- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
ÐẠI TẠNG KINH HÁN VĂN
Kinh Phật đầu tiên được dịch từ Phạn
văn sang Hán văn là kinh Tứ Thập Nhị Chương do hai cao tăng Ca-diếp-ma-đằng
và Trúc-pháp-lan, người Tây Vực (vùng Trung Á ở phía Tây Trung Hoa) dịch
vào năm 76 Tây lịch. Hay nói cách chính xác hơn là các kinh A-hàm Chánh Hạnh,
Ðại thừa Phương đẳng, Yếu Tuệ, An ban Thủ Ý, Thiền Hành Pháp Tưởng
v.v... do cao tăng An Thế Cao dịch vào những năm 147 - 167 Tây lịch. Rồi từ
đây trở đi, các vị cao tăng ở vùng Tây Vực, Kế Tân (Kashmir Bắc Ấn
Ðộ) và Thiên Trúc (Ấn Ðộ) lần lượt đến Trung Hoa và các vị cao tăng
Trung Hoa tiếp tục du học Ấn Ðộ mang kinh về nước phiên dịch càng nhiều,
làm cho Tam Tạng kinh Hán văn ngày càng phong phú đầy đủ hơn bất cứ Tạng
kinh nào được dịch ra văn hệ khác trên thế giới.
Các cao tăng
đã thực hiện việc phiên dịch này theo hai lối: cá nhân và tập thể, dịch
ý và dịch thẳng, dịch thuộc lòng và dịch có nguyên bản trước mặt.
- Cá
nhân dịch là do một hai người phiên dịch.
- Tập thể
dịch là có tổ chức dịch trường gồm bốn người hoặc bảy người.
Trường hợp bốn người thì một người đọc thuộc lòng kinh bổn ra, một
người chép lại thành Phạn văn, một người dịch nghĩa từ Phạn văn ra Hán văn, một người chép lại
thành Hán văn. Trường hợp bảy người thì một người chủ dịch, tuyên
dịch từ kinh bổn, một người bút thọ, lo ghi chép lại, một người độ
ngữ so sánh từ ngữ, một người chứng Phạn lo đối chiếu với Phạn
văn, một người nhuận Hán văn, một người chứng nghĩa lo kiểm chứng ý
nghĩa, và một người tổng khán lo kiểm xét chung lại.
- Dịch
ý là dịch lược văn, chỉ cốt lấy ý. Ngài Cưu-ma-la-thập đặc biệt
nhất trong lối dịch này.
- Dịch
thẳng là dịch sát theo nguyên bản, không thêm không bớt câu nào. Ngài
Huyền Trang tiêu biểu cho lối dịch này.
- Dịch
thuộc lòng là trường hợp các cao tăng từ Tây Vực hoặc Ấn Ðộ
sang Trung Hoa từ thời kỳ đầu nhằm
lúc ở Tây Vực và Ấn Ðộ, những kinh viết thành văn chưa được phổ
biến, hoặc vì quan niệm rằng kinh được trực tiếp truyền miệng giữa
thầy trò quý hơn kinh được truyền gián tiếp qua văn tự, vì kinh được
truyền miệng thì thân thiết chính xác dễ nhớ và dễ hành trì hơn; do đó
các người chuyên học thuộc rồi đem đi truyền bá cho nên khi cần dịch,
họ không có sẵn nguyên bản trong tay mà chỉ đọc và dịch theo ký ức của
mình.
Những kinh
dịch lối này không có nguyên bản để có thể đối chiếu kiểm tra lại,
nên phần nhiều bị tối nghĩa và dịch không được nhiều. Có bộ dịch
được nửa chừng thì ngưng lại, vì người đọc thuộc để dịch qua đời,
phải đợi thời gian có người khác thuộc mới đọc và dịch tiếp, như
bộ luật Thập Tụng, ngài Phấp-nhã-đa-la khởi đọc thuộc cho ngài La-thập
dịch ra Hán văn, được 2/3 thì ngài Phấp-nhã-đa-la qua đời, phải đợi
năm sau có ngài Ðàm-ma-lưu-chi từ Tây
Vực qua mới đọc và dịch tiếp trọn bộ.
- Dịch
có nguyên bản là có bản nguyên văn trên tay, cứ theo đó dịch ra.
Các kinh
được dịch rồi, nhưng không dễ gì trong một thời gian ngắn đã có thể
truyền bá đi khắp nơi, một mặt vì kỹ thuật ấn loát thời ấy chưa có,
một mặt tình hình đất nước Trung Hoa rất rộng, các tay mưu bá đồ
vương tranh giành cát cứ, ngăn trở sự đi lại. Mặt khác, các vị cao tăng
đi truyền kinh, họ không xuất phát từ một nơi, một lúc, cùng một tổ
chức, nên người này không biết việc người kia, khiến có những kinh
cùng một nguyên bản mà có tới năm, bảy người dịch. Ðây là chưa kể
trường hợp người này thấy bản dịch của người kia chưa trọn hoặc
chưa ổn mà dịch lại. Từ Hậu Hán (58 - 219) đến đời nhà Lương (502 -
556) trong khoảng 500 năm đã dịch được 419 bộ (theo Xuất Tam Tạng Ký của
Lương Tăng Hựu). Ðến đời Tống Thái Tổ (917 Tây lịch) mới khởi sự
gom tất cả bản kinh đã dịch rải rác đó đây lại khắc in thành Ðại
Tạng kinh. Lần khắc kinh này xảy ra ở Thành đô đất Thục (Tứ Xuyên)
nên gọi là Thục Bản Ðại Tạng kinh, trải qua 12 năm mới khắc xong, cộng
được 5.000 quyển. Ðây là Ðại tạng kinh đầu tiên ở Tàu. Tiếp sau đó
có các Ðại tạng kinh được khắc in như Ðông Thiền Tự Bản năm 1080,
do trú trì chùa Ðông Thiền khắc in trong 24 năm, được 6.000 quyển, rồi
đến Khai Nguyên Tự Bản khắc in năm 1112, Tư Khê Tự Bản (Triết Giang) khắc
in năm 1132, Tích Sa Bản (Giang Tô) năm 1231 do Ni sư Hoằng Ðạo khắc in
trong vòng 79 năm, Phả Ninh Tự Bản khắc in năm 1269, Hoằng Pháp Tự Bản
(Bắc Kinh) khắc in năm 1277. Bản Cao Ly khắc in theo Thuộc Bản năm 1011 -
1047 và thời Minh Trị Thiên Hoàng (1868 - 1912) tại Nhật có súc loát Ðại
Tạng kinh và Tục Tạng kinh gồm 8.534 quyển.
Từ khi khởi
sự dịch kinh với cao tăng An Thế Cao những năm 147 Tây lịch đến lúc đạt
được một số lượng kinh 8.534 quyển là đã phải trải qua bao nhiêu khó
khăn trong việc lựa chọn từ ngữ, cân nhắc văn cú mới đi đến được
sự ổn định. Như cùng một đề kinh mà năm nhà dịch với năm tên khác
nhau.
1. Ðạo Hành Bát-nhã kinh
- Hậu Hán Chi-lâu-ca-sấm (147 - 167) dịch.
2. Ðại Minh Ðộ Vô Cực kinh
- Ngô Chi Khiêm (224 TL) dịch.
3. Ma-ha Bát-nhã Sao Kinh -
Phú Tần, Ðàm-ma-tỳ (351 TL) dịch.
4. Tiểu Phẩm Bát-nhã kinh - Dao Tần, Cưu-ma-la-thập
(401) dịch.
5. Phần thứ tư trong Ðại Bát-nhã kinh - Ðường Huyền
Trang (660) dịch.
Nội dung
văn kinh trong năm bản dịch này cũng rất khác như đoạn dưới đây:
Bản 1:
"Xá-lợi-phất vị Tu-bồ-đề, vân hà hữu tâm vô tâm. Tu-bồ-đề ngôn:
Như thị, diệc bất hữu hữu tâm, diệc bất vô vô tâm" (Xá-lợi-phất
gọi Tu-bồ-đề. Thế nào là hữu tâm vô tâm? Tu-bồ-đề đáp: Như vậy
cũng chẳng có hữu tâm, cũng chẳng có vô tâm).
Bản 2:
"Hiền tử Thu Lộ tử viết: Vân hà hữu thị ý nhi ý phi ý? Thiện
nghiệp viết: Vị kỳ vô vi vô tạp niệm giả" (Hiền tử Thu Lộ tử
hỏi rằng: Thế nào có ý ấy, mà ý chẳng phải ý? Thiện nghiệp đáp:
Nghĩa là cái niệm vô vi vô tạp đó vậy).
Bản 3:
"Xá-lợi-phất vị Tu-bồ-đề, vân hà hữu tâm, tâm vô tâm? Tu-bồ-đề
ngôn: Tùng đối thức hữu tâm, tâm vô tâm, như thị, diệc bất tri giả
diệc vô tạo giả, dĩ thị diệc bất hữu hữu tâm, diệc bất hữu vô
tâm". (Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Thế nào là hữu tâm, tâm mà vô
tâm? Tu-bồ-đề đáp: Theo chỗ đối với thức mà có tâm, tâm mà không
tâm, như vậy tâm cũng chẳng biết, cũng không tạo tác, do đó cũng chẳng
có hữu tâm, cũng chẳng có vô tâm).
Bản 4:
"Xá-lợi-phất ngôn: Hà pháp vi tâm phi tâm? Tu-bồ-đề ngôn: Bất hoại
bất phân biệt" (Xá-lợi-phất hỏi: Pháp gì là tâm chẳng phải tâm?
Tu-bồ-đề đáp: Không hoại không phân biệt).
Bản 5:
"Xá-lợi-phất vấn Tu-bồ-đề ngôn: Hà đẳng danh vi tâm phi tâm tánh?
Thiện Hiện đáp ngôn: Nhược vô biến hoại, diệc vô phân biệt, thị tắc
danh vi tâm phi tâm tánh" (Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề rằng: Những gì
gọi là tâm tánh, chẳng phải tâm? Thiện Hiện đáp: Nếu không biến hoại
cũng không phân biệt, đó gọi là tâm tánh chẳng phải tâm).
Ý của đoạn
kinh này, cái tâm thông thường thì có phân biệt nhị biên, có biến hoại,
còn tâm Bát-nhã thì không phân biệt nhị biên, không biến hoại, cho nên
tuy gọi nó là tâm mà chẳng phải tâm (như tâm thông thường).
Xét đến
việc dịch từ ngữ ta cũng thấy sự chọn lựa khó khăn và đã có sự dịch
sai khác giữa các nhà dịch cũ và các nhà dịch mới. Các nhà dịch cũ vì
hoặc hiểu Phạn văn mà không hiểu Hán văn, hoặc hiểu Hán văn mà không
hiểu Phạn văn nên dịch không được chính xác và thường tối nghĩa. Còn
các nhà dịch mới vì rành cả Phạn văn và Hán văn nên dịch thường chính
xác và rõ nghĩa. Như một số từ ngữ được dẫn đối chiếu dưới đây
giữa cũ và mới.
Dịch cũ: |
Dịch mới: |
Ngũ chúng |
Ngũ ấm, ngũ uẩn |
Hữu lưu vô lưu
|
Hữu lậu vô lậu |
Sắc, thống dương,
tư tưởng, sanh tử, thức |
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức |
Tự nhiên |
Tự tánh |
Chúng hựu |
Thế Tôn |
Vô trước quả,
Ứng chơn, Ứng nghi |
A-la-hán |
Câu cản đạo
|
Tu-đà-hoàn |
Nhu thủ |
Văn thù |
Trực hành |
Chánh đạo |
Vi trì |
Vi tánh |
Ma nạp |
Trưởng giả |
Trừ Cẩn, Trừ
cẩn nữ |
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni |
Phân vệ |
Khất tức |
Trừ nhập |
Thắng xứ |
Tần lai quả |
Tư-đà-hàm |
v.v...
Bộ Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng Kinh.
Nhận thấy
các bản Ðại Tạng kinh nêu trên đã không bao gồm đủ các kinh đã được
dịch, giải, lại còn bị xiêu lạc, hư hỏng theo thời gian, gây khó khăn
cho người có chí muốn nghiên cứu kinh Phật, nên dưới triều Ðại Chánh
(1912 - 1926) ở Nhật Bản, hai bác sĩ Nhật là ông Cao Nẫm Thuận Thứ Lang
và Ðộ Biên Hải Húc đã phát đại nguyện xuất bản Ðại Tạng kinh bằng
cách gom góp, sưu tầm, tra cứu, đối chiếu, tổ chức, có hệ thống tất
cả bản kinh đã có được thành một Ðại Tạng kinh hoàn bị gồm 2.920 bộ
cộng thành một Ðại Tạng kinh 11.970 quyển, đóng thành 85 tập dày, đặt
tên là Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng kinh, ấn bản đầu tiên vào năm 1921
Tây lịch, dưới triều Ðại Chánh Nhật Bản.
Trong số 85
tập này, từ tập 1 đến tập 55 gồm kinh, luật, luận, sớ chú, sử truyện.
Từ tập thứ 56 đến 85 gồm Tục Kinh Sớ, Tục Luật Sớ, Tục Luận Sớ...
Lại trong số
2.920 bộ 11.970 quyển này chia làm hai loại: Loại A, là những kinh dịch từ
Phạn văn ra. Loại này gồm có 1.692 bộ cho 6.256 quyển mà trong đó đọ
2/3 là các kinh luật chính, còn 1/3 là những kinh có kèm lời chú giải và
các sáng tác phẩm của các vị cao tăng Ấn Ðộ.
Và trong số
các kinh dịch từ Phạn văn này những bộ kinh lớn đều có bản trùng dịch,
nghĩa là cùng một nguyên bản mà có nhiều người dịch thành ra nhiều bản.
Ví dụ trọn một bộ kinh Trường A-hàm có 30 kinh trọn 22 quyển, nhưng đã
có một người dịch trọn bộ, mà 18 người khác trích dịch từng phần
thành ra 18 bộ với số quyển không đồng nhau, khiến cho một bộ Trường
A-hàm 22 quyển đã tăng bội thành 19 bộ 80 quyển. Hoặc như một bộ kinh
Pháp Hoa 7 quyển, nhưng đã có 4 nhà dịch thành ra 4 bộ với số 25 quyển.
Trong Ðại Tạng kinh hiện nay có rất nhiều trường hợp trùng dịch như vậy,
nên số bộ và số quyển mới tăng lên tới 1.692 bộ cho 6.255 quyển như
đã nêu trên.
Loại B là
những bản kinh có kèm chú giải và những sáng tác phẩm của các nhà Phật
học Trung Hoa và Nhật Bản. Loại này gồm có 1.228 bộ cho 5.714 quyển. Sở
dĩ có tới con số này, vì có trường hợp một bản kinh mà có tới 20 người
chú giải trở thành 20 bộ với số quyển tăng lên.
Theo lời
hai bác sĩ ghi trong lời tự tựa cuốn Mục Lục Ðại Chánh Tân Tu Ðại Tạng
Kinh của họ thì Bộ Ðại Chánh Tân Tu này có 5 đặc sắc lớn:
1. Nghiêm
mật bác thiệp, bởi nó thu góp đầy đủ không những các kinh đã lưu
hành từ trước mà luôn cả các bản kinh mới phát quật ở các quốc thổ
xưa như Vu Ðiển, Ðôn Hoàng, Qui Tư, Cao Xương v.v... và những văn kinh xưa
dưới thời Lục Triều, những thủ bản dưới thời Ðường, Tống tản mát
trong các danh lam cổ sát.
2. Chu đáo
thanh tân, bởi nó có sự đối chiếu, cân nhắc chia thành bộ loại như
A-hàm bộ, Bát-nhã bộ, Pháp Hoa bộ v.v... những kinh nào nghi là ngụy tạo
thì in riêng chứ không để xen lộn trong các kinh khác. Nếu trong kinh văn gặp
câu hoặc chữ nào thấy có sự sai khác giữa các bản thì đều có bị
chú ở dưới mỗi trang rất rõ ràng, tối tân.
3. Phạn
Hán đối khán, bởi nó có sự đối chiếu giữa văn kinh chữ Phạn và
chữ Hán, từ đó nếu gặp tên kinh, tên xứ, tên người v.v... cần thiết,
thì đều có ghi thêm chữ Phạn hoặc Pali ở dưới mỗi trang.
4. Nội
dung sách dẫn, bởi nó có bản đối chiếu sách dẫn các tên kinh và
các từ ngữ trong các kinh.
5. Tiện
lợi. Rất tiện lợi cho việc tra cứu và mang theo. Nó được xem là Ðại
Tạng kinh đầy đủ có tổ chức nhất hiện nay, giúp cho các nhà Phật học
khắp thế giới bằng vào để nghiên cứu hoặc trích dẫn.
Ảnh hưởng của văn khí đối với nền văn học Trung Hoa.
Theo nhận xét
của nhà đại học giả Trung Hoa là ông Lương Khải Siêu đăng trong cuốn
Phật Học Nghiên Cứu Thập Bát Thiên của ông xuất bản tháng 4 năm 1930
thì văn kinh dịch từ Phạn ra Hán có một ảnh hường rất lớn đối với
nền văn học Trung Hoa:
1. Ảnh
hưởng trên từ ngữ. Theo ông Lương Khải Siêu 35.000 từ trong bộ Phật
Giáo Ðại Từ Ðiển của người Nhật là 35.000 từ do các vị cao tăng sáng
tạo để dịch kinh, nó đã nghiễm nhiên trở thành một bộ phận trong văn
học Trung Hoa. Thêm vào 35.000 từ tức là thêm vào 35.000 quan niệm. Trong đó
có những từ Trung Hoa nhưng lại được mang vào một ý nghĩa mới, như
"Chân như", "Vô minh", "Pháp giới", "Thiền định",
"Chúng sanh", "Nhân duyên", "Quả báo" v.v... và những
từ đọc theo âm chữ Phạn lâu ngày thành quen như "Niết-bàn",
"Bát-nhã", "Du-già", "Sát-na", "Do tuần",
"Hằng-hà" v.v... Ðây là những từ theo ngài Huyền Trang nó nằm
ở trong năm trường hợp không dịch nghĩa (ngũ chủng bất phiên):
1. Vì bí mật như chữ Ðà-la-ni, Ta-bà-ha;
2. Vì hàm nhiều nghĩa như chữ Bạt-già-phạm, A-la-hán;
3. Vì ở Trung Hoa không có thứ đó như chữ Diêm-phù-đề (cây);
4. Vì giữ theo người dịch xưa như
chữ A-nậu-bồ-đề;
5. Vì để sanh tâm trọng thị như chữ Bát-nhã v.v...
2. Ảnh hưởng
trên ngữ pháp và văn thể. Ðiều rất dễ nhận thấy trong văn kinh Phật
giáo không dùng chi, hồ, giả, dã, hỷ, yên, tai, như trong văn chương Trung
Hoa; không dùng lối biền ngẫu hoa mỹ; không rập theo cách điệu cổ văn;
cú pháp có nhiều đảo trạng; trong một câu hoặc một đoạn có bao hàm lời
giải thích; văn ngữ nhiều lặp lại; có khi từ 10 đến 20 chữ làm thành
một danh từ bao hàm hình dung cách; tảng văn và thi kệ xen nhau trong một
đoạn; thi kệ không có vận. Ðó là một lối cấu tạo hình thức văn học
rất mới đối với Trung Hoa, mà khi đọc đến tất cảm thấy một hòa
điệu êm đẹp và người có công lớn trong việc này là ngài La-thập và
môn đệ của ngài.
3. Ảnh hưởng
đến tình hình phát triển văn học.
Việc
dịch kinh Phật đã kích thích cuộc cách mạng trong văn học Trung Hoa. Tập
thơ dài đầu tiên trong các bài thơ cổ của Trung Hoa, tập "Khổng Tước
Ðông Nam Phi" và những áng văn học thuần của Trung Hoa cận đại như
tiểu thuyết, ca khúc đều có chịu ảnh hưởng mật thiết từ lối văn dịch kinh Phật, nhất là từ bộ
"Phật Bổn Hạnh Tán" của Bồ-tát Mã Minh. Bộ này là một bản
trường ca trên 30.000 tiếng, như là một bộ tiểu thuyết, đã lấy nguyên
liệu từ bốn bộ A-hàm. Chính văn kinh Phật đã giúp cho giới văn nghệ
Trung Hoa giàu khả năng tưởng tượng, cách tân bút pháp, như loại văn bạch
thoại, các bộ tiểu thuyết Tây Du
Ký, Sưu Thần Ký, Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng là những tác phẩm đã chịu
ảnh hưởng không ít từ các bộ Ðại Trang Nghiêm kinh luận, kinh Hoa
Nghiêm, kinh Ðại bát Niết-bàn, cho đến các bản tập dịch, truyền kỳ,
đan từ các trường thiên ca khúc từ đời Tống, Nguyên, Minh về sau, cũng
đã gián tiếp chịu ảnh hưởng các bộ Phật Bổn Hạnh Tán v.v... (xem
thêm bài "Phật Giáo cống hiến gì cho nước Trung Quốc" trong cuốn
"Phật Giáo Chính Tín" của Thánh Nghiêm).
Hồ Thích,
một học giả lớn hiện đại của Trung Hoa cũng có nhận định tương tự
khi ông viết trong Hồ Thích Văn Tồn (và được dẫn bởi sách Phật Giáo
Chính Tín của Thánh Nghiêm) như sau: "Trong các kinh do Cưu-ma-la-thập dịch
có các bộ kinh Kim Cang, Pháp Hoa và Duy-ma-cật được lưu hành rất rộng
rãi và lâu dài, đã có ảnh hưởng không nhỏ trong giới văn học và mỹ
thuật của Trung Hoa. Bộ kinh Pháp Hoa tuy không phải là tiểu thuyết, nhưng
là cuốn sách có nhiều ý vị văn học, trong đó có một số truyện ngụ
ngôn đẹp nhất trong văn học thế giới".
Ảnh hưởng của kinh Phật đến
học thuyết đạo Khổng.
Trong cuốn
Nhân sanh quan và thơ văn Trung Hoa (Nguyễn Hiến Lê dịch in năm 1970) ông
Lâm Ngữ Ðường, một đại văn hào Trung Hoa cận đại viết: "Ảnh
hưởng của đạo Phật lớn tới nỗi cãi tạo được học thuyết của đạo
Khổng. Từ đời Chu trở đi, các học giả theo Khổng giáo đại để chỉ
làm cái việc hiệu đính, chú thích kinh thư của Thánh Hiền. Từ khi đạo
Phật du nhập Trung Quốc có lẽ vào thế kỷ thứ nhất, mới phát sinh
phong trào nghiên cứu đạo Phật. Phong trào đó tiến đều trong các triều
đại Bắc Ngụy và Ðông Tấn. Các học giả theo Khổng giáo chịu ảnh hưởng
đó, thay đổi học phong, bớt công việc hiệu đính, chú thích mà nghiên cứu
dịch lý.
Ðời Tống
do ảnh hưởng của đạo Phật mà Khổng giáo có thêm được mấy học phái
mới, gọi là phái Lý học. Những học phái đó vẫn theo truyền thống luận
về đạo đức, nhưng những danh từ Tinh, Lý, Mệnh, Tâm, Vật, Tri đã có
một giá trị đặc biệt, được đem ra bàn đi bàn lại (địa vị mấy tiếng
đó cũng quan trọng như mấy tiếng nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thời Khổng
Mạnh). Phong trào nghiên cứu kinh Dịch (một bộ bàn về những biến hóa của
nhân sự) đột nhiên phát triển mạnh.
Tất cả
các nhà Nho đời Tống, nhất là anh em họ Trình (Trình Minh Ðạo, Trình Y
Xuyên) đều nghiên cứu kỹ Phật giáo và thêm được nhiều kiến giải mới
khi quay trở về đạo Khổng. Chẳng hạn
Lục Cửu Uyên dùng một danh từ của đạo Phật, tiếng "giác",
"giác ngộ" để trỏ sự nhận thức được chân lý. Ðạo Phật
đã làm thay đổi được tính cách của học thuyết Khổng Mạnh. Ảnh hưởng
của nó tới các nhà thơ như Tô Ðông Pha cũng mạnh như vậy. Bọn văn nhân
có phản kháng học thuyết của các nhà lý học mà dùng một bút pháp nhẹ
nhàng, một tinh thần tài tử, du hý để khen đạo Phật!
Khái quát
trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật
giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới. Chính từ Ðại Tạng kinh Hán văn mới có Ðại Tạng
kinh Nhật văn, Triều Tiên văn. Văn hóa Trung Hoa ảnh hưởng khắp vùng
Ðông Á và thế giới. Ðại Tạng kinh Hán văn cũng ảnh hưởng khắp vùng
Ðông Á và thế giới. Nếu không nhờ các vị cao tăng, cư sĩ phát đại
nguyện đại hạnh và chí nguyện truyền bá Chánh pháp, vượt bỏ gian nan,
một mình một bóng mòn gót trên bước đường hiểm trở lần tới Trung
Hoa kiên trì dịch thuật lâu dài, thì đã không thể có được một kho tàng
kinh điển Hán tự đồ sộ như ngày nay cho chúng ta học đạo và nghiên cứu!