát tự tại (17) , cho đến khi thành tựu
vô thượng bồ đề, (chỉ thay đổi cấp độ mà thôi). Trong 2 loại chết
đó, lấy loại chết từng đời mà nói la hán và duyên giác sinh ra cái tuệ
giác ta sinh đã hết; do chứng được niết bàn chưa toàn (18) nên sinh ra
cái tuệ giác phạn hạnh đã lập; phàm phu không làm được, 7 bậc đang còn
tu học (19) chưa làm xong, các phiền não liên tục đã đoạn trừ trọn vẹn,
nên sinh ra cái tuệ giác việc làm đã xong. Còn nói sinh ra cái tuệ giác
không còn đời sau, thì la hán duyên giác không thể đoạn trừ tất cả
phiền não, nên không trọn vẹn cái tuệ giác không còn mọi sự thọ sinh.
Tại sao như vậy? Vì la hán và
duyên giác còn thừa phiền não mà không phải đoạn trừ đã hết, do vậy,
các vị ấy không thể trọn vẹn không còn mọi sự thọ sinh. Phiền não
có 2 loại, một là phiền não trú địa, hai là phiền não phát sinh. Phiền
não trú địa có 4, là kiến của 3 cõi, ái của cõi Dục, ái của cõi Sắc,
ái của cõi Vô sắc; 4 phiền não này tạo ra mọi phiền não. Còn phiền
não phát sinh (thì có 2 loại). Có loại tương ứng với tâm trong từng sát
na (thì gọi là phiền não trú địa); còn loại vô minh trú địa thì vô thỉ
đến giờ không tương ứng với tâm (20) . Bạch đức Thế tôn, 4 phiền
não trú địa tuy tạo ra phiền não, nhưng so với vô minh trú địa thì
toán học và ví dụ cũng không thể đối tỷ. Vô minh trú địa thế lực
của nó còn hơn cả ái của cõi Vô sắc. Ví như sắc đẹp, sức mạnh và
uy thế của ma vương, và tùy thuộc của nó, làm khuất mờ tất cả chư
thiên Tha hóa tự tại; vô minh trú địa cũng vậy, nó làm khuất mờ tất
cả 4 phiền não trú địa, nó làm chỗ dựa cho phiền não nhiều hơn hằng
sa, và cũng chính nó làm cho 4 phiền não trú địa tồn tại lâu dài. Nó
thì tuệ giác la hán duyên giác không thể đoạn trừ, mà đoạn trừ nó
thì chỉ có tuệ giác của đức Thế tôn. Bạch đức Thế tôn, đúng như
vậy, đúng như vậy, sức mạnh vô minh trú địa rất lớn. Bạch đức Thế
tôn, như do thủ làm duyên tố mà nghiệp nhân hữu lậu tạo ra 3 hữu, vô
minh trú địa cũng vậy, chính nó làm duyên tố mà nghiệp nhân vô lậu tạo
ra ý sinh thân của la hán, duyên giác và bồ tát đại lực (21) . Ý sinh
thân của 3 địa vị này, cùng với nghiệp nhân vô lậu, toàn là do vô
minh trú địa làm căn cứ. Vô minh trú địa vừa có duyên tố, vừa làm
duyên tố. Bạch đức Thế tôn, do vậy, 3 ý sinh thân, cùng với nghiệp
nhân vô lậu, toàn là do vô minh trú địa làm duyên tố, giống như ái của
cõi Vô sắc. Nhưng, bạch đức Thế tôn, ái của cõi Vô sắc không giống
với tác dụng của vô minh trú địa, vô minh trú địa khác với 4 phiền
não trú địa: vì khác với 4 phiền não trú địa nên chỉ có đức Thế tôn
mới đoạn trừ được. La hán duyên giác chỉ đoạn trừ 4 phiền não trú
địa nên lậu tận lực không được tự tại, không thể hiện chứng. Do
vậy, nói (la hán duyên giác) lậu tận (chỉ là) lời nói thêm của đức
Thế tôn. Thế nên la hán duyên giác với bồ tát tối hậu thân toàn bị
vô minh trú địa che khuất, không biết không thấy các pháp, vì không thấy
không biết các pháp nên cái đáng đoạn trừ thì chưa đoạn trừ, cái đáng
chấm hết thì chưa chấm hết: vì chưa đoạn trừ chưa chấm hết các
pháp (đáng đoạn trừ và đáng chấm hết), nên chỉ được sự giải thoát
chưa toàn chứ không phải sự giải thoát hoàn toàn, được sự thanh tịnh
chưa toàn chứ không phải sự thanh tịnh tất cả, được công đức chưa
toàn chứ không phải công đức toàn bộ. Bạch đức Thế tôn, vì được
giải thoát chưa toàn chứ không phải giải thoát hoàn toàn, cho đến được
công đức chưa toàn chứ không phải công đức toàn bộ, nên biết khổ chưa
hết, đoạn tập chưa hết, chứng diệt chưa hết, và tu đạo chưa hết.
Hoàng hậu Thắng man bấy giờ lại
thưa: bạch đức Thế tôn, nếu biết khổ chưa hết, đoạn tập chưa hết,
chứng diệt chưa hết, tu đạo chưa hết, thì như thế dầu hướng về niết
bàn mà chỉ gọi là diệt độ một phần, niết bàn một phần. Nếu biết
khổ hoàn toàn, đoạn tập hoàn toàn, chứng diệt hoàn toàn, tu đạo hoàn
toàn, thì trong cái thế giới vô thường đổ nát, vị này chứng được cái
niết bàn thường còn, vắng lặng và trong mát. Vị này làm người che chở
và làm chỗ nương tựa cho cái thế giới không ai che chở, không nơi
nương tựa. Nhưng thấy các pháp có cao có thấp thì không chứng niết
bàn. Tuệ giác đồng đẳng, giải thoát đồng đẳng, thanh tịnh đồng đẳng,
mới chứng niết bàn. Nên niết bàn là đồng đẳng một mùi vị. Một
mùi vị ấy là mùi vị giải thoát. Nếu vô minh trú địa mà không đoạn
trừ và không chấm hết, thì không được mùi vị đồng nhất và đồng
đẳng của niết bàn. Vì sao, vì vô minh trú địa không đoạn trừ và
không chấm hết, thì mọi tội lỗi nhiều hơn hằng sa đáng đoạn trừ không
đoạn trừ, đáng chấm hết không chấm hết; vì tội lỗi nhiều hằng sa
không đoạn trừ và không chấm hết, nên công đức nhiều hơn hằng sa sẽ
không trọn vẹn, không thực hiện. Dó đó mà biết vô minh trú địa là nơi
phát sinh tất cả phiền não cần phải đoạn trừ: chính từ nó mà phát
sinh phiền não nhiều hơn hằng sa, chướng ngại cho tâm, chướng ngại cho
chỉ, chướng ngại cho quán, chướng ngại cho định, chướng ngại đẳng
trì, chướng ngại da hành, các tuệ giác, các đạo quả, chướng ngại chứng
đắc các lực, vô úy. Phải là tuệ giác bồ đề của đức Thế tôn và
tuệ giác kim cang của đức Thế tôn mới đoạn được loại phiền não
phát sinh này. Loại phiền não phát sinh này nương tựa vô minh trú địa,
do vô minh trú địa làm nhân tố và duyên tố. Loại phiền não phát sinh
này tương ứng với tâm trong từng sát na, nhưng vô minh trú địa thì vô
thỉ đến giờ không tương ứng với tâm. Bạch đức Thế tôn, nhiều hơn
hằng sa, tất cả những gì cần phải đoạn trừ bởi tuệ giác bồ đề
và tuệ giác kim cang, thì toàn là vô minh trú địa làm căn cứ mà cấu
trúc. Tựa như mọi hạt giống và rừng rú đều do địa cầu mà sinh ra
và lớn lên, nếu địa cầu hư hỏng, thì mọi hạt giống và rừng rú cũng
hư hỏng theo, cũng y như thế ấy, những gì nhiều hơn hằng sa cần phải
đoạn trừ bởi tuệ giác bồ đề và tuệ giác kim cang của đức Thế tôn
toàn là do vô minh trú địa mà sinh ra và lớn lên. Nếu vô minh trú địa bị
đoạn trừ, thì những gì nhiều hơn hằng sa cần phải đoạn trừ bởi tuệ
giác bồ đề và tuệ giác kim cang của đức Thế tôn cũng tùy theo mà đoạn
trừ. Như thế đó, những gì nhiều hơn hằng sa cần phải đoạn trừ, tức
tất cả phiền não trú địa và phiền não phát sinh đoạn trừ cả rồi,
thì thực hiện được phẩm chất của đức Thế tôn nhiều hơn hằngsa và
ngoài tầm nghĩ bàn, đối với toàn thể các pháp thì chứng được thần
thông vô ngại, chứng được trí và chứng được kiến, siêu thoát lỗi lầm,
thủ đắc công đức, làm bậc đại pháp vương, tự tại đối với các
pháp, đạt đến vị trí tự tại đối với các pháp, và như sư tử gầm
lên, rằng ta sinh đã hết, phạn hạnh đã lập, việc làm đã xong, không
còn đời sau. Như sư tử gầm lên, đức Thế tôn đã căn cứ vào nghĩa lý
cứu cánh mà ghi nhận và tuyên ngôn quyết định như vậy.
Bạch đức Thế tôn, không còn đời
sau, tuệ giác này có 2 loại. Loại thứ nhất là các đức Thế tôn sử dụng
năng lực thuần hóa mà chiến thắng ma quân, siêu việt thế giới, mọi người
chiêm ngưỡng, chứng đắc pháp thân thanh tịnh và ngoài tầm nghĩ bàn,
được sự tự tại đối với các pháp sở tri, cao hơn tất cả, không ai
trên nữa, không còn làm gì, không thấy có nữa vị trí chứng đắc, hoàn
hảo 10 lực, bước lên vị trí tối thắng vô úy, đối với các pháp thì
quan sát vô ngại, như sư tử gầm lên, tuyên cáo không còn đời sau. Loại
thứ hai là la hán duyên giác vượt được sự sợ hãi của sự sống chết
vô cùng, hưởng thụ cái vui giải thoát, nghĩ rằng nay ta đã hết sợ sống
chết, không chịu khổ não. Bạch đức Thế tôn, la hán và duyên giác quan
sát như vậy, gọi là không còn đời sau, nhưng họ không chứng được niết
bàn là chỗ yên nghỉ bậc nhất. Đối với vị trí chưa chứng được đó,
dầu không gặp giáo pháp (đại thừa) đi nữa, họ cũng tự biết chỉ chứng
được vị trí chưa toàn, và quyết định sẽ chứng được vô thượng bồ
đề. Tại sao như vậy, vì thanh văn và duyên giác toàn là sẽ nhập vào đại
thừa. Mà đại thừa là Phật thừa. Do vậy, 3 thừa là 1 thừa, chứng 1 thừa
là chứng được vô thượng bồ đề. Vô thượng bồ đề là niết bàn.
Niết bàn là pháp thân của đức Thế tôn. Mà pháp thân chính là nhất thừa,
chứ không có Thế tôn nào khác, không có pháp thân nào khác. Thế tôn là
pháp thân, chứng được pháp thân cứu cánh chính là nhất thừa cứu
cánh. Nhất thừa cứu cánh thì (thường trú), siêu việt sự liên tục. Tại
sao như vậy, bởi vì Thế tôn tồn tại không có giới hạn, đồng đẳng
với thì gian cuối cùng. Thế tôn đem đại bi vô giới hạn và đem đại
nguyện vô giới hạn mà lợi ích cho thế giới: nói như vậy là nói đúng.
Nếu nói Thế tôn là thường trú, là bất tận, là bậc mà thế giới nương
tựa được tuyệt đối: nói như vậy cũng là nói đúng. Ấy vậy, bậc
mà cùng tận thì gian vị lai làm nơi nương tựa vô tận, thường trú và cứu
cánh cho cái thế giới không ai che chở, không nơi nương tựa, bậc ấy là
Phật, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng
và khắp. Còn Pháp là giáo pháp nhất thừa, Tăng là tăng chúng tam thừa, 2
nơi qui y này không phải qui y cứu cánh, mà chỉ gọi là qui y phần ít. Tại
sao, vì (nếu đã nói là) giáo pháp nhất thừa, chứng pháp thân cứu cánh,
(thì đáng lẽ) sau đó không còn nói giáo pháp nhất thừa nữa; còn chúng
tăng tam thừa thì vì sợ hãi (sinh tử) nên qui y đức Thế tôn, cầu xuất
ly, cầu tu học, còn có việc làm, còn phải hướng về vô thượng bồ đề.
Nên 2 nơi qui y trên đây không phải qui y cứu cánh, mà là qui y có giới hạn.
Nếu chúng sinh được Thế tôn thuần hóa, qui y Thế tôn, được Pháp thấm
nhuần, do tâm ưa thích mà qui y Pháp và Tăng tỷ kheo, thì 2 nơi qui y này
là do Pháp thấm nhuần và tin tưởng mà qui y, còn qui y Thế tôn thì không
phải do Pháp thấm nhuần và tin tưởng mà qui y. Qui y Thế tôn là qui y một
cách chân thật; 2 sự qui y Pháp và Tăng (dựa vào) sự chân thật ấy mà gọi
(chung) là cứu cánh qui y Thế tôn. Tại sao, bởi vì Thế tôn thì không
khác Pháp và Tăng. Do vậy, Thế tôn là 3 qui y. Nói về nhất thừa là nói
Thế tôn hoàn thiện 4 vô úy và nói như sư tử gầm. Nếu Thế tôn tùy ý
muốn của người (thì Ngài) phương tiện nói nhị thừa là đại thừa. Vì
thật ra theo chân lý bậc nhất thì không có nhị thừa, mà nhị thừa nhập
vào nhất thừa. Nhất thừa chính là cái thừa chân lý bậc nhất.
6. Chân Lý Vô
Biên [^]
Bạch đức Thế tôn, thanh văn duyên
giác khi mới chứng thánh đế, là không phải đem một cái trí đoạn trừ
phiền não trú địa, cũng không phải đem một cái trí chứng 4 thứ biến
tri và những công đức tùy thuộc, cũng không phải đem pháp mà biết khéo
về 4 nghĩa của pháp. Bạch đức Thế tôn, cái trí xuất thế không có 4
trí đến dần và biết dần. Cái trí xuất thế không có sự đến dần, nên
ví dụ như kim cương. Bạch đức Thế tôn, thanh văn duyên giác đem các
cái trí thánh đế mà đoạn trừ các phiền não trú địa, chứ họ không
có cái trí xuất thế bậc nhất. Chỉ có đức Thế tôn, bậc như lai ứng
cúng chánh biến tri, không phải lĩnh vực thanh văn duyên giác, mới đem cái
trí không một cách bất khả tư nghị mà phá vỡ tất cả cái vỏ phiền
não. Cái trí cứu cánh phá vỡ tất cả cái vỏ phiền não ấy gọi là
trí xuất thế bậc nhất. Cái trí đầu tiên về thánh đế không phải
cái trí cứu cánh ấy, mà chỉ là cái trí hướng đến vô thượng bồ đề.
Thế nên, bạch đức Thế tôn, nói bậc thánh chân thật thì không phải
là nhị thừa, bởi vì nhị thừa chỉ thành tựu một ít công đức, nên họ
được gọi là thánh mà thôi. Bạch đức Thế tôn, nói thánh đế thì cũng
không phải thánh đế, và công đức thánh đế ấy, của thanh văn duyên
giác. Thánh đế ấy chỉ có đức Thế tôn, bậc như lai ứng cúng chánh biến
tri mới biết rõ trước tiên, rồi sau đó mới khai thị diễn nói cho mọi
người đang ở trong vỏ vô minh, do vậy mà gọi là thánh đế.
7. Như Lai Tạng [^]
Bạch đức Thế tôn, thánh đế
như trên đã nói thì rất sâu, tinh tế, khó thấy, khó biết, không thể
phân biệt, không phải lĩnh vực tư duy, thế giới không tin, chỉ có đức
Thế tôn, bậc như lai ứng cúng chánh biến tri mới biết được. Tại sao,
bởi vì thánh đế ấy là nói về Như lai tạng rất sâu. Như lai tạng là
lĩnh vực của đức Thế tôn, không phải đối tượng của thanh văn duyên
giác. Nơi Như lai tạng mà nói nghĩa lý thánh đế, thì Như lai tạng ấy rất
sâu, tinh tế, và thánh đế được nói cũng rất sâu, tinh tế, khó thấy,
khó biết, không thể phân biệt, không phải lĩnh vực tư duy, thế giới không
tin, chỉ có đức Thế tôn, bậc như lai ứng cúng chánh biến tri mới biết
đến.
8. Pháp
Thân [^]
Bạch đức Thế tôn, nếu ai không
nghi hoặc gì về Như lai tạng đang bị ràng buộc trong vô số phiền não,
thì người ấy cũng không nghi hoặc gì về Như lai pháp thân đã thoát khỏi
tất cả phiền não. Bạch đức Thế tôn, nếu ai tâm trí thể hội trọn vẹn
đối với lĩnh vực bất khả tư nghị và bí mật của đức Thế tôn là
Như lai tạng và Như lai pháp thân, thì người ấy có thể tin, có thể hiểu,
và có thể thắng giải về 2 loại thánh đế sẽ nói sau đây. Hai loại
thánh đế ấy là có tác thành và không tác thành. Thánh đế có tác thành
thì không tròn đầy nghĩa lý 4 thánh đế, vì sao, vì do người hộ trì mà
vẫn không thể biết tất cả khổ, đoạn tất cả tập, chứng tất cả
diệt và tu tất cả đạo, do vậy họ không thấu triệt hữu vi, vô vi,
cùng với niết bàn. Còn thánh đế không tác thành thì tròn đầy nghĩa lý
4 thánh đế, vì sao, vì tự hộ trì lấy mà vẫn biết tất cả khổ, đoạn
tất cả tập, chứng tất cả diệt và tu tất cả đạo. Như vậy là có 8
nghĩa thánh đế mà đức Thế tôn chỉ nói bằng 4 thánh đế. Nghĩa 4 thánh
đế không tác thành thì chỉ có đức Thế tôn, bậc như lai ứng cúng
chánh biến tri mới làm việc rốt ráo, không phải năng lực thanh văn duyên
giác mà làm thấu. Không phải đem cái pháp hơn kém hay thấp vừa cao mà chứng
được niết bàn, vậy đức Thế tôn làm việc rốt ráo về thánh đế không
tác thành như thế nào? Là đức Thế tôn, bậc như lai ứng cúng chánh biến
tri, đã biến tri các khổ, đoạn tận khổ tập là phiền não trú địa và
phiền não phát sinh, chứng đắc khổ diệt của tất cả ý sinh thân, và
tu tập tất cả đạo diệt khổ. Bạch đức Thế tôn, sự khổ diệt (22)
thì không phải là pháp hủy hoại, tại sao, vì sự khổ diệt là không mở
đầu, không tác động, không nổi dậy, không cùng tận, thường trú bất
động, bản tánh thanh tịnh, ra khỏi vỏ phiền não. Bạch đức Thế tôn,
vì Ngài hoàn thành những tuệ giác giải thoát và những pháp bất khả tư
nghị, với số lượng nhiều hơn hằng sa, nên gọi là pháp thân. Bạch đức
Thế tôn, pháp thân như vậy không tách rời phiền não, nên gọi là Như
lai tạng.
9. Chân Thật Bí
ẫn [^]
Bạch đức Thế tôn, Như lai tạng
là tuệ giác về cái tánh siêu việt của đức Thế tôn. Như lai tạng thì
thanh văn duyên giác chưa hề thấy, chưa hề được, chỉ đức Thế tôn thấu
triệt và chứng đắc. Tuệ giác về cái tánh siêu việt của Như lai tạng
có 2 thứ. Một là là Như lai tạng như thật không, là tách rời tất cả
phiền não không phù hợp tuệ giác giải thoát. Hai là Như lai tạng như thật
hữu, là có đủ nhiều hơn hằng sa những pháp bất khả tư nghị phù hợp
tuệ giác giải thoát. Hai tuệ giác về cái tánh siêu việt (của Như lai tạng)
như vậy, các vị đại thanh văn do tin mà vào được. Bạch đức Thế tôn,
tuệ giác về cái tánh siêu việt của thanh văn duyên giác là chuyển theo 4
đói tượng thác loạn (mà chưa biết 4 phâm chất) (23) , do vậy mà họ chưa
từng thấy và chưa từng chứng sự khổ diệt hoàn toàn. Chỉ đức Thế tôn
mới hiện chứng, vì đã hủy diệt mọi thứ phiền não và tu tập cái đạo
diệt khổ.
10. Thánh Đế Duy
Nhất [^]
Bạch đức Thế tôn, trong 4 thánh
đế, 3 thứ là vô thường, 1 thứ là thường trú. Tại sao, bởi vì 3 thứ
thuộc về trạng thái hữu vi. Hữu vi là vô thường. Vô thường là hủy
diệt: hủy diệt thì không phải chân lý, không phải thường còn, không phải
là chỗ nương tựa. Do vậy, căn cứ nghĩa lý bậc nhất mà nói, thì 3 thứ
thánh đế không phải chân lý, không phải thường còn, không phải là chỗ
nương tựa.
11. Nương Tựa
Duy Nhất [^]
Bạch đức Thế tôn, còn 1 thứ
thánh đế khổ diệt thì siêu việt hữu vi. Siêu việt hữu vi thì bản
tánh thường trú. Bản tánh thường trú thì không phải là cái pháp hủy
diệt. Không phải hủy diệt thì là chân lý, là thường còn, là chỗ nương
tựa. Do vậy, bạch đức Thế tôn, căn cứ vào nghĩa lý bậc nhất mà nói
thì thánh đế khổ diệt là chân lý, là thường còn, là chỗ nương tựa.
12. Thác Loạn, Chắc
Thật [^]
Bạch đức Thế tôn, thánh đế khổ
diệt là bất khả tư nghị, vượt quá lĩnh vực tâm thức của chúng sinh,
cũng không phải tuệ giác nhị thừa thấu đến. Tựa như người mù bẩm
sinh không thấy hình sắc, hay trẻ con 7 ngày tuổi không thấy mặt trời,
thánh đế khổ diệt cũng là như vậy, không phải đối tượng của kiến
thức phàm phu, cũng không phải đối cảnh của tuệ giác nhị thừa. Kiến
thức phàm phu là nhị biên, tuệ giác nhị thừa là trong sạch. Nhị biên
là chấp trước 5 uẩn làm tự ngã rồi phát sinh đủ cách phân biệt. Nhị
biên là thấy thường hay thấy đoạn. Nếu thấy sinh tử vô thường, thấy
niết bàn thường còn, nhưng không phải đoạn kiến hay thường kiến, như
thế gọi là chánh kiến. Những kẻ suy tính thì thấy quan năng, cảm giác
và tư tưởng, toàn là hiện thực hủy diệt, họ không thấu tính cách
liên tục, họ đui mù, không có mắt tuệ, nên nổi lên đoạn kiến; còn
đối với sự liên tục của tâm thức thì hủy diệt trong từng đơn vị
thì gian, họ không rõ đó là đối tượng ý thức, nên nổi lên thường
kiến. Nhưng, những ý nghĩa trên đây quá tầm phân biệt cùng những kiến
thức thấp hèn, chỉ do ngu phu nghĩ khác, thác loạn chấp trước, bảo là
đoạn, bảo là thường. Bạch đức Thế tôn, người thác loạn thì 5 uẩn
vô thường tưởng là thường, khổ tưởng là lạc, vô ngã tưởng là
ngã, bất tịnh tưởng là tịnh. Còn tuệ giác trong sạch của nhị thừa
thì chưa từng thấy lĩnh vực và pháp thân của đức Thế tôn, nhưng vẫn
có vị tin tưởng đức Thế tôn, nên đối với Ngài họ thấy thường, thấy
lạc, thấy ngã, thấy tịnh, thì đó không phải là những cái thấy thác
loạn, mà chính là thấy chính xác. Tại sao, vì pháp thân Thế tôn là sự
thường toàn hảo, sự lạc toàn hảo, sự ngã toàn hảo, sự tịnh toàn hảo.
Ai thấy như vậy gọi là thấy chính xác. Thấy chính xác thì gọi là con
Phật thật, sinh từ miệng Phật, sinh từ chánh pháp, sinh từ pháp hóa,
được phần Phật pháp. Bạch đức Thế tôn, nói tuệ giác trong sạch thì
chính là tuệ giác của nhị thừa. Tuệ giác trong sạch ấy, thánh đế khổ
diệt còn không phải đối tượng của nó, huống chi thánh đế khổ diệt
được biết bởi tuệ giác 4 nhập lưu? Tại sao, vì ai mới tu 3 thừa mà
không ngu muội các pháp thì có thể chứng và có thể biết về ý nghĩa này.
Bạch đức Thế tôn, vì lý do gì mà Ngài nói 4 nhập lưu? Bốn nhập lưu
tuy là pháp thế gian, nhưng được một nhập lưu thì đã là tối thượng
đối với mọi thứ nhập lưu; còn lấy nghĩa lý bậc nhất nói là nhập lưu,
thì đó là chỗ qui túc, là thánh đế khổ diệt (24) .
13. Bản Tánh
Thanh Tịnh [^]
Bạch đức Thế tôn, sống chết
là do Như lai tạng. Do như lai tạng mà nói cái thì gian trước hết là
không thể biết được. Bạch đức Thế tôn, có Như lai tạng thì có sống
chết, nói như vậy là nói khéo. Bạch đức Thế tôn, sống chết là giác
quan hủy diệt, rồi liên tục làm cho giác quan chưa nổi lên thì nổi lên,
như thế gọi là sống chết. Nên sống chết, 2 sự ấy là do Như lai tạng,
nhưng kiến thức bình thường thì gọi là sống chết. Chết là các giác
quan hủy diệt, sống là các giác quan nổi lên, mà Như lai tạng thì không
sống không chết, không thăng lên không rơi xuống, siêu thoát trạng thái hữu
vi. Như lai tạng thường trú, không hủy diệt, do vậy, bạch đức Thế tôn,
Như lai tạng là chỗ nương tựa, là nắm giữ, là xây dựng cho kho tàng tuệ
giác giải thoát, lại là chỗ nương tựa, là nắm giữ, là xây dựng cho
các pháp hữu vi ngoài tuệ giác giải thoát. Bạch đức Thế tôn, không Như
lai tạng thì không chán khổ sinh tử, không cầu vui niết bàn. Vì sao, vì 6
thức, và đối tượng của chúng, 7 pháp như vậy một thoáng không ngừng,
không lãnh chịu đau khổ, không có khả năng chán sinh tử cầu niết bàn.
Như lai tạng không có thì gian trước hết, không sinh không diệt, lãnh chịu
đau khổ, và vì chán đau khổ mà cầu niết bàn. Bạch đức Thế tôn, Như
lai tạng không tự ngã, không tái sinh, không sinh thể và không sinh mạng.
Như lai tạng không phải là đối tượng của những người chấp thân, người
thác loạn và người chấp không. Bạch đức Thế tôn, Như lai tạng là
pháp giới tạng, là pháp thân tạng, là xuất thế tạng, là bản tánh
thanh tịnh tạng. Cái Như lai tạng bản tánh thanh tịnh, theo chỗ con hiểu,
thì dầu bị phiền não ô nhiễm, cũng vẫn là bất khả tư nghị, là lĩnh
vực của đức Thế tôn. Tại sao, bạch đức Thế tôn, tại vì trong mỗi
đơn vị thì gian, những tâm lý thiện và bất thiện, những phiền não đều
không thể ô nhiễm (Như lai tạng): phiền não không chạm đến tâm, tâm
không chạm đến phiền não, không chạm nhau thì làm sao ô nhiễm? Bạch đức
Thế tôn, có phiền não thì có cái tâm nhiễm theo, cái tâm nhiễm theo phiền
não ấy mà đã khó hiểu khó biết, chỉ đức Thế tôn, bậc làm mắt,
làm trí, làm gốc của Pháp, làm tôn cao, làm dẫn đạo, làm chỗ dựa của
Pháp, mới thấy biết đúng như sự thật. Lúc ấy đức Thế tôn khen ngợi
hoàng hậu Thắng man, nói rằng tốt lắm, tốt lắm, đúng như hoàng hậu
đã nói, cái tâm bản tánh thanh tịnh mà bị phiền não ô nhiễm, thì thật
khó mà rõ biết. Thắng man, có 2 sự khó rõ biết, ấy là cái tâm bản
tánh thanh tịnh thì khó rõ biết, mà tâm ấy bị phiền não ô nhiễm thì cũng
là khó rõ biết. Hai sự như vậy, hoàng hậu và các vị bồ tát thành tựu
đại pháp mới nghe và tiếp nhận được, còn các vị thanh văn chỉ do tin
mà biết.
14. Con Thật Của
Phật [^]
Thắng man, nếu đệ tử Như lai có
đức tin tăng thượng, thì người ấy có tuệ giác tùy thuận với Pháp,
và được rốt ráo trong Pháp ấy. Tuệ giác tùy thuận với Pháp là quan
sát giác quan, nhận thức và đối tượng; quan sát hành vi và kết quả của
hành vi; quan sát sự ngủ của la hán; quan sát sự tâm tự tại, ưa thích
cái vui thiền định; quan sát thần thông tuệ giác của nhị thừa. Do
thành tựu 5 sự quan sát khéo léo này mà đệ tử thanh văn hiện tại vị
lai của Như lai do đức tin tăng thượng và tuệ giác tùy thuận với Pháp
mà khéo hiểu một cách rốt ráo về cái tâm bản tánh thanh tịnh và bị
phiền não ô nhiễm. Thắng man, sự rốt ráo ấy là nhân tố đại thừa.
Hoàng hậu phải biết, tin tưởng Như lai thì không phỉ báng Pháp sâu xa.
Hoàng hậu Thắng man thưa, bạch đức Thế tôn, còn có ý nghĩa khác nữa hữu
ích cho chúng sinh mà con xin dựa vào sức mạnh uy thần của Ngài để diễn
nói. Đức Thế tôn dạy, tốt lắm, hoàng hậu cứ nói tùy ý. Hoàng hậu
Thắng man thưa, bạch đức Thế tôn, có 3 loại thiện nam thiện nữ không
tự thương tổn đối với Pháp sâu xa, sinh lắm công đức, đi vào đại
thừa. Ba loại ấy là những ai? (Một), có người tự thành tựu cái tuệ
giác về Pháp sâu xa. (Hai), có người thành tựu cái tuệ giác tùy thuận với
Pháp sâu xa ấy. (Ba), có người không hiểu Pháp sâu xa, nhưng tín ngưỡng
rằng Pháp ấy chỉ Phật mới biết, chứ không phải lĩnh vực của mình.
15. Hoàng Hậu Thắng
Man [^]
Trừ 3 loại thiện nam hay thiện nữ
này, những người khác, đối với Pháp sâu xa, tùy mình thủ đắc mà chấp
trước, nói quấy, chống đối chánh pháp, làm theo ngoại đạo, biến mình
thành hạt giống thối nát. Thì dầu họ ở đâu cũng phải đến mà loại
trừ. Những kẻ thối nát như vậy, chư thiên hay nhân loại đều nên cùng
nhau chiến thắng. Thưa bạch như vậy rồi, hoàng hậu Thắng man cùng với
thân quyến đem đỉnh đầu của mình mà lạy dưới chân đức Thế tôn.
Đức Thế tôn tán dương, rằng tốt lắm, Thắng man, đối với Pháp sâu
xa, hoàng hậu áp dụng phương tiện mà giữ gìn, chiến thắng những kẻ
đối địch. Hoàng hậu thật là người khéo thấu suốt. Hoàng hậu đã
thân gần cả trăm cả ngàn chư vị Như lai mới nói được những điều
đã nói hôm nay. Lúc ấy đức Thế tôn phóng ra ánh sáng siêu việt, chiếu
khắp đại hội, rồi thăng lên không gian cao bằng 7 cây đa la, dùng thần
lực mà đi chân trong không gian, trở về nước Xá vệ. Hoàng hậu Thắng
man cùng với thân quyến ngước nhìn đức Thế tôn, mắt không rời Ngài
chút nào. Khi Ngài đi quá tầm mắt rồi, hoàng hậu hoan hỷ, phấn chấn,
cùng với mọi người ca tụng đức tính của đức Thế tôn, nhất tâm nghĩ
nhớ đến Ngài. Trở vào kinh thành Vô đấu, hoàng hậu khuyến khích Hữu
xưng vương xây dựng đại thừa. Trong kinh thành Vô đấu, phu nhân giáo dục
đại thừa cho con gái 7 tuổi sắp lên, Hữu xưng vương cũng đem đại thừa
giáo dục cho con trai 7 tuổi sắp lên. Cả nước không ai mà không học tập
đại thừa.
Lúc bấy giờ đức Thế tôn vào
khu lâm viên Chiến thắng Thiện thí, gọi tôn giả A nan và nghĩ đến Đế
thích. Đế thích cùng với tùy thuộc ứng theo ý nghĩ của đức Thế tôn
mà đến, đứng trước đức Thế tôn. Đức Thế tôn bảo Đế thích, rằng
Kiều thi ca, ông nên tiếp nhận và ghi nhớ kinh này, diễn giảng, khai thị,
làm cho chư thiên Đao lợi được yên vui. Đức Thế tôn lại dạy tôn giả
A nan, tôn giả cũng tiếp nhận, ghi nhớ, phân tích giảng nói cho 4 chúng.
Đế thích thưa Phật, bạch đức Thế tôn, kinh này nên mệnh danh là gì?
Chúng con nên kính nhớ như thế nào? Đức Thế tôn dạy, Kiều thi ca, kinh
này thành tựu vô lượng công đức, năng lực nhị thừa còn không thấu
được, huống chi người khác. Kiều thi ca, ông nên biết kinh này rất sâu
xa, tinh tế. Kinh này là khối công đức lớn. Như lai sẽ nói cho ông, theo
cách nói toát yêắu, về danh hiệu kinh này. Ông hãy nghe kyլ hãy khéo ghi
nhớ. Lúc ấy tôn giả A nan và Đế thích cùng thưa: Tốt lắm, bạch đức
Thế tôn, chúng con xin vâng theo huấn dụ của Ngài. Đức Thế tôn nói, (một),
kinh này tán dương đức tính chân thật của Như lai, nên nhớ như vậy.
(Hai), kinh này nói về 10 điều thệ nguyện bất khả tư nghị, nên nhớ như
vậy. (Ba), kinh này đem (1 trong) 3 đại nguyện thống nhiếp mọi thệ nguyện,
nên nhớ như vậy. (Bốn), kinh này nói sự thu nhận chánh pháp là bất khả
tư nghị, nên nhớ như vậy. (Năm), kinh này nói hội nhập nhất thừa, nên
nhớ như vậy. (Sáu), kinh này nói thánh đế vô biên, nên nhớ như vậy. (Bảy),
kinh này nói về Như lai tạng, nên nhớ như vậy. (Tám), kinh này nói về
pháp thân của Như lai, nên nhớ như vậy. (Chín), kinh này nói bản tánh
siêu việt và chân thật bị ẩn khuất, nên nhớ như vậy. (Mười), kinh này
nói ý nghĩa thánh đế duy nhất, nên nhớ như vậy. (Mười một), kinh này
nói sự nương tựa duy nhất, thường trú, bất động và vắng lặng, nên
nhớ như vậy. (Mười hai), kinh này nói về sự thác loạn và chân thật,
nên nhớ như vậy. (Mười ba), kinh này nói về cái tâm bản tánh thanh tịnh
mà bị phiền não che khuất, nên nhớ như vậy. (Mười bốn), kinh này nói
về con thật của Như lai, nên nhớ như vậy. (Mười lăm), kinh này nói sự
nói như sư tử gầm của hoàng hậu Thắng man, nên nhớ như vậy. Lại nữa,
Kiều thi ca, kinh này loại trừ hoài nghi, xác quyết liễu nghĩa, hội nhập
nhất thừa. Kiều thi ca, Như lai nay đem bản kinh hoàng hậu Thắng man nói
như sư tử gầm này ký thác cho ông. Từ bây giờ cho đến ngày nào chánh
pháp đang còn, ông hãy khai thị giảng nói cho tất cả khu vức. Đế thích
thưa, tốt lắm, bạch đức Thế tôn, dạ, con xin bái lãnh huấn dụ của
Ngài.
Lúc bấy giờ tôn giả A nan, Đế
thích, và cả đại hội chư thiên, nhân loại, a tu la, càn thát bà, v/v,
nghe những điều đức Thế tôn đã tuyên thuyết, ai cũng đại hoan hỷ,
tin tưởng, tiếp nhận, và kính cẩn thực hành.
22.10.2535
-
- Ghi Chú(1)
- Tôi chia toàn văn kinh Thắng man ra 3 phần: 1. được
thọ ký, 2. phát bồ đề tâm, 3. nhập Như lai tạng. Trong 3 phần đều có
đoạn nhỏ. Đoạn nhỏ có 15. Đoạn 15 cũng là đoạn kết, không kể đến.
Còn lại 14 đoạn thì phần 1 có 1, phần 2 có 2-4, phần 3 có 5-14. Tất cả
15 đoạn nhỏ này là bản dịch Cầu na nêu lên, y theo lời kết thúc kinh
này. Nay tôi đưa vào bản dịch Lưu chí này, nhưng chỉ để trong mở đóng
vòng đơn.
- Ghi Chú (2)
- Thắng man nghĩa là vòng hoa hơn hết. Hoàng hậu
Thắng man có anh là Lưu ly vương, người tàn hại họ Thích, lại có em
gái là Kim cương nữ.
- Ghi Chú (3)
- Biệt danh là Thiện tín.
- Ghi Chú (4)
- Dịch âm là A du xà. Dịch nghĩa là Vô sinh: nơi có
nhiều bậc hiểu nghĩa vô sinh. Lại dịch nghĩa là Vô đấu: nơi không thể
đánh phá. Là quốc đô của Chi tường vương, phụ thuộc nước Xá vệ.
- Ghi Chú (5)
- Đoạn này chính văn cũng là thể chỉnh cú. Như
vậy không chỉnh.
- Ghi Chú (6)
- Chính văn là 4 thứ của thân: tức sinh lão bịnh
tử hay tứ đại chủng.
- Ghi Chú (7)
- Thân trí tuệ, chính văn là trí thân, dị danh của
pháp thân.
- Ghi Chú (8)
- Có ý kiến nói đoạn này là thọ giới.
- Ghi Chú (9)
- Gốc rễ điều lành tức là thiện căn. Gọi là
thiện căn là 5 thứ tín, tiến, niệm, định, tuệ.
- Ghi Chú (10)
- Đúng ra thì phải nói 8 vạn pháp uẩn, gọi tắt
từ ngữ 84000 pháp uẩn (hay pháp tạng, pháp môn).
- Ghi Chú (11)
- Là 1 trong 4 thời kỳ thành, trú, hoại, không.
- Ghi Chú (12)
- Chính văn là thiện bằng (huynh đệ thiện pháp).
Cầu na dịch pháp bằng (huynh đệ chánh pháp).
- Ghi Chú (13)
- Chính văn là mạt ma, dịch nghĩa tử huyệt (huyệt
chết), toàn thân có 64 hoặc 120 chỗ.
- Ghi Chú (14)
- Nương dựa là lấy thêm chữ của bản dịch Cầu
na.
- Ghi Chú (15)
- Chính văn là La hán không vì Như lai xuất gia, thọ
cụ túc. Văn và ý đều không rõ. Tôi dịch như đã dịch là lấy chữ và
ý của bản dịch Cầu na.
- Ghi Chú (16)
- Bốn tuệ giác: ta sinh đã hết là 1, thuộc trí tập
đế; phạn hạnh đã lập là 2, thuộc trí đạo đế; việc làm đã xong
là 3, thuộc trí diệt đế; không còn đời sau là 4, thuộc trí khổ đế.
Bốn tuệ giác này cũng là 2 tuệ giác tận trí và vô sinh trí: ta sinh đã
hết, phạn hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn đời sau, nói như
vậy là tận trí; ta sinh đã hết mà không còn sinh nữa, phạn hạnh đã lập
mà không còn lập nữa, việc làm đã xong mà không còn xong nữa, không còn
đời sau mà không còn nữa, nói như vậy là vô sinh trí.
- Ghi Chú (17)
- Ý sinh thân hay ý thành thân, nghĩa chính là cái
thân mà các vị bồ tát đã được tự tại muốn sinh đâu tùy ý.
- Ghi Chú (18)
- Niết bàn chưa toàn là hữu dư y niết bàn. Niết
bàn này mới hết tập đế mà chưa hết khổ đế.
- Ghi Chú (19)
- Ở đây chỉ cho 3 quả (trừ La hán), và 4 hướng.
- Ghi Chú (20)
- Cắt nghĩa như vầy thì vô minh trú địa chính
là cái ý ô nhiễm (gọi là bất cọng vô minh) của Nhiếp luận, hay bất tương
ưng nhiễm của Khởi tín. Nói không tương ứng với tâm là lúc tâm thiện
nó vẫn ác (trái lại, tương ứng với tâm là khi tâm thế nào thì phiền
não thế ấy).
- Ghi Chú (21)
- Hãy tham khảo đoạn tịnh pháp liên tục như thế
nào của Khởi tín luận mới rõ được.
- Ghi Chú (22)
- Khổ diệt: niết bàn.
- Ghi Chú (23)
- Chính văn là biết 4 đảo cảnh. Bản Cầu na dịch
biết 4 bất điên đảo cảnh giới. Chính 2 lời dịch này cắt nghĩa cho
nhau. Biết 4 đảo cảnh là biết các pháp thường là vô thường, các pháp
lạc là khổ, các pháp ngã là vô ngã, các pháp tịnh là bất tịnh. Biết
4 bất điên đảo cảnh giới là biết niết bàn không phải vô thường mà
là thường, không phải khổ mà là lạc, không phải vô ngã mà là ngã,
không phải bất tịnh mà là tịnh. Tiểu thừa biết 4 sự thấy các pháp
thường lạc ngã tịnh là đối tượng thác loạn, vô thường khổ vô ngã
bất tịnh mới là không thác loạn. Đại thừa biết nói niết bàn vô thường
khổ vô ngã bất tịnh là thác loạn, thường lạc ngã tịnh mới là phẩm
chất không thác loạn.
- Ghi Chú (24)
- Đoạn này, từ câu "Tuệ giác trong sạch ấy"
cho đến đây, tôi dịch như vậy, nhưng không xác định được 4 nhập
lưu là gì, nên dịch không bảo đảm. Bản Cầu na cũng không giúp được
gì.