- THẬP TỤNG LUẬT VÀ SỰ CẤU
TRÚC LẠI
- BỘ LUẬT NGUYÊN TÁC CỦA NHẤT
THIẾT HỮU BỘ
- Biawadeb Mukherjee
- Thích Nữ Liên Hiếu chuyển ngữ
Dịch từ nguyên tác
"Shih-sung-lu and the Reconstruction of the Original Sarvaastivaada Vinaya"
đăng trong Tạp chí Buddhist Studies (A Research Journal of the Department of
Buddhist Studies, University of Delhi, Delhi) Vol XV, March, 1991 do Giáo Sư Sanghasen
Singh biên tập, trang 46 – 51).
"Thập Tụng Luật" hay còn
gọi là "Bộ Luật Mười Phần" giống như Bộ luật của trường
phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvaastivaada)[1] (No. 1115, p.246) như đã
được Bunjiu Nanjio đề cập trong cuốn "Mục Lục các Dịch Phẩm
Trung Hoa của Tam Tạng Phật Giáo" (A Catalogue of the Chinese Translation of
the Buddhist Tripi.taka". Tên của bộ luật này gợi cho ta biết là Bộ
Luật gồm có 10 phần. Bộ Luật này được Ngài Pu.nyatara (Phất-Nhã-Đa-La
// Công Đức Hoa) và Kumaaraajiiva (Cưu-Ma-La-Thập) dịch vào năm 404 TL, dưới
thời Hậu Tấn (384-417). Nanjio cũng chỉ ra: Bộ Luật Tây Tạng là Bộ Luật
của Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ (Muula-sarvaastivaada)ø và giống với
Thập Tụng Luật nhưng không hoàn toàn đồng nhất với Thập Tụng Luật
như Csoma đã phân tích trong tạp chí Nghiên Cứu Á Châu (Asiatic
Research , Vol XX, see pp. 45ff). Chúng ta sẽ thấy thông tin này được
Nanjio đưa ra không đủ.
Nanjio không làm sáng tỏ được lịch
sử văn học của Thập Tụng Luật ở Ấn Độ. Tôi nghĩ Thập Tụng Luật
nên được xác nhận tương đương với bản Luật Nhất Thiết Hữu Bộ của
Kashmir. Bản luật này cũng gồm 10 phần, được 4 vị cao tăng:
Kumaaraajiiva, Pu.nyatara, Dharmaruchi[2] (Đạt-Ma-Lưu-Chi) và Vimalaak.sa
(Ti-Ma-La-Xoa) dịch sang Hoa văn có liên hệ gần gũi với vùng Kashmir. Ví dụ,
Ngài Kumaaraajiiva sinh ở Kucha[3]ø, cha là người Ấn và mẹ là người
Kucha, Ngài không những được giáo dục ở Kế-Tân (Kashmir hiện nay)[4] mà
còn ở vùng ChineseTurkestan.[5] Phần lớn Phật giáo vùng Chinese Turkestan này
được phát triển là nhờ ảnh hưởng của Phật giáo vùng Kashmir . Ngài
Pu.nyatara cộng tác với Ngài Kumaaraajiiva dịch bộ Thập Tụng Luật là người
vùng Kashmir và Ngài rất nổi tiếng về việc tụng đọc Thập Tụng Luật
ở vùng này. Những phần đầu của bản dịch Thập Tụng Luật của Ngài
Kumaaraajiiva đều dựa vào bản Sanskrit được ngài Pu.nyatara trùng tụng. Dịch
giả thứ ba là Dharmaruchi - người cộng tác cho công trình phiên dịch này
sau khi ngài Pu.nyatara viên tịch. Dharmaruchi cũng xuất thân từ vùng
Chinese Turkestan, như chúng ta đã đề cập, phần lớn kinh điển Phật giáo
và Cao Tăng tại vùng Chinese Turkestan đều có nguồn gốc ở Kashmir.
Vamalaak.sa - người trợ thủ để hoàn thành tác phẩm phiên dịch này cũng
là người Kasmir. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng Thập Tụng Luật
là bản dịch của Nhất Thiết Hữu Bộ vùng Kasmir thì rất hợp lý.
Tuy nhiên, Thập Tụng Luật Trung Hoa
không giống với bản luật nguyên tác và đầy đủ như bản Luật Nhất
Thiết Hữu Bộ. Cứ liệu trong Đại Trí Độ Luận về điểm này đáng
được trích dẫn. Trong bộ luận trên, ngài Naagaarjuna (Long Thọ)ï đề cập
như sau: Nói một cách vắn tắt, bộ luật này….gồm có 8 chi phần. Hơn nữa,
nó có 2 phần lớn, phần thứ nhất là bộ luật của Mathuraa, bao gồm các
câu chuyện tiền thân (Bổn Sanh // Jaatakas) và Avadaanas [Bổn
Sự: các công hạnh của Đức Phật, các Độc Giác Phật, các vị Đại
Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni nỗ lực để chứng được quả vị giác ngộ, giải
thoát] và gồm có 8 chi phần. Phần thứ hai là luật của Kashmir không có Bổn
sanh và Bổn sự, nhưng nó lại có các phần cốt tuỷ và các hình thức
trong các chi phần.
Ơû đây Đại Trí Độ Luận đang
nói về Luật Tiểu thừa (Hiinayaana Vinaya). Vì trong luận phẩm này
thuật ngữ Hiinayaana là chỉ cho những người theo phái Nhất Thiết Hữu
Bộ. Thật rõ ràng là cả hai văn bản Luật được đề cập ở đây đều
thuộc trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ. Như vậy rõ ràng bản luật lớn
bao gồm 80 chi phần [Bát Thập Tụng Luật], có rất nhiều Chuyện Bổn Sanh
(Jaataka) và Bổn Sự (Avadaana) và nó thuộc vùng Mathuraa (Ma-đâu-la)
được xem như là một văn bản đầy đủ và sớm hơn, trong khi đó một bản
ngắn hơn có 10 phần của những người theo phái Nhất Thiết Hữu Bộ ở
Kashmir và được trước tác từ bản luật lớn ở Mathuraa bằng cách bỏ
bớt các phần Jaatakas và Avadaanas. Bản luật ở Kashmir gồm 10 phần có thể
dễ dàng xác nhận là tương đồng với bản Thập Tụng Luật [Trung Hoa], vì
cả hai đều có 10 chi phần và vì Thập Tụng Luật là bản dịch của bộ
Luật Sanskrit xuất phát từ Kashmir. Sự tương đồng này có thể dẫn đến
việc phục hồi nguyên tác của Luật Nhất Thiết Hữu Bộ, vì Thập Tụng
Luật là bản rút ngắn của bản Luật nguyên tác ở Kashmir. Nhưng chúng ta
phải thận trọng khi nghiên cứu nó. Thập Tụng Luật [Sanskrit] chắc chắn
đã được hình thành khá lâu trước thời Ngài Long Thọ và nó có thể xuất
hiện vào khoảng thế kỷ thứ I hoặc thứ II trước TL. Như chúng ta biết
là bản Luật của Kashmir được dịch sang tiếng Hoa vào đầu thế kỷ thứ
V TL. Suốt khoảng thời gian ít nhất là 500 năm này, đương nhiên bản Thập
Tụng Luật Kashmir này bị thêm thắt và thay đổi trước khi nó được dịch
sang tiếng Hoa. Chúng ta phải chỉ ra những sự thay đổi sau này trước khi
bản Thập Tụng Luật Trung Hoa có thể được sử dụng như là nguồn tài
liệu đáng tin cậy để phục hồi bộ Luật nguyên tác của Nhất Thiết Hữu
Bộ. Để thực hiện công việc này, trước hết chúng ta phải am tường
những gì đã xảy ra đối với bản luật lớn của Nhất Thiết Hữu Bộ
ở vùng Mathuraa, và kế đến chúng ta phải chú ý đến sự phát triển dần
dần của các bản luật khác nhau vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Vì các
bộ luật của Thượng Toạ Bộ (Theravaada), Đàm Vô Đức Bộ (Dharmagupta
// Pháp Tạng Bộ), Hoá Địa Bộ (Mahiisaasaka), Nhất Thiết Hữu Bộ
(Sarvaastivaada), và Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ (Muula-sarvaastivaada)
tất cả có thể được truy nguyên từ bộ luật nguyên tác của Sthavira[6].
Điều này sẽ hết sức có ý nghĩa để đối chiếu với những sự thêm
thắt và thay đổi sau này.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét đến
vấn đề chuyện gì đã xảy ra đối với bản luật lớn của Nhất Thiết
Hữu Bộ ở Mathuraa. Bản này hoàn toàn bị mất hoặc vẫn còn tồn tại dưới
một tên khác ?. Trong khả năng thứ hai là bản luật hiện còn đại diện
cho bản luật lớn của Mathuraa, nó phải hàm chứa hai yếu tố. Thứ nhất
là trật tự sắp xếp và thứ hai có nhiều chi tiết của các truyền thống
đều được lưu giữ giống với Thập Tụng Luật[7] nếu so sánh bản Thập
Tụng Luật với bản Luật của Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ.
Trong một bài viết, tôi đã chỉ
ra rằng bộ Luật của Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ vẫn còn được gìn
giữ trong bản dịch tiếng Hoa chắc chắn đầy đủ tất cả các chi tiết
này. Bản dịch tiếng Hoa của bộ Luật Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ này
rất giống với bản Thập Tụng Luật, ngay cả trong một số điểm [cả bố
cục và nội dung] không giống với những bộ luật khác, nếu đem so sánh
với bản Thập Tụng Luật, trong một số trường hợp Luật Căn Bản Nhất
Thiết Hữu Bộ còn lưu giữ một số truyền thống sớm hơn, mà các truyền
thống này dường như dựa vào các truyền thống lưu hành được các vị
theo Nhất Thiết Hữu Bộ tuân thủ. Chúng tôi sẽ trình bày sâu hơn trong
phần thảo luận của chúng tôi là Luật của Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ
có một vài phần thuộc bộ Luật nguyên tác của Nhất Thiết Hữu Bộ, nhưng
nó bị thiếu trong Thập Tụng Luật. Như vậy, thật là hữu lý khi chúng
ta kết luận rằng bản luật lớn đầu tiên ở Mathuraa của Nhất Thiết Hữu
Bộ không còn tồn tại độc lập mà nó bị pha trộn với bản tiếng Hoa
của bộ Luật Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ. Bản Luật hiện nay của Căn
Bản Nhất Thiết Hữu Bộ không thể nào đồng nhất với bản Luật nguyên
tác của Nhất Thiết Hữu Bộ ở vùng Mathuraa, vì nó có nhiều sự thêm thắt
sau này. Do đó, việc chúng tôi trình bày trên có thể được tóm tắt như
sau: bản Thập Tụng Luật không những là bản luật tóm tắt của nguyên
tác của bộ Luật Nhất Thiết Hữu Bộ đầu tiên mà nó còn bao gồm một
số sự thêm thắt và thay đổi sau này. Mặc khác, bộ Luật của Căn Bản
Nhất Thiết Hữu Bộ không những kết hợp chặt chẽ với bộ Luật
nguyên tác của Nhất Thiết Hữu Bộ thuộc vùng Mathuraa mà nó còn bao gồm
nhiều thêm thắt sau này. Để tìm ra bộ Luật nguyên tác của Nhất Thiết
Hữu Bộ, chúng ta phải tìm ra tất cả các sự thay đổi sau này hoặc là
phần bỏ đi, hoặc là phần thêm thắt vào. Để làm được điều này,
chúng ta không chỉ so sánh Thập Tụng Luật với Căn Bản Nhất Thiết Hữu
Bộ mà còn so sánh Thập Tụng Luật với các bộ Luật khác phát triển từ
Luật của Sthavira. Chúng ta hãy lấy câu chuyện gọi là cuộc đời của
Đức Phật trong phần Skandhaka[8] để minh hoạ vấn đề này.
Những bản Luật của các trường
phái Thượng Toạ Bộ, Đàm Vô Đức Bộ, Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ đặt
vấn đề hoá độ đầu tiên của Đức Phật trong phần đầu của phần
liên quan đến việc xuất gia (Pravrajyaa[9]) và thọ giới (Upasampadaa).
Cũng như vậy, trong bản Luật của Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ đã
tóm tắt những yếu tố liên quan đến những sự giáo hoá này trong phần
đầu của phần xuất gia và thọ giới. Do đó, dường
như phần thủ tục xuất gia và thọ giới đầu tiên này đã trở thành một
phần của Skandhaka trước khi sự phân phái của Sthavira và Mahaasaa"nghika
xảy ra, thủ tục liên quan đến thọ giới và xuất gia này được kế
thừa và phát triển từ trường phái Sthavira và các trường phái
phát xuất từ Sthavira. Do đó, chúng ta có thể giả định một cách
hợp lý rằng Nhất Thiết Hữu Bộ phát triển từ Sthavira, mà Nhất
Thiết Hữu Bộ lúc đầu cũng có ghi lại sự việc này trong bản luật của
họ ở phần xuất gia (Pravrajyaa) và thọ giới (upasampadaa). Chỉ
có Luật của Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ được vẫn còn được gìn giữ
trong bản dịch tiếng Hoa đã đặt phần sử liệu xuất gia và thọ giới
trong phần Phá hoà hợp tăng (Sa"nghabhedavastu). Ở đây cần lưu
ý rằng thủ tục xuất gia và thọ giới này thật sự làø một văn bản
của những việc giáo hoá đầu tiên được nhìn dưới góc độ chủ đề
thì nó gần gũi với chi phần 4 & 5 hơn, và việc sắp xếp của bộ Luật
Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ cho thấy sự đảo lộn vị trí sau này.
Vậy bản luật nào hàm chứa sử
liệu gốc của thủ tục xuất gia và thọ giớiø này. Mahaavagga của
Luật tạng Paali bắt đầu bằng các sự kiện xảy ra sau khi Đức Phật thành
đạo và chấm dứt bằng câu chuyện cải đạo của Tôn giả ‘Saariputra
(Xá-Lợi-Phất) và Maudgalyaayana (Mục-Kiền-Liên). Căn Bản Nhất Thiết Hữu
Bộ bắt đầu bằng các sự kiện sớm hơn và mô tả những trường hợp
dẫn đến sự giác ngộ của Đức Phật, phần nói về gia đình Đức Phật,
v.v… Đàm Vô Đức Bộ cũng bắt đầu bằng sử liệu về gia đình của
Đức Phật và thêm các việc hoá độ đầu tiên của Ngài. Vì tất cả
các trường phái này phát triển từ bộ phái Sthavira. Rõ ràng là bản
Luật nguyên tác của Sthavira ít nhất bắt đầu với những việc hoằng
hoá đầu tiên của Đức Phật sau khi chứng đạt giác ngộ. (Căn Bản Nhất
Thiết Hữu Bộ khởi đầu bằng nguồn gốc thế giới và bao gồm các sự
kiện xảy ra trong gia đình Đức Phật, các cuộc ngoạn du của Thái tử, v.v…) và các bộ Luật khác, kể cả bộ Luật Căn Bản
Nhất Thiết Hữu Bộ có thêm thắt nhiều điểm căn bản về cuộc đời
Đức Phật như vậy. Nhưng bản nguyên tác của Luật
Nhất Thiết Hữu Bộ có đào sâu sử liệu căn bản này không?. Để đi đến
kết luận, chúng ta phải chú ý đến lịch sử của bản Giới kinh
Catu.hparisat.
Bản giới kinh Catu.hparisat
được Giáo sư E. Waldschmidt phục hồi từ các phần của bản cảo Sanskrit
được tìm thấy ở Trung Á. Cũng như tác phẩm Mahaavagga, bản giới
kinh này bắt đầu bằng các sự kiện xảy ra sau khi Đức Phật thành đạo
và chấm dứt bằng câu chuyện nói về sự cải đạo của Tôn giả Xá-Lợi-Phất
và Mục-Kiền-Liên. Không có kinh nào tương đương [với giới kinh Catu.hparisat]
trong Tạng kinh Paali (Paali Sutta-Pi.taka) hay trong kinh tạng A-hàm (AAgamas)
bằng tiếng Hoa. Nhưng Waldschmidt chỉ ra rằng Luật Căn Bản Nhất Thiết
Hữu Bộ được lưu truyền trong các bản dịch của Tây Tạng và Trung Hoa
cũng như Mahaavagga đưa ra những điểm tương đương rất giống với
giới kinh Catu.hparisat. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp
của Luật Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ. Những bản Luật khác của Sthavira,
ngoại trừ bản Thập Tụng Luật, cũng có các sử liệu tương tự. Rõ
ràng là tác phẩm được gọi là giới kinh Catu.hparisat và nó đã
hình thành một hình thức của một bài kinh, và giới kinh Catu.hparisat
này ban đầu tạo thành một phần của luật tạng.
Nhưng bản giới kinh Catu.hparisat
thuộc bộ luật nào? Chúng ta biết rằng các sự kiện sau khi thành đạo của
Đức Phật đã tạo thành một phần nguyên tác của Luật Sthavira. Do
đó, chúng ta có thể giả định rằng bộ luật nguyên tác của Nhất Thiết
Hữu Bộ cũng có các sự kiện như trên là điều hết sức đương nhiên.
Sự thừa nhận này được vững vàng hơn nữa, khi chúng ta nhận thấy rằng
ngay cả bộ Luật của Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ dựa vào bộ Luật Nhất
Thiết Hữu Bộ cũng có mối liên hệ chặt chẽ với các sự kiện tương
tự mà các sự kiện này đã xảy ra sau khi Đức Phật chứng ngộ. Tổng kết
các sự kiện trong bộ Luật của Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ cũng chỉ
ra rằng bộ Luật của Căn Bản Nhất Hữu Bộ không phải xuất phát từ
nguyên tác của bộ Luật Sthavira, mà bản giới kinh Catu.hparisat
này được tách ra. Mặt khác, sử liệu này bị thiếu trong Thập Tụng Luật
mà nó được dịch từ bản Luật Nhất Thiết Hữu Bộ ở Kashmir. Do đó,
dường như nội dung của giới kinh Catu.hparisat như hiện nay là do các vị Nhất Thiết Hữu Bộ tách nó ra từ bộ Luật
của Sthavira và mang nó đến vùng Kasmir. Việc
khám phá này của chúng tôi cộng với bản giới kinh Catu.hparisat mà
nó đã tạo thành một phần của Luật Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ sẽ
biện minh cho những gì tôi đã nói, nếu chúng ta kết luận rằng sử liệu
về những sự kiện sau khi Đức Phật chứng ngộ tạo thành một phần của
nguyên tác luật Nhất Thiết Hữu Bộ.
Chú thích của
người dịch
[1] Tất cả các thuật ngữ Phật học
được sử dụng trong bài này đều là chữ Sanskrit.
[2] Trong A Catalogue of the Buddhist
Tripi.taka của Nanjio viết là Dharmaruki, còn trong A Dictionary of Chinese
Buddhist Terms của William Edward Soothill và Lewis Hodous thì viết là
Dharmaruci.
[3] Theo A Dictionary of Chinese
Buddhist Terms của William Edward Soothill và Lewis Hodous, Kucha được phiên
âm là Qui-Tư, Khố-Xa, Khuất-Chi, Khâu-Tư hay là Câu-Chi, một kinh đô và
là một thành phố cổ của phía Đông Turkestan (Eastern Terkestan) ngày xưa.
[4] Kashmir xưa được các nhà dịch
thuật phiên âm là Kế Tân. Mặc dầu trong bài nghiên cứu này tác giả chỉ
sử dụng chữ Ki-pin (Kế-Tân) để chỉ cho vùng Kashmir. Để tiện cho người
đọc ngày nay, nên chúng tôi đã dịch chữ Ki-pin thành Kashmir.
[5] Chinese Turkestan là địa danh rất
quan trọng đối với trường phái Sarvaastivaada vào thế kỷ thứ II
TL. Chúng tôi không biết hiện nay đó là vùng nào. Xin các bậc thiện trí
thức chỉ giáo giúp.
[6] Theo một số nhà sử học cho rằng
Sthavira là một trong hai bộ phái đầu tiên sau kỳ phân phái. Một số
học giả đánh đồng chữ Sthavira giống như chữ Theravaada, nên
đều dịch chữ Sthavira và Theravaada là Thượng Toạ Bộ. Theo tác
giả của bài viết này, chữ Sthavira đặc biệt chỉ cho bộ phái đầu
tiên, còn Theravaada là bộ phái xuất hiện sau bộ phái Sthavira.
Do đó, chúng tôi giữ nguyên chữ Sthavira, không dịch sang tiếng Việt
để khỏi nhầm lẫn.
[7] Thuật ngữ Thập Tụng Luật
được dịch trong văn bản này là chỉ bản Thập Tụng Luật bằng Hoa văn.
[8] Skandhaka hoặc là Skandha: Hán Việt
phiên âm là Kiền-độ, dịch nghĩa là Tụ,Uẩn, Tích, Tạng, Kết, Tiết,
phân đoạn. Trong Luật tạng thường có nghĩa là phần, phẩm, tiết.
[9] Trong A Dictionary of Chinese
Buddhist Terms tr. 166b lại ghi là Pravraj.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Đại
Đức Thích Minh Diệu đã giúp chúng tôi một số ý trong việc dịch bài viết
này.
http://buddhismtoday.com/viet/kinh/dt/045-luatthaptung.htm