Chú Nghĩa
Kinh A Di Đà
Kinh
khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn
và được tất cả
các đức Phật hộ niệm
- Phần C
– Danh hiệu Phật như hóa thân Phật bất tư nghì, vì
luôn hiện thân Phật ngay nơi thân và tâm của người xưng niệm danh hiệu A
Di Đà Phật.
Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội Kinh
chú
nghĩa Kinh A Di Đà kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn và
được tất cả các đức Phật hộ niệm
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật
Phật nói
Kinh A Di Đà, tức là kinh A Di Đà tiểu bổn, còn gọi là kinh khen ngợi công
đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả các đức Phật hộ niệm, ý lời rất sâu
xa diệu nghĩa, do đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng nói, khai thị về pháp môn
niệm Phật.
Đại bổn
kinh A Di Đà là Vô Lượng Thọ Kinh, với 48 lời nguyện của đức Phật A Di Đà.
Tiểu bổn
nầy, đời Hậu Tần (383-416), ngài Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập phụng
chiếu của vua Dao Hưng, dịch từ Phạn ngữ ra Hán văn, vào năm 402, tại chùa
Thảo Đường ở xứ Trung Quốc thời đó. Bản dịch Hán ngữ của ngài Cưu Ma La
Thập đã được dùng làm kinh nhật tụng cho các thời khóa công phu và được
xem là định bản để dùng cho các bộ A Di Đà chú giải cũng như đã được dịch
ra nhiều ngôn ngữ khác.
Pháp sư Cưu
Ma La Thập, tức là ngài Đồng Thọ, người xứ Thiên Trúc (Ấn Độ), là vị Pháp
sư đã phiên dịch trên 380 quyển kinh Phật từ tiếng Phạn ra tiếng Hán. Đồng
Thọ, có nghĩa là vị đồng tử có tuổi thọ rất lâu dài.
Phần Tự
Phật nói về thế giới Cực Lạc ở phương Tây
Lời mở đầu
của bản kinh A Di Đà, như sau:
Câu hội tại
vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc
KINH: “Tôi
nghe như vầy. Một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ, nơi vườn của ông Cấp Cô Độc
và cây của ông Kỳ Đà, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ Kheo
tụ hội, đều là bậc đại A La Hán mà mọi người biết đến: Trưởng lão Xá Lợi
Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu
Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Dà, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều
Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc
Câu La, A Nậu Lầu Đà, các đại đệ tử như thế.”
Tôi nghe
như vầy (như thị ngã văn) là chính ngài A Nan đã nghe và thuật lại đúng y
như vậy những lời của Phật Thích Ca nói.
Kỳ Đà Cấp
Cô Độc là tên của 2 ông Kỳ Đà và Cấp Cô Độc. Trưởng giả Cấp Cô Độc (người
giúp đỡ kẻ cô thân nghèo khốn) là ông Tu Đạt Đa, rất giàu có và nhân hậu,
đã dùng vàng trải trên mặt đất để mua mảnh vườn của thái tử Kỳ Đà, làm
Tịnh Xá cho Phật và Tăng chúng. Thái tử Kỳ Đà là con của vua Ba Tư Nặc.
Những hàng cây trong vườn là của thái tử Kỳ Đà cúng dường cho đức Phật. Vì
thế, khu vườn nầy được gọi là Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên (cây của ông Kỳ Đà và
vườn của ông Cấp Cô Độc), còn gọi là Kỳ Viên Tịnh Xá Jetavana.
Xá Vệ
(tiếng Pali: Savatthi, tiếng Phạn: Sravasti) là kinh đô nước Kosala của
vua Ba Tư Nặc ở xứ Ấn Độ thời đó, nằm ở khoảng giữa của 3 nơi giáp quanh
là sông Hằng, vườn Lâm Tỳ Ni (gần thành Ca Tỳ La Vệ, nơi Phật đản sanh) và
dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (biên giới Nepal).
Tỳ Kheo (có
3 nghĩa: Khất Sĩ, Phá Ác, Bố Ma) là các vị thầy tu xuất gia, thọ 250 giới
cụ túc của Phật (người nữ xuất gia, gọi là Tỳ Kheo Ni). Khất Sĩ là người
tìm cầu pháp giải thoát của Phật và sống bằng lòng nhân hậu của thí chủ
cúng dường. Phá Ác là phá trừ phiền não và ngã chấp. Bố Ma là khiến các
loài ma phải khiếp sợ.
Các vị đại
Tỳ Kheo đến dự pháp hội đều là những bậc đã chứng đắc quả vị A La Hán. A
La Hán (có 3 nghĩa: Ứng Cúng, Sát Tặc, Vô Sanh) là người đã đạt được sự
giải thoát và đoạn dứt tất cả mọi phiền não. A La Hán là quả vị cao nhất
trong bốn quả Thanh Văn, là bậc Thánh, đã chứng đắc viên mãn tuệ, còn gọi
là Bất Sinh. Ứng Cúng là xứng đáng được mọi người cúng dường. Sát Tặc là
diệt trừ tất cả giặc phiền não. Vô Sanh là không còn trong vòng sanh tử.
Những vị
đại Tỳ Kheo có đạo hạnh cao, xuất gia lâu năm, lớn tuổi, có tài biện luận
và lý giải, được mọi người tôn quý và kính ngưỡng, gọi là Trưởng lão
(người lớn tuổi), hoặc Tôn giả (người xứng đáng được tôn kính).
Các ngài Xá
Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên… đều là
những vị Trưởng lão mà mọi người quen biết vì các ngài là những đại đệ tử
rất thường đi theo và gần gũi đức Phật.
Những vị
đại đệ tử như thế (như thị đẳng chư đại đệ tử) đã đến tham dự pháp hội và
nhiều vị đại đệ tử khác cũng cùng đến câu hội, tất cả là 1.250 vị. Câu hội
là cùng đến tụ hội ở một nơi, để cùng nhau tham dự pháp lễ.
Trong số
1.250 vị đại Tỳ Kheo đến câu hội (1.000 vị là các đệ tử của 3 anh em ngài
Ca Diếp, 200 vị là các đệ tử của 2 ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, 50
vị là các đệ tử của ngài Da Xá Tử) có 16 vị đại Trưởng lão đã được nêu
tên, làm chứng tín cho lời thuật lại của ngài A Nan trong bản kinh A Di
Đà:
– Xá Lợi
Phất (còn gọi là Xá Lợi Tử) là con của bà Xá Lợi (tiếng Hán là Thu Lộ).
Ngài là người có trí tuệ cao siêu đệ nhất trong hàng đại đệ tử của Phật,
có tài diễn thuyết và nghị luận.
– Ma Ha Mục
Kiền Liên (con của bà Thanh Đề) là bạn thân của ngài Xá Lợi Phất, là người
có thần thông đệ nhất trong hàng Thanh Văn đại đệ tử của Phật.
– Ma Ha Ca
Diếp, có nghĩa là Ấm Quang (vì thân sắc của ngài luôn tỏa ra ánh sáng chói
ngời), là người tu khổ hạnh đệ nhất (hạnh đầu đà) trong hàng đại đệ tử của
Phật và là người đã được Phật Thích Ca trao cho y bát.
– Ma Ha Ca
Chiên Diên là người có tài biện thuyết phi thường nên được đại chúng tôn
xưng là người luận nghị đệ nhất.
– Ma Ha Câu
Hy La là cậu ruột của ngài Xá Lợi Phất, là người có tài vấn đáp đệ nhất
trong hàng đại Tỳ Kheo của Phật.
– Ly Bà Đa
là người hiểu biết thông suốt mọi lý lẽ các pháp, không bao giờ nghi ngờ
lời Phật dạy, có định lực ngồi thiền rất cao, nên được đại chúng tôn xưng
là bậc đệ nhất không điên đảo trong hàng đại đệ tử của Phật.
– Châu Lợi
Bàn Đà Dà là người dốt chữ và rất chậm hiểu. Sau khi chứng đạo, ngài thấu
suốt hết mọi nghĩa lý trong kinh điển, vì vậy được đại chúng tôn xưng là
bậc liễu nghĩa đệ nhất.
– Nan Đà là
em cùng cha khác mẹ với Phật, là người có tướng hảo rất trang nghiêm, nên
được đại chúng tôn xưng là người có dung nghi đệ nhất trong hàng đại Tỳ
Kheo của Phật.
– A Nan Đà,
gọi tắt là A Nan, có nghĩa là Khánh Hỷ, con người chú (vua Hộc Phạn), là
thị giả (người hầu cận) của đức Phật lúc còn tại thế. Ngài là người đa văn
đệ nhất trong hàng Thanh Văn đại đệ tử của Phật, có biệt tài về chữ nghĩa
và trí nhớ siêu phàm. Tất cả kinh Phật đều là do ngài A Nan ghi nhớ và
thuật lại.
– La Hầu
La, có nghĩa là sự trói buộc (Phú Chướng), là con của thái tử Sĩ Đạt Đa
(còn gọi là Tất Đạt Đa, tức là đức Phật Thích Ca trước khi xuất gia). Ngài
La Hầu La được đại chúng tôn xưng là người có mật hạnh đệ nhất trong số
các đại đệ tử Thanh Văn của Phật.
– Kiều Phạm
Ba Đề là người được chư Thiên cúng dường đệ nhất trong hàng Tỳ Kheo đại đệ
tử của Phật.
– Tân Đầu
Lô Phả La Đọa là người được tôn xưng có phước điền đệ nhất trong hàng đại
đệ tử của Phật, vì ngài là ruộng phước ở cõi trần gian để mọi người gieo
hạt giống lành (cúng dường).
– Ca Lưu Đà
Di là người được đại chúng tôn xưng là bậc giáo hóa đệ nhất trong số các
đại đệ tử của Phật, có tài thuyết phục mọi người.
– Ma Ha
Kiếp Tân Na là người có tài thiên văn đệ nhất trong hàng Thanh Văn đại đệ
tử của Phật.
– Bạc Câu
La là người có thọ mạng đệ nhất trong hàng đại đệ tử của Phật, sống lâu
160 tuổi trong 91 kiếp.
– A Nậu Lầu Đà (còn gọi là A Na Luật) là người
khất sĩ mù (vì tinh tấn tu tập suốt 7 ngày đêm không ngủ nghỉ). Sau khi
chứng đạo, ngài là người có thiên nhãn thông đệ nhất trong số các hàng Tỳ
Kheo đại đệ tử của Phật.
KINH: “Lại
có hàng đại Bồ Tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà
Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, cùng với các đại Bồ Tát như thế, và
Thích Đề Hoàn Nhân, vô số chư Thiên, tất cả đại chúng dự hội.”
Trong số
chư vị Bồ Tát đến câu hội, có 4 vị đại Bồ Tát đã được nêu tên, làm chứng
tín cho lời thuật lại của ngài A Nan trong bản kinh A Di Đà. Đó là các
ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Thường
Tinh Tấn Bồ Tát. Những vị đại Bồ Tát như thế (như thị đẳng chư đại Bồ Tát)
đã đến tham dự pháp hội và nhiều vị đại Bồ Tát khác cũng cùng đến câu hội:
– Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát là người đứng đầu trong hàng Bồ Tát của Phật, là vị đại Bồ
Tát có trí tuệ bất khả tư nghì, nên được đại chúng tôn xưng là bậc Diệu
Đức. Thời Phật còn tại thế, ngài đang tu hành hướng về Phật quả viên mãn,
sẽ thành Phật sau đức Thế Tôn, vì vậy ngài được gọi là Pháp Vương Tử (con
của vua pháp). Tiền thân, ngài là người con thứ 3 của vua Vô Tránh Niệm
(tức là đức Phật A Di Đà trước khi xuất gia).
– A Dật Đa
Bồ Tát (có nghĩa là Vô Năng Thắng), tức là đức Di Lặc Bồ Tát (tiếng Hán là
Từ Thị), là vị đại Bồ Tát thuộc hàng nhất sanh bổ xứ của Phật, phát tín
tâm nơi pháp môn Tịnh Độ. Ngài hiện đang thuyết pháp ở cung Trời Đâu Suất,
tương lai hạ sanh vào thế giới Ta Bà và sẽ thành Phật tại hội Long Hoa.
Tiền thân, đức Di Lặc là đệ tử của ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử.
– Càn Đà Ha
Đề Bồ Tát (có nghĩa là Bất Hưu Tức), là vị đại Bồ Tát tu tập rất tinh tấn,
đã trải qua bao nhiêu số kiếp mà vẫn không
ngừng nghỉ tu tập.
– Thường
Tinh Tấn Bồ Tát là vị đại Bồ Tát thường luôn kiên trì tu tập hạnh tự lợi
và lợi tha, giáo hóa và cứu độ chúng sanh không bao giờ chán mỏi.
4 vị đại Bồ
Tát nầy (Bồ Tát Ma Ha Tát) là những bậc mô phạm, đầy đủ công đức trí tuệ
và đạo hạnh, đại diện cho chánh pháp Đại Thừa của Phật, biểu trưng cho 4
Thánh đức: Trí Tín Nguyện Hạnh.
- Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi, biểu trưng cho Trí
- Bồ Tát A
Dật Đa, biểu trưng cho Tín
- Bồ Tát
Càn Đà Ha Đề, biểu trưng cho Nguyện
- Bồ Tát
Thường Tinh Tấn, biểu trưng cho Hạnh
Lại có ngài
Thích Đề Hoàn Nhân, là vị vua Đế Thích ở cung Trời Đao Lợi trên đỉnh núi
Tu Di, chủ tể của 33 cõi Thiên, cùng với vô lượng vô số các vị Thần, chư
Thiên, các loài Rồng, các vị A Tu La, các vị Trưởng giả, các vị Cư sĩ cùng
gia đình quyến thuộc… tất cả đại chúng đều đến tham dự pháp hội.
Tu Di là
ngọn núi lớn nhất thế giới (Tu Di sơn vương), cao 84.000 do tuần, bằng 4
chất báu sáng ngời là vàng bạc lưu ly pha lê, ở trung tâm điểm của vũ trụ,
là trú xứ của chư Thiên. Trên đỉnh núi là cõi Đao Lợi của vua Đế Thích, ở
khoảng giữa lưng chừng núi là 4 cõi Trời của Tứ Đại Thiên Vương (mỗi vị ở
mỗi phương: Đông, Tây, Nam, Bắc), các cõi nầy nương theo ánh sáng của mặt
trời. Từ đỉnh núi lên cao hơn nữa là 28 cõi Trời khác nương theo mây, có
ánh sáng riêng ở mỗi cõi. Tổng cộng tất cả là 33 cõi. Do tuần (yojana), số
dặm của Ấn Độ, có rất nhiều hạng: 30 dặm, 40 dặm, 60 dặm,
tính theo dặm Tàu. 1 dặm Tàu là 500 mét (0.5
km).
Thế nào là
Tri-Tín-Nguyện-Hạnh?
Tri-Tín-Nguyện-Hạnh được xem là 4 món lương thảo (gọi là tứ tư lương: hiểu
sâu, tin chắc, nguyện thiết, hành chuyên) rất cần thiết cho người niệm
Phật, để dựa theo đó làm phương hướng tu hành. Mỗi món đều cần nhau, nương
vào nhau, không thể thiếu bất cứ một món nào. Nếu không hiểu sâu thì tin
sẽ không chắc. Nếu tin không chắc thì nguyện sẽ không thiết tha. Nguyện
không thiết tha, vì niềm tin không chắc, thì làm sao có thể hành cho
chuyên. Vì vậy mà nói, tất cả đều là những lương thảo rất cần thiết, làm
hành trang 6 thời cho người tìm học và tu trì theo pháp môn Niệm Phật Tam
Muội.
– Tri là
hiểu sâu. Tìm học để thấu suốt diệu nghĩa của chánh pháp. Khi hiểu sâu thì
TRI tức là TRÍ, tức là Văn Huệ và Tư Huệ, trí tuệ đạt được do sự lắng
nghe, tìm học, suy luận về những nghĩa lý nhiệm mầu trong kinh điển. Nếu
không có nhiều thời gian để nghiên cứu về Phật pháp, thì chỉ cần học hiểu
cho rốt ráo mọi nghĩa lý sâu kín của bản kinh A Di Đà, rồi theo đó mà thọ
trì, thì cũng là đầy đủ. Nếu có thời giờ, nên thường đọc kinh A Di Đà, mỗi
ngày một lần, mỗi lần đọc sẽ hiểu thêm một chút sâu xa hơn, cho niềm tin
được vững vàng, để thọ trì đúng pháp, cảm ứng sự diệu mầu trong lời Phật
dạy.
– Tín là
tin chắc. Tin vào lời của Phật Thích Ca, tin vào lý nhân quả, tin vào luật
luân hồi và nghiệp báo, tin thật có thế giới Cực Lạc ở phương Tây, tin có
cõi Tịnh Độ ở trong tâm mình, tin vào 48 lời nguyện của đức Phật A Di Đà,
tự tin chính mình cũng có khả năng thành Phật.
– Nguyện là
nguyện thiết. Tha thiết cầu vãng sanh về cõi Tây phương Cực Lạc, tu tạo
công đức và đạo hạnh để sớm đạt thành Phật quả, giải thoát chính mình và
cứu độ chúng sanh.
– Hạnh là
hành chuyên, trên cả 2 mặt Thiện nghiệp và Tịnh nghiệp. Nghĩa là phải nỗ
lực gieo trồng những nghiệp lành, nắm giữ các thiện pháp, tránh làm những
điều ác, thực hành hạnh bố thí và tha thứ, thường xuyên sám hối tu sửa tâm
tánh, không hại người và vật, không báo thù người, nghiêm giữ giới luật,
tinh tấn trì niệm A Di Đà để chuyên nhất tâm tưởng, dùng câu Phật hiệu để
diệt trừ mọi tà ý sân niệm sanh khởi, tâm tưởng ngày đêm hướng về các cõi
lành và các điều lành, hồi hướng công đức về Cực Lạc và chúng sanh muôn
loài.
Bốn món tư
lương Tri-Tín-Nguyện-Hạnh là hành trang tu đạo mà người niệm Phật phải nắm
chặt lấy. Hãy giúp đỡ và hỗ trợ lẫn nhau, cùng tiến tu đến quả vị cứu cánh
Niết Bàn ngay trong kiếp nầy. Chúng ta hãy cùng nhau cố gắng, ráng làm cho
xong trong một đời nầy. Hãy tinh tấn tu trì, với niềm tin thật vững chắc,
tin ở khả năng tự lực của chính mình, tin ở sức mạnh hộ trì của chư Phật
mười phương. Người niệm Phật phải thiết tha một lòng hướng nguyện sanh về
cõi nước Phật A Di Đà. Đức Thế Tôn đã dạy, niềm tin ở chánh pháp là cửa
vào của pháp môn Niệm Phật Tam Muội, người niệm Phật nhất định phải thành
Phật.
Người tu
trì theo pháp niệm Phật phải phát tâm Bồ Đề vô thượng, tu tập Giới Niệm
Định Huệ, ngày đêm 6 thời thành kính thọ trì danh hiệu A Di Đà Phật. Phát
tâm Bồ Đề vô thượng là tìm cầu giải thoát để thành Phật, tu tập theo hạnh
của Phật và chư đại Bồ Tát.
Thế nào là
Nhân Quả?
Nhân Quả là
nguyên nhân và kết quả. Hễ gieo nhân gì thì gặp quả đó. Nếu không có nhân
thì không có quả. Trồng nhân tốt thì được quả tốt. Trồng nhân xấu thì bị
quả xấu. Làm việc thiện thì được quả thiện. Làm việc ác thì bị quả ác. Sự
chuyển tiếp từ Nhân để trở thành Quả do bởi các trợ duyên. Nhân và Quả
tiếp nối với nhau và tương quan vào nhau, trong nhân có quả, trong quả có
nhân, có nhân thì sẽ có quả, có quả thì sẽ có nhân mới. Đó là chân lý bất
biến của vũ trụ vạn thể.
Thế nào là
Luân Hồi?
Luân Hồi là
bánh xe quay vòng và liên tục, tác động trên mọi người và mọi loài, dựa
trên lý Nhân Quả mà chuyển tiếp, từ Nhân thành ra Quả, từ Quả thành ra
Nhân mới, du hành liên tục qua 6 cõi: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A Tu
La, Người, Trời (gọi là Lục Đạo).
(Ngạ quỷ là
loài quỷ đói vì cổ họng chỉ nhỏ bằng ống kim nên không thể
ăn được nhiều. A Tu La là loại thần Phi Thiên,
tánh khí rất nóng nảy và hung bạo, sống ở cõi Người hoặc cõi Thiên.)
Theo định
luật Luân Hồi, khi chết đi không có nghĩa là đã đoạn diệt mất hẳn tất cả
(đó là lối chấp đoạn), cũng không có nghĩa là linh hồn vẫn thường còn để
đầu thai trở lại làm người (đó là lối chấp thường), mà là chúng nhận chịu
sự chi phối trên lý Nhân Quả và luật Nghiệp Báo để chuyển tiếp đến 1 trong
6 cõi luân hồi.
Nếu khi
sống, mình gieo nhân tốt, nghiệp tốt, thì khi chết sẽ được chuyển đến cảnh
giới tốt, thân tốt. Nếu khi sống, mình gieo nhân xấu, nghiệp xấu, thì khi
chết sẽ bị chuyển đến cảnh giới xấu, thân xấu. Đó là định luật chuyển tiếp
quay vòng của tất cả vạn vật nhân sinh nơi cõi Ta Bà.
Muốn thoát
khỏi vòng sanh tử luân hồi trong 6 cõi và đạt đến cảnh giới
an vui vĩnh hằng thì bản thân phải tu đạo giải
thoát, phải gieo nhân giải thoát, phải hành theo các pháp lành, ngay trong
kiếp hiện tại nầy.
Con đường
đưa đến sự giải thoát nhiệm mầu mà đức Phật Thích Ca đã trao dạy suốt 25
thế kỷ qua, là pháp môn Niệm Phật Tam Muội (tức là thọ trì danh hiệu Phật,
tu tạo công đức và đạo hạnh, phát nguyện sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật
A Di Đà).
Thế nào là
Nghiệp Báo?
Nghiệp là
hành động có tác ý, nghĩa là có ý muốn làm như vậy. Những hành động có sự
chỉ đạo của tâm thức thì sẽ tạo Nghiệp. Những hành động vô ý mà làm thì
không tạo Nghiệp. Nghiệp được tạo ra từ những biểu hiện qua hành động (gọi
là thân nghiệp), qua lời nói (gọi là khẩu nghiệp), qua ý nghĩ (gọi là ý
nghiệp).
Những ác
nghiệp tạo ra trong ý mà nếu được ngăn lại, sám hối, tẩy trừ, đoạn diệt,
thì tâm sẽ trở lại trong sạch và không tạo ý nghiệp. Nhưng nếu tà ý đó
được thể hiện ra lời nói, qua hành động, thì sẽ tạo ra Nghiệp.
Một hành
động xấu thì tạo ra một thân nghiệp xấu. Một lời nói ác thì tạo ra một
khẩu nghiệp ác. Một ý tưởng tà bậy thì tạo ra một ý nghiệp xấu. Nghiệp tốt
thì sẽ thành Quả tốt. Nghiệp xấu thì sẽ thành Quả xấu. Đó gọi là Nghiệp
Báo, dựa trên định luật Nhân Quả.
Sự báo ứng
của Nghiệp (gọi là Nghiệp báo) sẽ ngay trong kiếp hiện tại nầy (gọi là
Hiện nghiệp), hoặc có thể sẽ là ở kiếp sau, hoặc những kiếp mai sau nào
đó, tùy theo cái sức của Nghiệp đó nặng hoặc nhẹ, tùy theo cái phước đã
được tích lũy từ nhiều kiếp trước của người đã gây ra Nghiệp, mà việc trả
Nghiệp sẽ đến nhanh, hoặc chậm (gọi là Hậu nghiệp).
Có 2 thứ
Nghiệp báo:
– Biệt
nghiệp: nghiệp do riêng mình tạo ra và chỉ riêng mình sẽ nhận lấy nghiệp
báo ấy.
– Cộng
nghiệp (còn gọi là Đồng nghiệp): nghiệp do mình tạo ra và người khác cũng
có ít nhiều nghiệp duyên trong đó, hoặc do người khác tạo ra và mình cũng
gây tạo những nghiệp tương tự như vậy, thì mình và nhiều người sẽ cùng
chịu ảnh hưởng chung của nghiệp báo ấy.
Y báo và Chánh báo
KINH: “Bấy
giờ, Phật bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất: Từ đây tới phương Tây, trải qua mười
vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc. Trong cõi đó, có đức Phật
hiệu A Di Đà, hiện đang nói pháp.”
Từ đây, tức
là vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, hướng về phía Tây, trải qua mười vạn
ức cõi Phật (thập vạn ức Phật độ), nghĩa là cách xa nơi nầy 10 tỷ thế giới
của các đức Phật, có thế giới tên là Cực Lạc (y báo) của đức Phật hiệu A
Di Đà (chánh báo), ngài hiện đang thuyết pháp cho đại chúng trong cõi nước
của ngài (kim hiện tại thuyết pháp). Trong kinh Hoa Nghiêm nói:
“ÔÛ Ta Baø theá
giôùi coõi cuûa Thích Ca Maâu Ni Phaät ñaây moät kieáp, nôi Cöïc Laïc theá
giôùi, coõi A Di Ñaø Phaät laø moät ngaøy moät ñeâm”.
Một tiểu kiếp của con người ở thế giới Ta Bà tương đương 16 triệu
năm sinh tử. Vì thế, đức Thế Tôn nói Phật A Di Đà hiện bây giờ đang nói
pháp.
Theo Hán
Việt tự điển, 1 vạn là 10 ngàn. 1 ức là 10 vạn, tức là 100.000 (10 x
10.000 tính theo số mục của thời xưa). Thập vạn ức là 10 tỷ (10 x 10.000 x
100.000).
Thế nào là
Chánh báo? Chánh báo là quả báo chánh, là thân tâm của con người, do những
nghiệp duyên từ nhiều kiếp trước mà cảm ứng và sanh ra như vậy. Ở đây,
Chánh báo là nói về Phật A Di Đà và các hàng đệ tử Thanh Văn, Duyên Giác,
Bồ Tát trong cõi nước của ngài.
Thế nào là
Y báo? Y báo là quả báo phụ, theo liền với Chánh báo, là tất cả những gì
nương theo thân mạng và đời sống của con người, như nhà cửa, đất đai, tiền
bạc... Ở đây, Y báo là nói về cõi nước Cực Lạc ở phương Tây.
– Trước
mặt, hướng về phía mặt trời mọc là phương Đông. Sau lưng, hướng về phía
mặt trời lặn là phương Tây. Bên tay trái là phương Bắc, bên tay phải là
phương Nam. Thế giới mà chúng ta đang sinh sống đây là 1 tiểu thế giới,
tương đương với 1 thái dương hệ (nơi có ánh sáng mặt trời). Cõi Cực Lạc ở
về phương Tây của nước Xá Vệ (Savatthi), cách xa thế giới Ta Bà 10 tỷ cõi
Phật, tương đương với 10 tỷ thái dương hệ. Ta Bà (tiếng Phạn), có nghĩa là
Kham Nhẫn, tức là thế giới trần gian ngập đầy những khổ đau trầm luân và
ác chướng mà con người khó lòng chịu đựng nổi.
Phần Chánh Tông
Cõi nước Cực Lạc và đức Phật A Di Đà, nhân
hạnh để được vãng sanh
Y báo vô cùng trang nghiêm
KINH: “Xá
Lợi Phất, vì sao cõi đó tên là Cực Lạc?”
Đây là câu
hỏi thứ nhất trong 3 câu hỏi, mà đức Phật đã hỏi ngài Xá Lợi Phất trong
pháp hội giảng nói kinh A Di Đà. Phật hỏi ngài Xá Lợi Phất vì ngài là
người có trí tuệ bậc nhất trong hàng Thanh Văn đại đệ tử của Phật, có đầy
đủ trí huệ để có thể hiểu và có thể tin về những sự mầu nhiệm ở thế giới
Cực Lạc.
KINH: “Vì
chúng sanh trong cõi nước đó không có những sự khổ, chỉ thọ hưởng các điều
vui, nên cõi đó tên là Cực Lạc.”
Thế giới
Cực Lạc là thế giới công đức của Phật A Di Đà ở phương Tây, cách xa nơi
nầy 10 tỷ cõi nước Phật, là cõi sáng rất an vui và không có sự khổ nạn, vì
vậy nên gọi là Cực Lạc (cõi rất vui). Cái vui ở cõi Cực Lạc là vui tịch
tĩnh, khinh an, đó không phải là vui đối đãi với khổ theo quan niệm nhị
nguyên ở cõi thế gian.
Nơi chốn
Cực Lạc trang nghiêm ấy, có đầy đủ tất cả 8 điều vui sướng Niết Bàn (gọi
là bát lạc):
– hóa sanh
từ hoa sen tinh khiết, trẻ mãi không già, không bao giờ bị ốm đau, sống
lâu vô cùng, tùy ý toại nguyện mọi y thực và có thần thông tới lui khắp
các cõi Phật không ngăn ngại, gần gũi bạn lành, cùng chung chí hướng với
người tốt, thân tâm thanh tịnh và an lạc.
Những sự
khổ nạn mà đức Phật muốn nói đến là 84.000 thứ phiền não trói buộc làm khổ
lụy thân tâm con người ở cõi Ta Bà nầy. 84.000 sự khổ, chung quy lại, thì
có 8 cái khổ chính (gọi là bát khổ), đó là sanh, già, bệnh, chết, mong cầu
mà không được như ý, xa cách người mình yêu thương, gần gũi người mình oán
ghét, bị ràng buộc và khống chế bởi thân ngũ ấm.
Thế nào là
Ngũ ấm? Ngũ ấm, còn gọi là ngũ uẩn, là 5 nhóm cấu thành thân xác và tinh
thần của con người:
- sắc: thân
xác
- thọ: cảm
giác
- tưởng: sự
nhận biết (tri giác)
- hành: sự
vận hành của tư tưởng (tâm tư)
- thức: ý
thức phân biệt
Để đối trị
với 84.000 phiền não, đức Thế Tôn đã thuyết dẫn ra 84.000 pháp môn tu trì,
tùy căn cơ của người tín nhận. Sở dĩ có con số 84.000 là vì dựa trên 250
giới cấm của người Tỳ Kheo, trong 4 oai nghi đi đứng nằm ngồi, qua 3 thời
Quá khứ Hiện tại Vị Lai, với 4 món Độn Sử (tham, sân, si, mạn), tác động
qua lời nói và hành động, gây tạo ra 7 tội (sát sanh, trộm cướp, tà dâm,
nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác). Tổng cộng tất
cả là 84.000 phiền não (250 x 4 x 3 x 4 x 7 = 84.000).
KINH: “Lại
nữa, Xá Lợi Phất, nơi cõi nước Cực Lạc đó có bảy lớp dậu rào, bảy lớp mành
lưới, bảy lớp hàng cây, đều bằng bốn chất báu, bao vòng khắp nơi, vì thế
nên cõi nước đó tên là Cực Lạc.”
Ở cõi nước
Phật A Di Đà, có những lan can dậu rào 7 lớp, có những mành lưới giăng 7
tầng, có các hàng cây mọc theo từng hàng 7. Tất cả đều làm bằng 4 món châu
báu (tứ bảo) là vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Những lớp hàng cây, dậu rào,
mành lưới được xếp theo từng hàng 7 của 3 loại, tượng trưng cho con số 21
(tức là 7 x 3), bao vòng ở khắp mọi nơi (châu tráp vi nhiễu), vì vậy nên
cõi đó được gọi là Cực Lạc. Các dậu rào ở đây là rào vàng, lưới ở đây là
lưới báu, cây ở đây là cây ngọc. Có những thân cây bằng vàng, lá pha lê,
trái lưu ly, hoa nhánh bạc. Cũng có rất nhiều hàng cây với thân cành lá
chỉ thuần một chất báu của vàng, bạc, lưu ly hoặc pha lê.
Ý nghĩa của
số 7:
Số 7 là con
số biểu trưng cho cõi chánh đạo của chư Phật, đó là cõi thứ 7 giải thoát
khỏi 6 nẻo luân hồi. Số 7 cũng là 7 nhóm trong 37 phẩm trợ đạo. Ở đây, số
7 là để nêu lên 7 thứ Thánh Tài: Tín, Giới, Văn, Xả, Huệ, Tàm, Quý. Có
nghĩa là người niệm Phật phải phát khởi niềm tin vững mạnh để tiến tu,
nghiêm mật giữ gìn giới luật, nghiên cứu đọc tụng kinh điển, lắng nghe và
học hiểu các lời khuyến dẫn đúng đắn của chư Tăng Ni, buông xả những buộc
ràng vướng mắc trong tâm thức, bình thản với sự đời, không chấp trước vào
pháp, không chấp giữ ở những gì tốt xấu, vừa ý, nghịch lòng, tìm đạt đến
trí tuệ sáng suốt, đối với mình thì luôn sanh tâm biết lỗi, sám hối để
chừa bỏ các lỗi lầm, đối với người thì luôn sanh tâm biết hổ thẹn khi lỡ
phạm những điều sai trái.
Số 7 thường
gắn liền với cuộc đời của đức Thế Tôn. Khi vừa được sinh ra, ngài đi 7
bước, mỗi bước một đóa sen nở dưới chân ngài. Sau khi đản sanh được 7
ngày, Thánh mẫu Ma Gia, mẹ của ngài, đã từ trần, sanh lên cõi Trời Đao Lợi
của vua Đế Thích.
Đức Thế Tôn
học đạo, ngồi dưới gốc cây Bồ Đề, bên bờ sông Ni Liên Thiền (thuộc chi
nhánh sông Hằng), ở miền Bắc Ấn Độ xứ Ma Kiệt Đà, 7 lần của 7 ngày, tức là
liên tục 49 ngày suy niệm (7 x 7), đến tuần lễ thứ 7 thì ngài đạt được sự
giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và thành Phật.
Khi ngài
thuyết giảng đại pháp, đã giảng nói kinh Hoa Nghiêm lần đầu tiên, tại Bồ
Đề Đạo Tràng, xứ Ma Kiệt Đà, trải qua 21 ngày liền (3 lần của 7 ngày).
Cuộc đời hành đạo của ngài là 49 năm (7 x 7). Sau khi nhập diệt, thân xác
của ngài được giữ trong kim quan đúng 7 ngày trước khi làm lễ trà tỳ (hỏa
thiêu) ở thành Câu Thi La.
Số 7 cũng
là thời gian 7 ngày, khi đức Phật trở về thành Ca Tỳ La Vệ, nói pháp và
cảm hoá toàn bộ giòng họ Thích, gia đình của ngài, theo về với Phật pháp.
Nếu nói về
thời gian, số 7 là 7 ngày của một tuần, tính từ ngày chủ nhật cho đến thứ
7. Bảy ngày là định kỳ mà Phật đã khuyến dẫn trong kinh A Di Đà, để người
tu dựa theo thời hạn đó mà trì niệm danh hiệu Phật cho được nhất tâm, đạt
đến cảnh giới Niệm Phật Tam Muội.
Nếu nói về
khoa học, thì sau mỗi 7 năm, cơ thể con người sẽ hoàn toàn thay đổi với tế
bào mới. Số 7 cũng gắn liền với 7 ngày, 21 ngày (7 x 3), 49 ngày (7 x 7)
khi người chết có thể đầu thai vào cõi khác, hoặc tái sanh trở lại kiếp
người, hoặc hóa sanh về ao thất bảo ở cõi Cực Lạc. Sau mỗi 7 ngày và 7 lần
như vậy (trong 49 ngày sau khi chết và chưa đầu thai, còn ở giai đoạn thân
trung ấm), người chết sẽ phải đối diện trở lại với ký ức sợ hãi về cái
chết của mình và sự đau đớn thân xác lúc hấp hối.
Trên khuôn
mặt con người cũng có thất khiếu (7 lỗ) là mắt, tai, mũi, miệng. Số 7 cũng
gắn liền với Pháp thân, là 7 chỗ đầy đặn và đẹp tốt của 32 tướng đại nhân:
2 lòng bàn tay, 2 lòng bàn chân, 2 vai và yết hầu. Niệm hồng danh chư Phật
và trì chú Đà Ra Ni cũng thường gắn liền với con số 7 trong các bản kinh
Phật đã thuyết (niệm 7 lần, 21 lần, 49 lần). Con số 7 còn có rất nhiều ý
nghĩa cũng như thế.
– Ý nghĩa
của 7 lớp dậu rào: 7 lớp dậu rào (thất trùng lan thuẫn) là biểu thị cho
Giới, như những lan can, bao lơn, rào cản… ngăn chặn thân tâm không để bị
uế nhiễm bởi sự cám dỗ của ngũ dục là tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn
uống, ngủ nghỉ (tài, sắc, danh, thực, thùy).
– Ý nghĩa
của 7 lớp mành lưới: 7 lớp mành lưới (thất trùng la võng) là biểu thị cho
Định, cảnh giới tịch tĩnh bao trùm khắp mọi nơi như lưới giăng.
– Ý nghĩa
của 7 lớp hàng cây: 7 lớp hàng cây (thất trùng hàng thọ) là biểu thị cho
Huệ, trí tuệ chiếu soi như những thân cây cành lá nẩy chồi vươn lên cao,
tìm đến ánh sáng của mặt trời.
Bốn món
châu báu (tứ bảo: vàng, bạc, lưu ly, pha lê) của 7 lớp dậu rào (biểu trưng
cho giới), 7 lớp mành lưới (biểu trưng cho định), 7 lớp hàng cây (biểu
trưng cho huệ), ở cõi nước Cực Lạc, là biểu thị cho 4 đức Niết Bàn trang
nghiêm và ngời sáng:
- sống lâu
(chân thường)
- an vui
(chân lạc)
- thần
thông biến hoá (chân ngã)
- thanh
tịnh tịch tĩnh (chân tịnh)
KINH: “Lại
nữa, Xá Lợi Phất, nơi cõi nước Cực Lạc đó có ao bảy chất báu, trong ao
tràn đầy tám nước công đức, đáy ao thuần bằng cát vàng trải làm mặt đất.
Những lối đi bốn bên bờ ao là vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Trên
đó, có lầu các, cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ,
trân châu, mã não. Trong ao, có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh ánh
sáng xanh, hoa sắc vàng ánh sáng vàng, hoa sắc đỏ ánh sáng đỏ, hoa sắc
trắng ánh sáng trắng, hương thơm vi diệu tinh khiết.”
Ở cõi Cực
Lạc, có ao bảy chất báu, có tám thứ nước công đức, có vô lượng vô số hoa
sen với ánh hào quang sáng chói, có các lầu đài, cung điện, tịnh xá bằng
bảy món châu báu quý giá và rực rỡ trang nghiêm. Ao bảy chất báu (thất bảo
trì) là ao vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, trân châu, mã não. 7 món châu
báu nầy, của ao thất bảo ở cõi Cực Lạc, biểu thị cho sự sáng ngời của 7
phần giác ngộ (tức là Thất Giác Chi, còn gọi là Thất Bồ Đề Phần):
- quán sát
các pháp, biện giải đúng lý nghĩa (trạch pháp)
- dũng mãnh
tu tập theo chánh pháp (tinh tấn)
- vui mừng
an trụ nơi chánh pháp (hỷ)
- thư thái
khinh an trong chánh pháp (lạc)
- lìa xa
các pháp hư vọng, buông bỏ mọi chấp trước (xả)
- nhất tâm
an trụ nơi chánh pháp (định)
- luôn nhớ
tưởng chánh pháp (niệm)
Trong ao,
có 8 thứ nước công đức rất diệu dụng (bát công đức thủy), đó là các yếu tố
trong sạch, đượm nhuần, mát mẻ, thơm tho, ngon ngọt, êm đềm, giải trừ đói
khát, tươi khỏe thân tâm. 8 thứ nước công đức nầy, thể hiện qua 6 trần
(sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), tác động vào 6 căn (mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý), đưa đến sự vui thích như ý qua 6 yếu tố thọ nhận (lục
nhập):
- yếu tố
sắc nhập: trong sạch
- yếu tố
thanh nhập: êm đềm
- yếu tố
hương nhập: thơm tho
- yếu tố vị
nhập: ngon ngọt
- yếu tố
xúc nhập: đượm nhuần, mát mẻ
- yếu tố
pháp nhập: giải trừ đói khát, tươi khỏe thân tâm
8 thứ nước
như ý (Như-ý-thủy), tuôn chảy ra từ hạt ngọc Ma Ni của Phật (còn gọi là
Như-ý-châu-vương). Mình muốn nước ấy ấm mát, dịu ngọt, nhuần khiết ra sao
thì nó sẽ y như vậy trong sự thấy biết và cảm nhận của chính mình. Nước
nầy chảy qua những cọng sen, lá sen, phát ra những tiếng pháp Ba La Mật
rất là mầu nhiệm.
Theo tinh
thần của bản kinh A Di Đà, 8 thứ nước công đức nầy, ý nói tự tánh thanh
tịnh A Di Đà, biểu trưng cho Bát Chánh Đạo (còn gọi là Bát Thánh Đạo Phần,
8 con đường tu hành chân chánh):
- hiểu biết
chân chánh (chánh kiến)
- suy nghĩ
chân chánh (chánh tư duy)
- lời nói
chân chánh (chánh ngữ)
- hành động
chân chánh (chánh nghiệp)
- sinh sống
chân chánh (chánh mạng)
- chuyên
cần chân chánh (chánh tinh tấn)
- nhớ tưởng
chân chánh (chánh niệm)
- thu nhiếp
tâm chân chánh (chánh định)
8 phạm trù
trên chia thành 3 nhóm:
- giới:
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng
- định:
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định
- huệ:
chánh kiến, chánh tư duy
Giới là
những điều răn cấm của Phật dạy, để tránh vướng mắc vào lầm lỗi. Định,
thuộc về tâm linh, là giữ tâm cho chuyên nhất, không để bị loạn náo bởi
vọng tưởng điên đảo hoặc ngoại cảnh chi phối. Huệ là sự nhận thức sáng
suốt, trí tuệ chiếu soi, hướng về chân lý.
Nếu nói về
Pháp thân, Giới Định Huệ được hiểu như sau: 3 nghiệp thân khẩu ý (hành
động, lời nói, ý nghĩ) xa lìa tất cả tội lỗi, gọi là Giới. Chân tâm xa lìa
tất cả vọng niệm, gọi là Định. Chân trí sáng suốt chiếu soi, nhận hiểu rõ
tất cả các pháp, gọi là Huệ.
8 con đường
tu hành chân chánh:
– Chánh
kiến (hiểu biết chân chánh): hiểu rõ về 4 chân lý của Tứ Diệu Đế (chân lý
về sự khổ), tin hiểu vào lý nhân quả, luật luân hồi, nghiệp báo và duyên
sinh.
– Chánh tư
duy (suy nghĩ chân chánh): không tham muốn, không sân hận, không khinh
mạn, không nghĩ suy làm hại người và vật, biết suy xét Vô Minh (tâm thức
mê mờ vì bị vọng tưởng che lấp) là nguyên nhân đau khổ, nhận biết những
lỗi lầm của mình để sám hối, chừa bỏ.
– Chánh ngữ
(lời nói chân chánh): không nói láo, không nói lưỡi hai chiều, không nói
thêu dệt, không nói lời hung ác, không nói chuyện thị phi.
– Chánh
nghiệp (hành động chân chánh): không sát sanh, không trộm cướp, không tà
dâm, không uống rượu, không trả thù, không phan duyên (lợi dụng),
không làm tổn hại đến quyền lợi và hạnh phúc
của người khác.
– Chánh
mạng (sinh sống chân chánh): không nuôi sống bằng những nghề bất lương làm
nguy hại đến người và vật, không chấp theo ngoại đạo, không mê tín dị
đoan.
– Chánh
tinh tấn (chuyên cần chân chánh): nỗ lực làm những điều đúng, dũng mãnh
tiến bước trên con đường giải thoát.
– Chánh
niệm (nhớ tưởng chân chánh): luôn nhớ nghĩ đến danh hiệu Phật và các cõi
lành, cảm mộ ân đức của tất cả chư Phật, chư
thầy, cha mẹ và thí chủ (tứ trọng ân).
– Chánh
định (thu nhiếp tâm chân chánh): tập trung suy tưởng và quán sát sự việc
đúng theo chánh pháp, không có những mục đích sai lầm, nghịch lý.
Bát Chánh
Đạo là pháp môn chính trong 37 phẩm trợ đạo. Người niệm Phật phải dựa vào
8 con đường chân chánh đó để tu tập Giới Niệm Định Huệ, đạt đến quả vị
Thánh Trí vô thượng.
Theo tinh
thần của bản kinh A Di Đà, những lối đi ở bốn bên bờ ao thất bảo (tứ biên
giai đạo), là sự hợp thành của 4 chất báu: kim, ngân, lưu ly, pha lê, biểu
trưng cho sự thành tựu trang nghiêm công đức Giới Niệm Định Huệ của pháp
môn Nhất Hạnh Tam Muội.
Giới là vị
thầy hộ trì cho pháp thân, giữ gìn thân khẩu ý thanh tịnh. Định là cửa vào
Thánh Trí, tiến đến cảnh giới nhất niệm, đó là niệm tưởng A Di Đà. Huệ là
ngôi nhà Kim Cang Thánh Trí, viên ngọc Ma Ni ngời chiếu, giòng suối Tâm an
lạc tịch tĩnh. Niệm là trái tim ánh sáng huyền nhiệm của 4 chữ A Di Đà
Phật không thể nghĩ bàn, là mấu chốt đan kết và tương hợp giữa 3 điểm vô
thượng Giới Định Huệ:
- Niệm ở
giữa Giới và Định (Giới-Niệm-Định)
- Niệm ở
giữa Định và Huệ (Định-Niệm-Huệ)
- Niệm ở
giữa Huệ và Giới (Huệ-Niệm-Giới)
Giới Niệm
Định Huệ là 4 món Ba La Mật vô cùng vi diệu của người tu trì theo pháp môn
Niệm Phật. Người tu học phải giữ giới thanh tịnh, trì niệm danh hiệu Phật
để chuyên nhất tâm tưởng, buông bỏ vạn duyên bên ngoài, diệt trừ mọi phiền
não bên trong, đạt đến cảnh giới an lạc của Phật Trí vô thượng.
Bát Chánh
Đạo
8 con đường
tu hành chân chánh
Nền tảng
của Bát Chánh Đạo là Giới, với 3 phạm trù căn bản về đạo đức là Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng. Ngôi nhà Thánh Trí mà người tu học phải nương
trú vào đó, để tu tập Chánh niệm và để thành tựu Chánh định, là pháp Niệm
Phật Tam Muội. Cánh cửa để mở vào Bát Chánh Đạo là Văn Huệ và Tư Huệ, tức
là 2 yếu tố Chánh kiến và Chánh tư duy ở giai đoạn Tri Thức.
Trên bước
đường tu học, yếu tố Chánh tinh tấn là để trợ lực cho người niệm Phật có ý
chí mạnh mẽ và chuyên cần. Khi yếu tố Chánh niệm thành tựu, dựa trên pháp
niệm Phật A Di Đà, đưa đến sự phát sinh và thành tựu yếu tố Định, tức là
cảnh giới Nhất Tâm Bất Loạn, từ đó mở rộng 2 phạm trù Thánh Trí là Chánh
kiến và Chánh tư duy, tức là sự phát triển của yếu tố Tu Huệ, thấy hiểu và
nghĩ suy theo Chánh đạo, nhìn thấu rõ thật tướng của vạn pháp thế gian,
giúp ta vượt thắng tất cả mọi phiền não tư duy và đạt đến sự giải thoát
tâm linh.
Thế nào là
Kim sa nơi ao thất bảo?
Ở dưới đáy
ao thất bảo trải thuần bằng cát vàng bóng mịn, màu sắc sáng chói lên cả
trên mặt nước và bốn bên bờ ao, gọi là kim sa (cát vàng).
Đáy ao trải
dài bằng cát vàng quý báu, là biểu trưng cho Bồ Đề Tâm của đức Phật A Di
Đà đã vì chúng sanh mà nguyện thề cứu độ, cũng là biểu trưng cho Bồ Đề Tâm
của hàng Thánh chúng đã chí thành trải lòng mình theo về thế giới Cực Lạc,
phát khởi lòng đại bi, tu dưỡng công đức và đạo hạnh, hướng nguyện sanh về
cõi Niết Bàn Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà. Bồ Đề Tâm là tâm tìm cầu giải
thoát, hướng về Phật đạo, với ý nguyện lợi tha, muốn giúp đời và cứu người
thoát khổ.
Trong ao
thất bảo, có các loài hoa sen lớn như bánh xe (đại như xa luân), ý nói là
các hoa sen nầy to lớn như bánh xe chuyển pháp của đức Như Lai. Sau khi
thành đạo, đức Phật chuyển pháp luân (thuyết giảng đại pháp) lần đầu tiên,
về Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo, tại vườn Lộc Uyển, thuộc miền Sarnath ở xứ
Isipatana.
Các hoa sen
nầy có vị hương rất tinh khiết, nhiệm mầu và ngời chiếu ánh hào quang (vi
diệu hương khiết). Hoa màu xanh thì tỏa chiếu ánh sáng xanh, hoa màu vàng
thì tỏa chiếu ánh sáng vàng, hoa màu đỏ thì tỏa chiếu ánh sáng đỏ, hoa màu
trắng thì tỏa chiếu ánh sáng trắng.
4 màu sắc
chính, xanh vàng đỏ trắng, của các hoa sen ở ao thất bảo, biểu trưng cho
phẩm đức và hạnh nguyện của người chân tu (cũng như những hạt Xá Lợi, thể
hiện qua nhiều màu sắc khác nhau, đó là những việc mầu nhiệm chẳng thể
nghĩ bàn). Người niệm Phật, khi được sanh về cõi Tịnh Độ, tùy ở phẩm hạnh
mà được hoá sanh vào một trong các loại sen đó. Khi vãng sanh, tùy theo
phước huệ, mà hoa sen sẽ nở và tỏa chiếu ánh hào quang, liền sau khi được
sanh về, hoặc sau 1 ngày đêm, hoặc sau 7 ngày, 49 ngày, hoặc sẽ phải sau
nhiều kiếp.
Có tất cả 9
phẩm cứu cánh để người niệm Phật phát nguyện vãng sanh, chia ra 3 bậc
Thượng, Trung, Hạ:
– Muốn sanh
về hàng thượng bối (tức là 3 thượng phẩm của bậc Bồ Tát Đại Thừa), thì
người ấy phải xuất gia, dũng mãnh phát tâm Bồ Đề vô thượng, trì niệm danh
hiệu A Di Đà, nghiêm trì giới luật, tu tạo nhiều hạnh nghiệp và công đức
độ sinh, thiết tha nguyện sanh về cõi Tịnh Độ.
– Muốn sanh
về hàng trung bối (tức là 3 trung phẩm của bậc Thanh Văn Tiểu Thừa), thì
người ấy phải phát tâm Bồ Đề vô thượng, trì niệm danh hiệu A Di Đà, làm
các điều phước thiện, lánh xa mọi điều ác, quy y Tam Bảo, giữ gìn ngũ giới
tại gia, hiếu dưỡng cha mẹ, tu tạo nhiều công quả, cúng dường chư Tăng Ni,
thờ kính Phật, đọc tụng kinh điển, không phạm vào thập ác ngũ nghịch,
thường xuyên sám hối lạy Phật và hồi hướng công đức về Cực Lạc.
– Muốn sanh
về hàng hạ bối (tức là 3 hạ phẩm của bậc Thiện Nhân), thì người ấy phải
phát tâm Bồ Đề vô thượng, trì niệm danh hiệu A Di Đà, không phạm vào các
trọng tội ngũ nghịch, hoặc hủy báng chánh pháp của Phật, tha thiết nguyện
sanh về Tây phương Tịnh Độ.
Các bậc
thượng bối có 3 phẩm là thượng phẩm thượng, thượng phẩm trung, thượng phẩm
hạ. Các bậc trung bối và hạ bối cũng chia ra 3 bậc thượng trung hạ giống
như vậy. Tất cả là 9 phẩm vãng sanh (3 x 3).
Bậc thượng
phẩm thượng là bậc cao nhất được vãng sanh, gọi là bậc tối thượng phẩm của
các vị đại Bồ Tát. Người được sanh vào hàng thượng phẩm thượng (tức là bậc
tối thượng phẩm) sẽ được hóa sanh từ hoa sen liền ngay sau khi người ấy
chấm dứt hơi thở, được Phật A Di Đà và hàng Bồ Tát Thánh chúng tiếp dẫn về
Cực Lạc.
Những bậc
khác (tức là 8 phẩm còn lại), tính từ thượng phẩm trung cho đến hạ phẩm
hạ, thì khi sanh về, phải sau 1 ngày đêm, hoặc sau 7 ngày, 49 ngày, hoặc
sau 6 kiếp, 12 kiếp, thì hoa sen hóa sanh mới nở. Khi hoa sen nở, người
được hóa sanh có thân sắc vàng (yến sáng), không nam không nữ, 32 tướng
tốt, 80 vẻ đẹp, ngồi kiết già trong hoa sen, và tùy ở phẩm hạnh, sẽ được 2
vị đại Bồ Tát là đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí thuyết giảng cho nghe
những nghĩa lý diệu mầu của Phật pháp. Trên mỗi cánh sen khi nở, có 84.000
đường gân, mỗi hoa sen có 84.000 cánh, tỏa chiếu ra 84.000 ánh hào quang,
biểu thị cho 84.000 đức hạnh và 84.000 pháp mầu.
4 thứ ánh
sáng chiếu tỏa ra từ các hoa sen, xanh vàng đỏ trắng, biểu trưng cho Tứ Vô
Lượng Tâm (còn gọi là Tứ Đẳng Tâm, bốn thứ tâm vô cùng rộng lớn):
- lòng yêu
thương, đem niềm vui đến cho người (từ)
- lòng
thương xót, muốn cứu người thoát khổ (bi)
- lòng vui
theo khi thấy người thoát khổ (hỷ)
- lòng
buông xả, tha thứ, không cố chấp (xả)
Trong từng
mỗi câu niệm A Di Đà, người niệm Phật phải trải rộng tâm Từ của mình đến
tất cả mọi chúng sanh bình đẳng, trải tâm Bi đến những kẻ đang đau khổ,
trải tâm Hỷ đến những ai đang vui sướng, trải tâm Xả đến những người mình
yêu thích hoặc ghét bỏ. Đó là thể hiện 4 đức tánh liên hoa: vi, diệu,
hương, khiết trong câu Phật hiệu A Di Đà.
người niệm
Phật phải phát khởi 4 thứ tâm vô lượng và tin vào tha lực hộ trì của tất
cả chư Phật mười phương
4 màu sắc
hào quang, xanh vàng đỏ trắng, chiếu tỏa từ các hoa sen ở ao thất bảo,
cũng là biểu trưng cho các cảnh giới ánh sáng chói ngời trong giai đoạn
thân trung ấm (thân trung ấm là phần linh thể của con người xuất ra khỏi
thân xác lúc hơi thở vừa dứt hẳn, ở giai đoạn giữa của kiếp nầy và kiếp
sau trong thời hạn 49 ngày).
Ánh sáng
xanh có 2 loại là ánh sáng màu xanh dương và ánh sáng màu xanh lục. Có tất
cả 5 loại ánh sáng chói ngời và 6 loại ánh sáng mờ nhạt trong 7 ngày đầu ở
giai đoạn thân trung ấm:
–
ánh sáng xanh dương chói ngời: đây là luồng ánh
sáng cứu độ của đức Phật Tỳ Lô Giá Na.
–
ánh sáng trắng chói ngời: đây là luồng ánh sáng
từ bi lực của đức Phật Kim Cang Tát Đỏa và các vị đại Bồ Tát Địa Tạng, Di
Lặc.
–
ánh sáng vàng chói ngời: đây là luồng ánh sáng
của đức Phật Bảo Sanh và đại Bồ Tát Phổ Hiền.
–
ánh sáng đỏ chói ngời: đây là luồng ánh sáng
diệu hạnh thanh tịnh của Tự tánh A Di Đà.
–
ánh sáng xanh lục chói ngời: đây là luồng ánh
sáng công năng Trí Tuệ nhiệm mầu của Tự thân.
Các loại
ánh sáng nầy, khi lâm chung, thân trung ấm sẽ phải đối diện (lúc hơi thở
đã hoàn toàn dứt hẳn). Cùng với những luồng ánh sáng chói lòa nầy là những
ánh sáng mờ nhạt của 6 cõi Lục Đạo cũng tuần tự phát xuất:
- ánh sáng
trắng mờ nhạt của cõi Trời
- ánh sáng
xám mờ nhạt của cõi Địa ngục
- ánh sáng
vàng mờ nhạt của cõi Người
- ánh sáng
đỏ mờ nhạt của cõi Ngạ quỷ
- ánh sáng
xanh lục mờ nhạt của cõi A Tu La
- ánh sáng
xanh dương mờ nhạt của cõi Súc sanh
Lúc lâm
chung, người niệm Phật cần phải thật an định trong giờ phút cuối cùng đó,
cố gắng trì giữ câu Phật hiệu A Di Đà không buông lơi, để thể nhập chân
tánh của mình vào các luồng ánh sáng chói ngời và rực rỡ kia, giải thoát
đến cảnh giới tốt đẹp của chư Phật và Bồ Tát.
Khi đối
diện với những luồng ánh sáng chói lòa đó, chớ nên sợ hãi và trốn lánh, vì
đó là những luồng ánh sáng có năng lực cứu độ. Hãy bình tâm nương tựa vào
ánh sáng đó và trì niệm danh hiệu Phật. 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật, có công
năng phá trừ 6 nẻo sanh tử luân hồi trong Lục Đạo.
Nếu để bị
lôi cuốn vào các vùng ánh sáng mờ nhạt (vì bị nghiệp lực lôi kéo, hoặc vì
sợ hãi những luồng ánh sáng chói lòa kia, hoặc vì quá tham luyến cõi đời
mà mê loạn) thì sẽ bị đọa lạc vào 6 nẻo luân hồi (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc
sanh, A Tu La, Người, Trời).
Vì vậy,
trong giờ phút sống, nếu chúng ta không tinh tấn trì niệm A Di Đà để giữ
vững tâm, thì khi hấp hối, giờ phút mà sự đau đớn bức xẻ cùng cực trên
thân xác và trí lực, chúng ta khó có thể giữ được liên tục 10 niệm A Di Đà
vững chắc trong định tỉnh và vô úy.
Những người
tạo nhiều nghiệp ác trong lúc sống, khi đối diện với những luồng ánh sáng
chói ngời trong giờ phút hấp hối, thân trung ấm sẽ rất sợ hãi và tìm mọi
cách để trốn lánh. Vì thế, thần thức rất dễ bị cuốn hút, cám dỗ vào những
vùng ánh sáng mờ nhạt của các cõi Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh (tam ác
đạo).
Màu sắc của
hoa sen:
Những màu
sắc xanh vàng đỏ trắng của hoa sen là 4 màu sắc chính, tỏa chiếu ra 4 màu
hào quang chính. Các loài sen ở ao thất bảo thì nhiều vô lượng vô biên, dù
là bậc A La Hán có thiên nhãn thông cũng chẳng thể nào tính đếm mà biết
được số lượng. Trong vô số các loại hoa sen đó, có tất cả 84.000 màu sắc
khác nhau và mỗi hoa sen ngời chiếu 84.000 ánh hào quang rực rỡ. Hoa sen
xanh thì tỏa chiếu 84.000 hào quang xanh, hoa sen vàng thì tỏa chiếu
84.000 hào quang vàng, hoa sen đỏ thì tỏa chiếu 84.000 hào quang đỏ, hoa
sen trắng thì tỏa chiếu 84.000 hào quang trắng...
Một khi có
người ở cõi thế gian chứng được cảnh giới Niệm Phật Tam Muội thì sẽ có một
nụ sen mới trổi lên từ ao thất bảo và phát ra ánh sáng hào quang công đức.
Đến khi người ấy được vãng sanh thì hoa sen sẽ nở. Tùy ở phẩm đức đã tích
tập qua nhiều kiếp và trong kiếp nầy mà được hóa sanh vào hoa sen có màu
sắc và ánh sáng đó. Những người sanh về Cực Lạc, sẽ được hóa sanh thành
thân kim cang Na La Diên không bao giờ bị hư hoại. Thân sắc đó rất linh
hoạt và có ánh sáng màu vàng bao quanh (gọi là yến sáng). Thân sắc nầy
không giống như thân xác tứ đại nhơ uế ở cõi thế gian. Vì vậy, người ở cõi
đó có ánh hào quang rất chói ngời và việc tới lui ngàn dặm ở đó cũng rất
mau lẹ và kỳ diệu.
Ở cõi Cực
Lạc, những khi có mưa hoa, nhạc trời, mọi người đều tự nhiên nhất tâm niệm
Phật, thì yến sáng của người niệm Phật, tương ưng với tiếng niệm Phật chân
thành của chính người ấy, lại càng ngời sáng hơn lên.
Thế nào là
Quy y Tam Bảo?
Quy y,
tiếng Phạn là Namo (Nam Mô), có nghĩa là trở về nương tựa. Quy y Tam Bảo
là trở về nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng. Phật là đấng giác ngộ, sáng suốt
và từ bi. Pháp là con đường đưa chúng ta đến sự giải thoát. Tăng là người
đang thực hành pháp giải thoát của Phật, hướng dẫn chúng ta trên bước
đường tu đạo. Nam Mô A Di Đà Phật, là trở về nương tựa vào đức Phật A Di
Đà.
– Quy y
Phật là luôn nhớ tưởng đến Phật, niệm danh hiệu Phật, trở về với Phật tánh
sáng suốt của chính mình.
– Quy y
Pháp là luôn nhớ tưởng đến chánh pháp của Phật, thường đọc tụng kinh điển,
phát huy các đức hạnh từ bi, nhẫn nhục, bố thí, tha thứ, buông xả.
– Quy y
Tăng là luôn nhớ tưởng, tôn kính, tu tập theo sự khuyến dẫn đúng đắn của
chư Tăng Ni và cùng hòa hợp vào chân tánh thanh tịnh của chính mình.
Khi đã quy
y Phật, mình là con của Phật, tu theo hạnh của Phật, sẽ không bị đọa vào
Địa ngục. Khi đã quy y Pháp, mình tu tập theo chánh pháp, sẽ không bị đọa
làm Ngạ quỷ. Khi đã quy y Tăng, mình tu tập theo sự hướng dẫn và khuyến
tấn của chư Tăng Ni, sẽ không bị đọa làm Súc sanh.
Thế nào là
Thập ác? Thập ác là 10 điều ác đức:
- sát sanh
- trộm cướp
- tà dâm
- nói dối
(vọng ngữ)
- nói thêu
dệt (ỷ ngôn)
- nói lưỡi
hai chiều (lưỡng thiệt)
- nói lời
hung ác (ác khẩu)
- tham lam
- sân hận
- si mê
(hiểu thấy sai lầm, tin mê ngoại đạo)
(tin
mê ngoại đạo: thần tài, xin xăm, bói quẻ, bốc dịch, bấm độn, buộc tôm, đeo
niệt, coi sao, cúng hạn, đốt giấy tiền vàng bạc, cúng tế tà thần…)
Thế nào là
Ngũ nghịch? Ngũ nghịch là 5 trọng tội ác nghịch, trái với đạo lý:
- giết cha
- giết mẹ
- giết các
bậc Thánh (A La Hán)
- nhiễu phá
sự hòa hợp của Tăng (Ni) chúng
- làm cho
thân Phật chảy máu
Người phạm
vào 1 trong 5 trọng tội ác nghịch trên sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián (còn
gọi là đại ngục A Tỳ). Vô gián, nghĩa là không có thời gian hạn định, hoặc
gián đoạn, trong việc thọ nhận ngục hình nghiệp báo.
Thế nào là
Thân tứ đại? Thân xác con người được cấu thành bởi 4 yếu tố chính:
-
yếu tố đất như da, xương, thịt, tim, gan…
-
yếu tố nước như máu, mủ, đàm…
-
yếu tố gió như hơi thở vô ra…
-
yếu tố lửa như sức nóng trong người…
Những gì
hiện hữu ở xác thân hoàn toàn không có tự tánh riêng biệt. Nếu như một mai
thân xác có mất đi, có tan rã, thì gió sẽ về với gió, lửa sẽ về với lửa,
nước sẽ về với nước, đất sẽ về với đất. Không có sự mất. Không có sự được.
Không có sự thêm. Không có sự bớt. Thân xác con người, tất cả chỉ là đất
nước gió lửa tạm bợ hòa hợp trong một tổng thể vô thường, theo thời gian
rồi cũng hoại tàn, tất cả sẽ trở về với đất nước gió lửa. Đó là định luật
chung cho tất cả vạn vật trần gian.
KINH: “Xá
Lợi Phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.”
Cõi Cực Lạc
có được là vì 48 đại nguyện của ngài Bồ Tát Pháp Tạng (tức là đức Phật A
Di Đà), đã lấy công đức đạo hạnh và trí huệ của chính mình để thành tựu
nên sự trang nghiêm như thế, không ngoài mục đích vì thương xót và muốn
cứu độ chúng sanh có được một nơi chốn an vui, để cùng nhau tu hành, vượt
thoát con đường sanh tử luân hồi.
Trong bản
kinh A Di Đà, đức Phật Thích Ca đã 4 lần nói đến sự thành tựu công đức
trang nghiêm ở cõi Tịnh Độ, đó là một nơi chốn vãng sanh rất thiêng liêng
và kỳ diệu.
Sự trang
nghiêm ở công đức trí huệ đã được dựng lên tại cõi nước Cực Lạc là các dậu
rào, các mành lưới, các hàng cây bằng bốn món châu báu, với ao thất bảo,
với tám thứ nước công đức, đáy ao toàn bằng cát vàng, những lối đi ở bốn
bên bờ ao do tứ bảo hợp thành, các lầu đài và tịnh xá cũng đều nghiêm sức
bằng bảy chất báu vô cùng rực rỡ, có vô số các loại hoa sen hương thơm
tinh khiết, với hào quang tỏa sáng rất trang nghiêm.
Mỗi một vật
thể nơi cõi Cực Lạc được đề cập đến trong bản kinh A Di Đà là sự biểu
trưng cho công đức đạo hạnh thành tựu và giáo pháp vô biên nhiệm mầu của
đức Phật A Di Đà, và sự biểu trưng đó được bồi dựng thêm lên bởi hàng
Thánh chúng đã hồi hướng công đức trang nghiêm cõi Phật Tịnh Độ.
KINH: “Lại
nữa, Xá Lợi Phất, nơi cõi nước Phật đó thường trổi nhạc trời, mặt đất bằng
vàng, ngày đêm sáu thời có mưa hoa Mạn Đà La. Chúng sanh trong cõi đó,
thường mỗi sáng sớm, lấy vạt áo đựng những hoa
kỳ diệu đó, cúng dường mười vạn ức Phật ở các phương khác. Đến giờ ăn,
liền trở về nước của mình, ăn cơm, rồi kinh
hành.”
Ở cõi đó
thường có nhạc trời và mưa hoa. Nhạc từ mây trời (thiên nhạc) rất thường
trổi lên nhiều lần trong suốt ngày đêm. Những khi như vậy thì các nhạc cụ
tự nhiên hiện ra, bay lơ lửng trên không trung, tự động cùng hòa nhịp với
nhau và phát ra muôn ngàn thanh âm huyền diệu. Mọi người nghe những thanh
âm ấy, thân tâm cảm thấy rất thanh tịnh và an lạc. Các vị thần âm nhạc và
chư Thiên ở khắp mười phương cũng cùng đến tấu nhạc trên không trung và
trong các lầu đài tịnh xá.
Mặt đất ở
cõi đó đều toàn bằng vàng (huỳnh kim vi địa) và chiếu sáng khắp mọi nơi,
biểu trưng cho sự chí thành ngời chói Bồ Đề Tâm, của đức Phật A Di Đà đã
vì chúng sanh mà trải lòng từ bi cứu độ, của đại chúng đã phát trải lòng
mình theo về với Phật, không ngừng tu dưỡng đức hạnh tự lợi và lợi tha,
cứu mình và giúp người.
Thế nào là
6 thời?
Ngày đêm ở
cõi đó chia làm 6 thời (trú dạ lục thời), tính theo giờ của nước Ấn Độ
trong thời Phật còn tại thế. Ngày có 3 thời (gọi là sơ nhật, trung nhật,
hậu nhật), đêm có 3 thời (gọi là sơ dạ, trung dạ, hậu dạ), mỗi thời là 4
tiếng. Cực Lạc là cõi sáng, không có ngày đêm, đây chỉ là tạm nói ngày đêm
theo cái hiểu của thế gian, để dễ phân định ra 6 chuỗi thời gian (6 x 4)
những khi có mưa hoa và nhạc trời. Ở cõi Cực Lạc không có mặt trời, không
có mặt trăng, không có ngôi sao, không có sáng trưa chiều tối, không có
thời gian năm tháng, không có bốn mùa, không có nắng mưa, không có Quá khứ
Hiện tại Vị lai, và mọi loài ở cõi nước đó cũng không có tánh ngủ vì tất
cả đều được hóa sanh từ hoa sen tinh khiết. Cõi nước ấy rất sáng, sáng hơn
cả mặt trời mặt trăng. Cõi đó sáng là vì ánh hào quang vàng chói của Phật
A Di Đà (vô lượng quang) với đức tướng to lớn khôn cùng, và yến sáng của
Thánh chúng (kim thân), cùng với ánh sáng của 4 bảo, 7 báu tỏa ra từ những
hàng cây, lưới, rào, ao hồ, mặt đất, đáy ao, lầu đài, cung điện, tịnh xá,
hoa trời, hoa sen, nhạc cụ, chim thiêng… Ở cõi Cực Lạc không có bất cứ chỗ
nào có bóng tối.
Theo tinh
thần của bản kinh A Di Đà, 6 thời của ngày đêm, với mưa hoa, với nhạc
trời… là biểu trưng cho pháp Lục Độ Ba La Mật của bậc Bồ Tát (tức là 6
pháp tu để đạt đến bờ bên kia của sự giải thoát):
- bố thí
(hiến tặng)
- trì giới
(nghiêm mật giữ gìn giới luật)
- nhẫn nhục
(nhận chịu những điều trái ý, nghịch lòng)
- tinh tấn
(chuyên cần tu tập không ngừng nghỉ)
- thiền
định (giữ tâm cho chuyên nhất)
- trí tuệ
(nhận thức sáng suốt)
Bố thí, bao
gồm các mặt: lao tác, lòng yêu thương, tiền của, lời khuyên dạy, sự không
sợ hãi, ánh mắt hiền lành, nụ cười và nét mặt tươi vui, cử chỉ và lời nói
nhã nhặn…
Người tu
đạo phải thực hành hạnh Bố Thí trên nhiều khía cạnh như thế. Mỗi một tiếng
niệm A Di Đà, phải được thể hiện trên nét mặt tươi vui, trong sự
an bình thanh thản của tâm hồn và trong ánh mắt
từ bi của chính mình. Người niệm Phật phải dùng tiếng niệm A Di Đà để quét
sạch mọi ý niệm biệt phân, chấp trước vào nhân ngã tướng trong khi thực
hành hạnh Bố Thí.
Về phần
giới luật, Tỳ Kheo thọ 250 giới, Tỳ Kheo Ni thọ 348 giới, Bồ Tát xuất gia
thọ 58 giới, Bồ Tát tại gia thọ 34 giới, Cư sĩ thọ 5 giới.
Ngoài ngũ
giới (5 giới), còn gọi là ngũ đức, của người tu tại gia, thì các giới
thuộc về Tỳ Kheo giới, Tỳ Kheo Ni giới, Bồ Tát giới chỉ có người phát tâm
thọ giới mới được học đến.
Thế nào là
Ngũ giới? Ngũ giới là 5 điều răn cấm của người Cư sĩ tu tại gia, đây cũng
là 5 giới căn bản của những người xuất gia:
- không sát
sanh
- không
trộm cướp
- không tà
dâm
- không nói
sai sự thật
- không
uống rượu
Nếu nói
rộng ra, ngũ giới bao gồm những điều răn cấm như sau: Không giết người,
không sát hại thú vật, cũng không khuyến khích người khác giết, hoặc thuê
mướn người, nhờ người giết dùm, không đe dọa khủng bố hoặc báo thù người,
không đánh đập người và vật, không làm cho người hoặc các loài sinh vật
giết hại lẫn nhau, cũng không tàng trữ các loại vũ khí giết người. Không
trộm cắp, không cướp bóc, không gạt gẫm, không giựt nợ, không cờ bạc hoặc
mua bán gian lận. Không ngoại tình, không thủ dâm, không hãm hiếp người,
cũng không gần gũi vợ chồng thái quá. Không nói láo, không nói lưỡi hai
chiều, không nói thêu dệt, không nói lời hung ác, không nói chuyện thị
phi, không nói lăng nhăng. Không dùng các chất say (bia, rượu) và các chất
nghiện (thuốc lá, cần sa, xì ke, ma túy, thuốc phiện), không mua bán rượu,
tặng rượu, cũng không khuyến khích hoặc nài ép người khác uống rượu.
Thế nào là
Kinh hành và Thiền hành?
Kinh hành
là đi từng bước thong dong và thư thả trong chánh niệm, vừa đi vừa niệm
Phật. Niệm theo lối mặc niệm (niệm trong tâm, không động môi, không phát
ra tiếng) và chỉ niệm 4 chữ A Di Đà Phật. Niệm chậm rãi và rõ ràng từng
chữ một. Tập trung tâm ý vào danh hiệu Phật. Mỗi một câu niệm 4 chữ, theo
liền với 2 bước. Chân TRÁI bước tới, niệm “A Di”. Chân PHẢI bước tới, niệm
“Đà Phật” (chấm dứt chữ “Phật” khi chân PHẢI vừa chạm đất). Pháp kinh hành
được áp dụng khi đi trên con đường dài, đi dạo chơi trong rừng, trong công
viên, đi dạo quanh chùa, hoặc tản bộ dọc theo bờ sông…
Thiền hành
thì cách thức cũng giống như kinh hành nhưng từng mỗi bước đi phải thật
chậm rãi và chánh niệm. Pháp thiền hành được áp dụng khi đi dạo trong
vườn, đi nhiễu quanh tượng Phật, đi vòng quanh chánh điện… Mỗi bước đi là
mỗi một câu niệm (theo lối mặc niệm và chỉ niệm 4 chữ A Di Đà Phật). Chân
TRÁI bước tới, niệm “A Di Đà Phật”, chấm dứt chữ “Phật” khi chân trái vừa
chạm đất. Chân PHẢI bước tới, niệm “A Di Đà Phật”, chấm dứt chữ “Phật” khi
chân phải vừa chạm đất. Từng mỗi bước đi, từng mỗi câu niệm, thành kính
quy ngưỡng về Tam Bảo.
Khi đạt
được sự an lạc trên từng mỗi bước chân qua lối kinh hành và thiền hành như
thế, điều ấy có nghĩa là tương đối đã có sự chuyên nhất trong niệm tưởng A
Di Đà. Khi có chánh niệm thì mỗi bước đi sẽ là nguồn an lạc mầu nhiệm vô
biên. Từng bước nở hoa sen, nó có ý nghĩa rất thánh thiện là như vậy.
Thế nào là
Mưa hoa Mạn Đà La?
Mỗi ngày
đêm 6 lần, có hoa Mạn Đà La từ mây trời tuôn rải xuống như mưa (vũ thiên
Mạn Đà La hoa). Đây là loại hoa màu trắng, giống hoa sen, nên còn gọi là
Bạch liên hoa, có mùi hương rất tinh khiết. Loại hoa nầy, cánh nhỏ vừa thì
gọi là Mạn Đà La (tiếng Hán là Bạch hoa), cánh lớn thì gọi là Ma Ha Mạn Đà
La (tiếng Hán là Đại bạch hoa). Đây là loài hoa Tự-nhiên-ý, tùy người muốn
hình dạng, màu sắc, hương thơm ra sao thì chính người ấy sẽ tự cảm nhận và
được thấy y như vậy.
Hoa nầy rơi
xuống như mưa, khoảng chừng một bữa ăn, thì hoa sẽ tự động tan biến. Đến
thời kế tiếp thì hoa lại rơi, như vậy 6 lần theo ngày đêm. Ngửi được mùi
hương của hoa nầy làm cho tinh thần rất vui thích, vì vậy nên còn gọi là
Thích-ý-hoa. Mưa hoa trời là vì hoa nầy từ mây trời rơi xuống và nhiều như
mưa (ở Cực Lạc thì chỉ có mưa hoa, không có mưa nắng tuyết bão hoặc sấm
chớp như ở cõi trần gian, không có lũ lụt, hạn hán, động đất, tật dịch,
binh đao, không có cái lạnh và cái nóng, chỉ có sự mát mẻ, dễ chịu và gió
pháp nhẹ nhàng). Nếu hoa nầy được đem đi cúng dường cho các đức Phật, thì
sau khi dâng cúng, hoa sẽ tự nhiên bay trong hư không, ngát tỏa hương thơm
vô cùng vi diệu và tinh khiết.
Mỗi sáng
sớm, các Thánh chúng thường dùng vạt áo (y kích) làm đãy hoa, để đựng
những hoa trời, đem đi cúng dường cho mười vạn ức chư Phật ở các phương
khác (thập vạn ức Phật). Nếu tính theo số mục của thời xưa, thập vạn ức là
10 tỷ (10 x 10.000 x 100.000), hoặc tính theo thời nay là 10.000 tỷ (10 x
10.000 x 100.000.000), ở đây nên hiểu là vô lượng vô số các đức Phật.
Các phương
khác (tha phương), ý nói là mười phương. Lấy vạt áo của mình để đựng hoa
cúng dường, ý nói là Thánh chúng gói gém những hương hoa dâng lên chư Phật
bằng tất cả tấm lòng chân thành của chính người ấy. Cúng dường mỗi sáng
sớm, là vì sáng sớm lúc tâm tưởng của mọi người rất thanh tịnh và an bình,
đó là việc đầu tiên nhất, nhớ tưởng đến chư Phật và chánh pháp của Phật.
Nơi cõi rất
sáng đó, mọi người có thể đọc được tư tưởng của nhau, có thể giao tiếp và
cảm thông với nhau bằng tâm thức (vì có tha tâm thông). Những khi muốn đi
đến một nơi nào, người ấy chỉ cần tập trung tâm trí, một lòng chuyên chú
vào ý thức đó, thì chỉ trong sát na đã tới được nơi mình muốn đến (vì có
thần túc thông). Bởi thần thông diệu dụng như vậy, cho nên việc đi cúng
dường những hoa trời cho 10 tỷ chư Phật ở các phương khác chỉ trong khoảng
thời gian độ chừng một bữa ăn. Sát na là khoảng thời gian rất ngắn, độ
chừng 1 phần 60 của một giây (1/60). Ở cõi nước Cực Lạc còn có các loại
mưa hoa Mạn Thù Sa (còn gọi là Lam hoa) và mưa hoa Ma Ha Mạn Thù Sa (còn
gọi là Hạm hoa). Cả 2 loài hoa nầy, sắc hoa màu đỏ, hương thơm tinh khiết,
hình dạng lớn nhỏ khác nhau và mịn mát như tơ lụa.
Thế nào là
Phạn thực?
Khi đến giờ
ăn, đại chúng liền trở về nước của mình để ăn
cơm và kinh hành. Cực Lạc là cõi thế giới của chân tánh, của công đức trí
huệ, vì vậy ở cõi đó không có việc ăn uống vật
thực để nuôi dưỡng kim thân, ở đây ý nói là dùng tâm ý để thọ nhận những
hương vị của thức ăn. Sáu căn, mắt tai mũi lưỡi thân ý, đều có thể thưởng
thức được chất vị các món ăn theo ý nguyện
(phạn thực). Khi muốn thức ăn thì chỉ cần tập
trung tâm trí và các món ăn sẽ tự động bày ra trước mặt như ý muốn. Sau
khi dùng rồi thì các thức ăn sẽ tự động tan
biến vào hư không. Ở cõi nước Phật A Di Đà, cái vui an lạc và thanh tịnh
của pháp được xem là món ăn của tâm để tăng
trưởng phước huệ (pháp hỷ thực: món ăn vui của pháp).
Khi người
niệm Phật đạt được Nhất Tâm Bất Loạn, thì tất cả pháp thế gian nơi cõi Ta
Bà nầy, trong hoàn cảnh động hoặc tĩnh, chẳng thể làm lay chuyển hoặc chi
phối tâm tưởng của người niệm Phật. Trong tâm người ấy, toàn thể là sự
vắng lặng, thanh tịnh, sáng suốt, nhiệm mầu. Sự an lạc đó được thể hiện
qua lời nói, nụ cười, ánh mắt từ bi, nét mặt, cử chỉ, hành động của chính
người ấy. Niềm vui của pháp là món ăn hoan hỷ trong tâm của người niệm
Phật. Trong tâm người ấy, suốt cả 6 thời đêm ngày, vạn ngàn tiếng niệm A
Di Đà là những thanh âm vô cùng mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn, đó là cảnh
giới Niết Bàn Tịnh Độ của tự tánh tự niệm A Di Đà
KINH: “Xá
Lợi Phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.”
Cõi Cực Lạc
thành tựu sự trang nghiêm như thế là bởi công đức và đạo hạnh của đức Phật
A Di Đà. Sự trang nghiêm ở công đức trí huệ đã được dựng lên tại cõi nước
Cực Lạc là mưa Thích-ý-hoa, với nhạc trời tự động hòa xướng mỗi ngày đêm 6
thời, mặt đất đều toàn bằng vàng, tỏa ánh hào quang vô cùng rực rỡ và
trang nghiêm.
KINH: “Lại
còn nữa, Xá Lợi Phất, nơi cõi nước đó thường có nhiều giống chim kỳ diệu,
đủ các màu sắc: chim Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Võ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần
Già, Cộng Mạng. Các loài chim đó ngày đêm sáu thời hót ca thanh âm hòa
nhã. Trong thanh âm đó diễn nói các pháp: Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề
Phần, Bát Thánh Đạo Phần, các pháp như thế. Chúng sanh trong cõi đó nghe
thanh âm ấy, tất cả đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.”
6 loài
chim: Bạch Hạc (loài hạc trắng), Khổng Tước (loài công), Anh Võ (loài
két), Xá Lợi (loài cò), Ca Lăng Tần Già (loài chim kalavinka), Cộng Mạng
(loài chim hai đầu), ở miền Trung Ấn Độ, là những giống chim xinh đẹp lạ
thường, có rất nhiều màu sắc khác nhau (tạp sắc chi điểu), tiếng hót êm
dịu hòa nhã (xuất hòa nhã âm). Nơi cõi Cực Lạc, mọi người nghe được những
tiếng chim ấy, đều tăng trưởng vững chắc Bồ Đề Tâm, một lòng tôn kính và
nhớ tưởng đến chư Phật, chánh pháp của Phật và hàng Thánh chúng (niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng).
Theo tinh
thần của bản kinh A Di Đà, 6 giống chim nầy (lục hóa cầm) được Phật biến
hóa ra để nói pháp ở cõi Cực Lạc, biểu trưng cho Lục Thông của Bồ Tát (tức
là 6 phép thần thông diệu dụng). Tất cả những người được sanh về cõi nước
Phật A Di Đà, có đầy đủ công đức và đạo hạnh, đều có 6 thứ thần thông:
- mắt thấy
xa ngàn dặm (thiên nhãn thông)
- tai nghe
xa ngàn dặm và hiểu được tiếng nói của mọi loài (thiên nhĩ thông)
- biết được
tâm tưởng của người khác (tha tâm thông)
- biết rõ
được nhiều kiếp trước (túc mạng thông)
- biến hoá
vô cùng tự tại (thần túc thông)
- đoạn dứt
tất cả phiền não (lậu tận thông)
Tuy vậy,
mục đích tu niệm không phải là để được các phép thần thông. Mục đích chân
chánh của việc niệm Phật là để cắt đứt vòng dây sanh tử luân hồi. Do vậy,
khi chấp trì danh hiệu Phật thì phải chấp trì với tâm không mong cầu bất
cứ điều gì, đừng quá bám víu để trở thành một cái gì khác lạ, ngay cả quả
vị cứu cánh là để đạt được cảnh giới nhất tâm, diệt tận phiền não, tự tại
tâm thức, vượt thoát bể khổ trầm luân.
Hãy tinh
tấn mà niệm Phật với tâm xả ly tất cả pháp. Mỗi ngày như mọi ngày, người
niệm Phật chỉ biết thành tâm mà niệm Phật, nghiêm kính mà hành trì, với
tâm vô cầu. Người niệm Phật ngày đêm cẩn thiết chấp trì danh hiệu Phật,
dẫu cho rằng: chỉ còn một hơi thở cuối cùng, người niệm Phật vẫn một lòng
trì giữ tiếng niệm A Di Đà trong tâm trí. Niệm Phật tinh tấn và nghiêm mật
như vậy, gọi là “chân chánh chấp trì danh hiệu Phật”.
Ngũ Căn và
Ngũ Lực:
Các tiếng
pháp, qua sự diễn xướng 6 thời của 6 giống chim, là những pháp Ngũ Căn,
Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo, tổng cộng là 25 phẩm trợ đạo. Ngũ
Căn là 5 cội rễ làm căn bản phước huệ để tu trì:
- tin tưởng
vào chánh pháp (tín căn)
- dũng mãnh
tu tập theo chánh pháp (tấn căn)
- nhớ tưởng
chánh pháp (niệm căn)
- thu nhiếp
tâm theo chánh pháp (định căn)
- trí tuệ
chiếu soi sáng suốt (huệ căn)
Ngũ Lực là
5 sức mạnh làm tăng trưởng Ngũ Căn, phá trừ tất cả những chướng ngại trên
bước đường tu đạo:
- tín lực,
phá trừ lòng tin sai lầm
- tấn lực,
phá trừ sự biếng nhác
- niệm lực,
phá trừ các tà ý
- định lực,
phá trừ mọi loạn tưởng
- huệ lực,
phá trừ sự ngu mê
Có niềm tin
vững chắc, cùng dựa trên sự trợ lực của yếu tố Tinh Tấn, người niệm Phật
ngày đêm trì giữ câu Phật hiệu A Di Đà không buông lơi, không chán mỏi.
Niệm Phật chuyên cần và cẩn mật như thế thì mới có thể làm tăng trưởng 2
yếu tố Định và Huệ, phá vỡ bức tường Vô Minh đã che mờ chân tánh từ bao
ngàn kiếp trước.
Trong kinh
Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội, Phật Thích Ca nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện
nữ nhân nào đủ lòng tin, thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu A Di
Đà Phật, suốt cả sáu thời đêm ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì
hiện tiền chiêu cảm được Y báo và Chánh báo của Phật A Di Đà ở cõi Cực
Lạc.”
Đức Phật
Thích Ca và tất cả chư Phật 6 phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới) đã
7 lần khuyến tín, 7 lần khuyên dẫn, 7 lần tán thán, với lời chân thật, về
sự phải nên TIN vào bản kinh A Di Đà, vào pháp môn niệm Phật, vào công đức
trí huệ thành tựu. Chúng ta phải có lòng TIN vững và chắc như thế, thì mới
có thể tu trì tinh tấn và có cứu cánh Niết Bàn để hướng nguyện sanh về.
TÍN là nền
tảng, là cửa vào của pháp tu Nhất Hạnh Tam Muội. Niềm tin có kiên cố và
vững chắc là ở sự nương vào ánh sáng trí tuệ của TRI, tức là yếu tố Văn
Huệ và Tư Huệ của Tri Thức, hiểu được chánh pháp, nắm giữ được cương lĩnh
của đạo, thấu suốt được nghĩa lý của kinh, tinh tấn tu trì đúng theo bản ý
của lời Phật dạy. TRI là để hiểu sâu, thấu hiểu được lời Phật dạy. TÍN dựa
vào yếu tố TRI, thì niềm tin sẽ càng vững mạnh và bền chắc, làm tăng
trưởng 3 yếu tố NIỆM ĐỊNH HUỆ.
4 pháp
chính trong 37 phẩm trợ đạo mà các tiếng chim diễn xướng qua 6 thời (bao
gồm các pháp Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo) là 4 mắt xích
phối hợp thành một chuỗi, qua 3 nhóm chung là Tấn Niệm Định.
Sự đan lưới
vào nhau giữa 3 yếu tố Tấn Niệm Định của 4 pháp nầy, làm thành một khối
kim cang của giáo nghĩa trợ đạo Ba La Mật tối thượng. Đó là các pháp trợ
đạo vô cùng vi diệu, mà người niệm Phật phải nương dựa vào những lý nghĩa
đó để phát khởi tín tâm, nghiêm mật tu trì, đạt đến cảnh giới Nhất Hạnh
Tam Muội, vượt đến bờ bên kia của sự giải thoát. Giáo nghĩa trợ đạo nầy,
dựa trên pháp Niệm Phật Tam Muội, theo cách tứ tự mặc niệm, giúp cho người
tu học có phương tiện để nương theo đó mà tu dưỡng công đức trí huệ và đạo
hạnh.
Thế nào là
Tứ tự mặc niệm?
Tứ tự mặc
niệm là chỉ niệm 4 chữ A Di Đà Phật và trì niệm theo pháp mặc niệm (niệm
trong tâm). Trong bước đầu tu tập, người niệm Phật nên thường ngồi yên
tịnh một mình, cố gắng giữ tâm cho tĩnh lặng, lắng lòng mà niệm Phật, để
quen dần với cách mặc niệm. Đừng niệm quá nhanh vì dễ bị niệm dối. Đừng
chạy theo số lượng nhiều mà niệm tán loạn. Niệm từng chữ và phải chắc từng
chữ. Niệm chữ “A”, tâm nghe rõ ràng chữ “A”. Niệm chữ “Di”, tâm nghe rõ
ràng chữ “Di”. Niệm chữ “Đà”, tâm nghe rõ ràng chữ “Đà”. Niệm chữ “Phật”,
tâm nghe rõ ràng chữ “Phật”. Khi đã chuyên niệm vững vàng, thì có thể niệm
nhanh theo lối truy đảnh, niệm nầy nối tiếp niệm kia, niệm truy đuổi niệm,
niệm niệm gối đầu theo nhau, không một kẽ hở giữa các niệm để vọng tưởng
có thể chen vào. 4 chữ danh hiệu A Di Đà Phật có công năng vô cùng diệu
dụng và tối thắng, qua công phu trì niệm tinh tấn và nghiêm mật của người
tu trì, được đúc thành một khối kim cang tứ cú kệ vững và chắc.
Thế nào là
Kim Cang tứ cú kệ?
Đó là lưỡi
gươm sắc bén làm bằng ngọc báu của trí tuệ, có thể chặt đứt mọi phiền não,
tà kiến, tham, sân, si, mạn, nghi (tham lam, sân hận, ngu mê, ngạo mạn,
nghi ngờ). Tứ Cú Kệ là tinh túy cốt tủy của kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La
Mật: “vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”.
Sự chấp trước vào nhân ngã tướng là những trở ngại lớn trên bước đường tu
đạo mà người niệm Phật thường hay bị mắc phải.
Thế nào là
Ngã tướng? Nghĩ rằng mình có cái tốt, cái giỏi hơn người, nên sanh tâm
kiêu ngạo chính mình. Trừ diệt được cái chấp về ngã tướng thì gọi là vô
ngã tướng.
Thế nào là
Nhân tướng? Nghĩ rằng mình tu hành, giữ giới, niệm Phật, nên khinh rẻ
những người chẳng tu hành, chẳng giữ giới, chẳng niệm Phật. Trừ diệt được
cái chấp về nhân tướng thì gọi là vô nhân tướng.
Thế nào là
Chúng sanh tướng? Nghĩ rằng mình vì nhàm chán cõi đời ô trược nầy mà muốn
sanh về các cõi lành của Phật, Bồ Tát, chư Thiên. Trừ diệt được cái chấp
về chúng sanh tướng thì gọi là vô chúng sanh tướng.
Thế nào là
Thọ giả tướng? Nghĩ rằng mình vì muốn tạo nhận nhiều công đức trí huệ, có
thần thông biến hóa, tự tại vô ngại, sống lâu, mà tu nghiệp phước, làm
điều lành, chấp lấy pháp không rời bỏ. Trừ diệt được cái chấp về thọ giả
tướng thì gọi là vô thọ giả tướng.
Đức Phật
dạy rằng, muốn trừ diệt những cái chấp tướng, chấp pháp, thì phải quán
chiếu tất cả mọi vật, mọi việc trên thế gian nầy chỉ là cơn gió huyễn
mộng. Những gì có hình tướng, có sắc thể hữu vi, ở cõi Ta Bà nầy, chẳng
thể nào trường tồn để chúng ta có thể ôm giữ mãi được: “tất cả những gì có
hình tướng, như chiêm bao, huyễn ảo, bọt nước, bóng mờ, như sương mù cũng
như ánh chớp, phải nên quán sát là như vậy”.
Trong thời
Mạt pháp, muốn tu hành để trừ diệt những cái chấp về ngã tướng, nhân
tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, thì không có pháp môn nào khác thù
thắng hơn pháp trì danh niệm Phật. Phải dùng tiếng niệm Phật để dứt trừ
những chấp trước về nhân ngã tướng. Khi đạt được cảnh giới Niệm Phật Tam
Muội thì cái nhìn của tri thức mình đã đang bước vào ngưỡng cửa của Vô
Tướng.
Khi niệm
Phật đến một trình độ nào đó, người niệm Phật sẽ thấy và hiểu – một cách
rất sâu xa – về tất cả mọi sự vật chung quanh đúng như bản chất thật sự
của chúng. Tất cả mọi hữu thể là sự kết hợp của vạn duyên, và sự kết hợp
cứ như vậy mà chuyển biến không ngừng. Mọi vật thể không có thực thể riêng
biệt. Tất cả mọi sự vật sinh khởi, tăng trưởng, suy yếu, tàn hoại đều có
những khởi duyên và hoại duyên theo cùng với. Bởi bản chất vô thường của
chúng là như vậy nên tất cả những gì có hình tướng trên thế gian nầy giống
như chiêm bao, huyễn ảo, bọt nước, bóng mờ, sương mù, ánh chớp.
Theo tinh
thần của bản kinh A Di Đà, 2 pháp chính làm nền tảng trợ lực trong pháp
môn niệm Phật là Ngũ Căn và Ngũ Lực, kết hợp với nhau như gốc rễ và thân
cành lá, qua 5 nhóm chung là Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ. Trong đó, Tín là
quan trọng nhất vì là cái nhân khởi đầu trong pháp tu niệm Phật, và Huệ là
cái quả của rốt ráo sau cùng. Có Tín vững chắc thì mới có Nguyện thiết
tha, mới có Hành tinh chuyên, mới có Định của Nhất Tâm Bất Loạn, mới có sự
viên mãn sáng suốt của Huệ.
Ở sự chân
chánh, dựa trên 2 phạm trù Chánh Kiến và Chánh Tư Duy của Bát Chánh Đạo
(tức là sự hiểu biết và suy nghĩ chân chánh), cùng với yếu tố Trạch Pháp
của Thất Giác Chi (tức là sự quán sát các pháp, biện giải đúng lý nghĩa) –
Tất cả 3 yếu tố nầy đan kết vào nhau, hỗ trợ nhau, từ đấy phát triển sự
thấy, sự hiểu, sự suy tư thâm sâu hơn vào giáo nghĩa huyền diệu của bản
kinh A Di Đà, giúp ta nhìn thấu suốt những nghĩa lý huyền ẩn và nhiệm mầu
của 4 chữ danh hiệu A Di Đà Phật.
Đấy là
những điểm tương quan, hợp phối với nhau trên lãnh vực Tri Thức, đưa đến
sự thành tựu của cái thấy biết có trí huệ (gọi là Tư Huệ và Văn Huệ),
nghĩa là trí huệ đạt được từ sự suy tư hiểu biết qua tri thức và sự lắng
nghe, học hiểu qua nghĩa lý văn tự. Đồng thời, cùng với sự tinh tấn trì
niệm danh hiệu Phật ngày đêm 6 thời, một cách chí thành và nghiêm mật, đưa
đến sự thành tựu Nhất Tâm Bất Loạn, phát triển trí tuệ sáng suốt (gọi là
Tu Huệ), tức là trí huệ đạt được do sự tu hành, chuyên nhất chấp trì danh
hiệu Phật. Các pháp Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo là 4
pháp chính mà 6 giống chim kỳ diệu đã cùng nhau diễn xướng qua mỗi ngày
đêm 6 thời. Những pháp nhiệm mầu như thế (như thị đẳng pháp) và các pháp
nhiệm mầu khác nữa, đó là Tứ Vô Lượng Tâm, Lục Độ Ba La Mật, Tứ Chánh Cần,
Tứ Như Ý Túc, Tứ Niệm Xứ, Tứ Diệu Đế, Thập Thiện Nghiệp, Tứ Nhiếp Pháp…
Ý nghĩa
huyền diệu của 4 chữ A Di Đà Phật:
– A Di Đà
Phật là trí tín nguyện hạnh, từ bi hỷ xả, giới niệm định huệ, vi diệu
hương khiết, không tham yêu, không giận ghét, không mê loạn, không sợ hãi,
sáng chói vô biên, sống lâu vô cùng, diệu hạnh vô lượng, trí tuệ vô tận. A
Di Đà Phật là vô lượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vô ngã tướng, vô nhân tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.
– A là mười
phương tam thế chư Phật trong 3 thời Quá khứ Hiện tại Vị lai. Di là tất cả
chư vị Bồ Tát Thánh chúng trong các cõi giới. Đà là tất cả 84.000 kinh
giáo của đức Như Lai. Phật là tỉnh giác, sáng
suốt, từ bi.
ý nghĩa
huyền diệu của 4 chữ A Di Đà Phật biểu hiện 4 đức tánh liên hoa: vi, diệu,
hương, khiết
Thế nào là
Tứ Chánh Cần? Tứ Chánh Cần là 4 điều chuyên cần hợp với chánh đạo:
- ngăn ngừa
những điều ác chưa phát sinh
- trừ diệt
những điều ác đã phát sinh
- làm sanh
khởi những điều lành chưa phát sinh
- tăng
trưởng những điều lành đã phát sinh
Người niệm
Phật phải nghiêm cẩn tu giữ 4 điều chân chánh của Tứ Chánh Cần trong từng
mỗi phút giây, bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào, trên cả 3 phương
diện: ý nghĩ, lời nói, hành động (thân khẩu ý). Đó chính là pháp tu tổng
trì của 84.000 giáo pháp Như Lai.
Thế nào là
Tứ Như Ý Túc? Tứ Như Ý Túc là 4 pháp để nương tựa tu tập cho công đức đạo
hạnh được như Ý:
- mong muốn
tu các pháp lành cho được như ý
- tinh tấn
tu tập các pháp lành cho được như ý
- chuyên
nhất vào các pháp tu cho được như ý
- sáng suốt
quán sát tu tập cho được như ý
Thế nào là
Tứ Niệm Xứ? Tứ Niệm Xứ là 4 lãnh vực quán niệm về thân và tâm:
- thân xác
là bất tịnh, nhơ nhớp
- tâm thức
là vô thường, biến động
- cảm thọ
là khổ ải, mê lụy, trói buộc
- các pháp
là vô ngã, không có thực thể riêng biệt
Thế nào là
Tứ Nhiếp Pháp? Tứ Nhiếp Pháp là 4 phương pháp để nhiếp thọ chúng sanh theo
về chánh đạo:
- bố thí để
đưa dẫn người đến với chánh đạo
- nói lời
dịu dàng để giúp người an trụ nơi chánh đạo
- làm lợi
ích cho người để cùng an trụ nơi chánh đạo
- làm việc
chung với người để cùng hướng về chánh đạo
Thế nào là
Tứ Diệu Đế?
Tứ Diệu Đế,
còn gọi là Tứ Thánh Đế, là 4 chân lý mầu nhiệm trên cuộc đời:
- đời người
là khổ với 84.000 phiền não (khổ đế)
- nguyên
nhân của khổ là 108 ái dục (tập đế)
- cứu cánh
sau khi diệt khổ là Niết Bàn (diệt đế)
- con đường
để diệt khổ là 37 phẩm trợ đạo (đạo đế)
Tất cả
những gì trên thế gian nầy đều vô thường. Mọi sự việc luôn biến dịch đổi
dời. Không một hình tướng nào, một tưởng suy nào nằm nguyên một trạng
thái. Đó là chân lý vô thường của tất cả vạn vật trần gian. Mọi sự, mọi
việc trên cuộc đời nầy, đều trải qua những giai đoạn sinh khởi, biến thể,
rồi tàn phai, và bởi tâm chúng ta cố mãi bám víu vào sự chiếm hữu, mong
cầu tất cả vẫn luôn thường hằng, vì vậy nên mới có sự khổ.
Nguyên nhân
của khổ là lòng luyến ái, tham lụy, mê đắm, nuối tiếc, ích kỷ, sân hận,
kiêu mạn, tà kiến, chấp ngã… Trong đó, gốc rễ căn bản của khổ là Vô Minh,
tức là tâm thức mê mờ vì bị vọng tưởng che lấp.
Cứu cánh
sau khi diệt khổ là Niết Bàn. Cảnh giới của không sanh không diệt, đã dập
tắt ngọn lửa của dục vọng, thể nhập vào ánh sáng của chân tánh, đạt đến sự
thanh tịnh an vui và tự tại.
Có 2 loại
Niết Bàn:
– Hữu dư
Niết Bàn: Người chứng đắc tuy đã trừ diệt được phiền não nhưng chưa hoàn
toàn viên mãn, vẫn còn trở lại sanh tử 1 lần hoặc 7 lần nữa. Đây là quả vị
hữu dư của chư Phật vừa chứng đạo, các bậc A La Hán trong Tứ quả Thanh Văn
còn tại thế.
– Vô dư
Niết Bàn: Người chứng đắc đã hoàn toàn giải thoát khỏi sanh tử, đã đoạn
dứt tất cả mọi phiền não và ngã chấp. Đây là quả vị vô dư của chư Phật và
các bậc A La Hán đã nhập diệt.
Con đường
để chấm dứt sự khổ là 37 phẩm trợ đạo. 37 phẩm trợ đạo bao gồm các pháp:
Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh Đạo, Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh
Cần, Tứ Như Ý Túc.
Pháp môn
Niệm Phật Bát Nhã có công năng phá trừ 84.000 phiền não, hủy diệt 108 ái
dục, làm nền tảng vững chắc cho 37 phẩm trợ đạo, đó là con thuyền Bát Nhã
đưa người niệm Phật đến cảnh giới Niết Bàn Tịnh Độ ở trong Tâm của người
tu niệm, và có diệu lực thần thông vượt qua 10 tỷ cõi nước Phật, thẳng tới
Tây phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.
108 loại ái
dục, tính theo sáu căn: mắt tai mũi lưỡi thân ý, mỗi căn bị trói buộc bởi
6 món phiền não căn bản là tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, qua 3 thời
Quá khứ Hiện Tại Vị Lai, tất cả là 108 loại (6 x 6 x 3 = 108).
Thế nào là
Tứ quả Thanh Văn?
Thanh Văn
là hàng đệ tử Tiểu thừa, đã chứng đắc đạo quả, đã đoạn dứt phiền não và
ngã chấp. Có 4 bậc Thanh Văn, gọi là Tứ quả Thanh Văn:
– Tu Đà
Hoàn (quả vị dự lưu): người nầy đã thể nhập vào giòng Thánh nhưng vẫn phải
sanh tử 7 lần nữa ở cõi Ta Bà vì còn bị chi phối rất nhiều bởi các phiền
não của Tư hoặc.
– Tư Đà Hàm
(quả vị nhất lai): người nầy chỉ còn sanh tử 1 lần nữa ở cõi Ta Bà vì đã
trừ diệt được Kiến hoặc và ít nhiều phiền não của Tư hoặc.
– A Na Hàm
(quả vị bất lai): người nầy chẳng còn trở lại thế giới Ta Bà nữa vì đã trừ
diệt tất cả mọi phiền não của Kiến hoặc và Tư hoặc ở cõi Dục.
– A La Hán
(quả vị vô sinh): người nầy đã chứng đạo viên mãn, đã liễu thoát sanh tử,
đã trừ tuyệt tất cả mọi phiền não của Kiến hoặc và Tư hoặc trong Tam giới.
Thế nào là
Tam giới?
Đó là 3
cõi: Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới.
– cõi Dục:
cảnh giới của dục vọng, đó là các cõi Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A Tu
La, Người, và những cõi Trời Tứ Đại Thiên Vương, Đao Lợi, Dạ Ma, Đâu Suất,
Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại.
–
cõi Sắc: cảnh giới phúc hạnh của Thiền, có sắc
thể, được kiến lập trong hư không, của các bậc Phạm Thiên (các vị Trời đã
dứt trừ mọi tham dục).
– cõi Vô
Sắc: cảnh giới vi diệu của Thiền, không có sắc thể, đó là cõi Tâm Thức,
được xây dựng trong hư không, các vị ở cõi nầy có thọ mạng lâu dài nhất
trong 3 cõi.
Theo tinh
thần của bản kinh A Di Đà, Niết Bàn Cực Lạc của Phật A Di Đà là cõi sáng
vĩnh hằng, miền an dưỡng thiêng liêng và kỳ diệu, nơi chốn của công đức
trí huệ và đạo hạnh, ở ngoài tam giới, cách xa cõi trần gian 10 tỷ thế
giới của chư Phật. Nếu nói về lý (thực tướng), Cực Lạc là cảnh giới thanh
tịnh nhiệm mầu ở trong tâm của người niệm Phật, đó là tự tánh A Di Đà vô
lượng quang vô lượng thọ. Khi người niệm Phật đạt được cảnh giới Nhất Tâm
Bất Loạn, thì Niết Bàn Cực Lạc ở ngay trên thế giới Ta Bà nầy.
Thế nào là
Kiến hoặc?
Kiến hoặc
là 10 món phiền não do sự chấp trước vào thân và cảnh mà khởi sinh ra ý
thức phân biệt sai lầm.
Đấy là
những phiền não gắn liền với ý thức và chỉ phát khởi trên phương diện ý
thức. Đó là tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến,
giới cấm thủ kiến, tà kiến:
- ý niệm
tham muốn
- ý niệm
giận dữ
- ý niệm
ngu mê, lầm lạc
- nghĩ mình
hơn người nên khinh người
- không có
lòng tin vào chánh pháp
- chấp thân
nầy là Ta
- cái nhìn
cực đoan, phiến diện
- chấp giữ
lấy sự hiểu biết sai lầm của mình
- làm theo
lời răn cấm của ngoại đạo
- mê tín dị
đoan
5 món cuối
thuộc về thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến, tà kiến,
còn gọi là Ngũ Lợi Sử (5 món phiền não chấp trước).
Thế nào là
Tư hoặc?
Tư hoặc là
4 món phiền não ăn sâu vào gốc rễ tâm tánh của
con người qua muôn ngàn kiếp trước. Đó là tham, sân, si, mạn (tham đắm,
giận dữ, si mê, kiêu mạn), do sự mê đắm chấp ngã mà có, còn gọi là Tứ Độn
Sử (4 món phiền não gốc rễ).
Đấy là
những phiền não gắn liền với ý thức và biểu hiện qua hành động trong đời
sống hằng ngày, là những phiền não cốt tủy, sâu dầy, rất khó trừ diệt cho
hết sạch.
Người tu
đạo phải dùng tiếng niệm Phật A Di Đà để ngăn chặn và quét sạch những
phiền não của 10 món Kiến hoặc và 4 món Tư hoặc.
Thế nào là
Thập Thiện Nghiệp?
Thập Thiện
Nghiệp là 10 nghiệp lành để tu phước:
- không sát
hại mà phóng sanh
- không
trộm cướp mà bố thí
- không tà
dâm mà hành động đoan chánh
- không nói
dối mà nói chân thật
- không nói
thêu dệt mà nói đúng lý
- không nói
lưỡi hai chiều mà nói điều hòa thuận
- không nói
lời hung ác mà nói lời nhã nhặn
- không
tham lam mà có lòng xả thí
- không sân
hận mà có lòng từ ái
- không si
mê tà kiến mà nhận hiểu sáng suốt
Người niệm
Phật phải nghiêm cẩn tu giữ 10 nghiệp lành trong tâm ý, lời nói, cử chỉ và
hành động, để giúp phần tăng trưởng phước hạnh và công đức trí huệ trên
bước đường tìm cầu sự giải thoát. Người tu đạo phải dùng tiếng niệm Phật A
Di Đà để ngăn ngừa và trừ diệt tất cả những sân niệm, dục tưởng, tà ý sanh
khởi trong từng mỗi phút giây trong cuộc sống.
KINH: “Xá
Lợi Phất, chớ nghĩ rằng những giống chim nầy thật do tội báo mà sanh ra.
Vì sao vậy? Vì cõi nước Phật đó không có ba đường ác. Xá Lợi Phất, trong
cõi nước Phật đó thường không có cái tên ác đạo, huống gì có ác đạo thật.
Các giống chim ấy là do Phật A Di Đà muốn tuyên lưu tiếng pháp mà biến ra
như vậy.”
Những giống
chim nầy chẳng phải do tội báo từ nhiều kiếp trước mà sinh ra, đó chỉ là
do đức Phật A Di Đà đã làm phép biến hóa ra như vậy (biến hóa sở tác), để
diễn nói các pháp nhiệm mầu, vì ý nguyện của ngài là muốn cho lý nghĩa
pháp mầu luôn chan hòa và thấm nhuần thân tâm của tất cả mọi người trong
cõi nước của ngài.
Bởi vậy,
nhờ ở những tiếng pháp như thế, của chim thiêng, của gió ngũ âm, của mành
lưới báu, của hàng cây ngọc, của nước công đức, của mưa hoa, của nhạc
trời… mà tâm Bồ Đề của hàng Thánh chúng ngày càng tăng trưởng thêm lên và
không bao giờ bị lui sụt trên bước đường tu đạo (đó cũng là ý nghĩa của sự
bất thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở cõi nước Cực
Lạc).
Theo tinh
thần của bản kinh A Di Đà, nơi cõi Niết Bàn Tịnh Độ ở phương Tây không có
bất cứ một danh từ ác đạo nào có thể được biết đến. Bởi vì các danh từ ác
đạo còn chưa có, chưa được biết đến, thì làm gì lại có 3 đường ác của thế
giới Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh ở cõi nước đó (vô tam ác đạo).
KINH: “Xá
Lợi Phất, nơi cõi nước Phật đó có gió nhẹ thổi các hàng cây báu và các
mành lưới báu, phát ra thanh âm huyền diệu, như trăm nghìn thứ nhạc cùng
lúc hòa chung. Nghe thanh âm đó, mọi người đều tự nhiên khởi tâm niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.”
Nơi cõi
nước Cực Lạc, ngày đêm 6 thời, có gió nhẹ thổi 7 lớp hàng cây báu và 7 lớp
mành lưới báu, phát ra những thanh âm diệu kỳ của tiếng nhạc ngũ âm, là
những cung bậc hợp phối của tiếng sắt, tiếng cây, tiếng nước, tiếng lửa,
tiếng đất (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), như trăm nghìn thứ nhạc cùng lúc hòa
chung, âm điệu thánh thót huyền diệu chẳng thể nghĩ bàn, diễn nói các pháp
Ba La Mật vô cùng mầu nhiệm: khổ, không, vô ngã, vô thường. Mọi người nghe
được thanh âm ấy, tất cả đều cảm thấy rất an lạc và thanh tịnh, một lòng
phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
KINH: “Xá
Lợi Phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.”
Phật Thích
Ca, lần thứ 3, nói đến công đức của sự thành tựu trang nghiêm nơi cõi nước
Cực Lạc, vì đức Phật A Di Đà có được cái quả tốt đẹp ngày hôm nay là bởi
cái nhân tốt đẹp của công đức tinh tấn tu hành đã gieo trồng từ nhiều kiếp
trước. Sự trang nghiêm ở công đức trí huệ đã được dựng lên tại cõi Cực Lạc
là các giống chim biến hóa, màu sắc xinh đẹp lạ kỳ, hót ca diễn xướng lên
các tiếng pháp vô cùng mầu nhiệm, cùng với gió ngũ âm nhẹ thổi các hàng
cây báu và các mành lưới báu, phát ra những thanh âm huyền diệu, mọi người
nghe được thanh âm ấy đều phát tâm quy ngưỡng về Tam Bảo.
Chánh báo vô cùng thù thắng
KINH: “Xá
Lợi Phất, ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?”
Trong pháp
hội giảng nói kinh A Di Đà, đây là câu hỏi thứ 2 trong 3 câu hỏi, mà đức
Phật đã hỏi ngài Xá Lợi Phất. Phật hỏi ngài Xá Lợi Phất vì ngài là người
có trí tuệ bậc nhất trong hàng Thanh Văn đại đệ tử của Phật, có đầy đủ trí
huệ để có thể hiểu và có thể tin về những sự mầu nhiệm ở thế giới Cực Lạc.
KINH: “Xá
Lợi Phất, đức Phật đó có hào quang sáng chói vô lượng, chiếu soi các cõi
nước mười phương không chỗ nào chướng ngại, vì thế nên hiệu là A Di Đà.
Lại nữa, Xá Lợi Phất, đức Phật đó và người dân cõi đó sống lâu vô cùng,
nên có tên là A Di Đà.”
Đức Phật A
Di Đà (tiếng Phạn: Amita) là vị giáo chủ của thế giới Tây phương Cực Lạc,
là người đã phát thệ 48 lời đại nguyện để cứu độ chúng sanh. Phật A Di Đà
có hào quang sáng chói vô cùng nên gọi là Vô Lượng Quang (Amitabha), và
ngài sống lâu vô lượng vô số kiếp nên gọi là Vô Lượng Thọ (Amitayus).
Những người được sanh về cõi nước Cực Lạc của ngài cũng đều có thọ mạng
rất lâu dài, vì vậy đức Phật đó có tên hiệu là A Di Đà. Trước khi thành
Phật, đức A Di Đà là Bồ Tát Pháp Tạng, đã theo tu học với đức Như Lai
Thế-Tự-Tại-Vương. Trong đời quá khứ, ngài là vua Vô Tránh Niệm, nước San
Đề.
A tăng kỳ
(tiếng Phạn: asamkhya), gọi tắt là Tăng kỳ, có nghĩa là vô số. A tăng kỳ
là một con số một với 47 con số không (tức là 1047, nghĩa là lũy thừa 47
của 10).
Ánh sáng
của đức Phật A Di Đà có thể chiếu soi không ngăn ngại đến tất cả mọi hữu
thể và vô thể ở khắp mười phương thế giới. Mười phương (thập phương) là
các phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc,
Trên, Dưới, bao quanh cõi Diêm Phù Đề không gian 3 chiều. Diêm Phù Đề là
cõi thế gian Ta Bà ô trược mà chúng ta đang sinh sống đây, nằm ở phía Nam
của núi Tu Di.
Những người
thành tâm chân chánh tu hành đều có thể nhận được ánh hào quang hộ trì của
Phật A Di Đà. Với sự cảm ứng nhiệm mầu như thế, người tu chứng Niệm Phật
Tam Muội sẽ khai mở tâm thức và thể nhập vào ánh hào quang của Phật A Di
Đà. Đấy là chỗ ứng hợp không ngăn ngại, không có chỗ nào bị chướng ngăn
(vì vậy nên nói là vô sở chướng ngại), cũng giống như sự giao tiếp của 3
điểm trên vòng tròn tam giác, đó là 3 giao điểm hào quang cảm ứng A Di Đà:
- yến sáng
của Phật A Di Đà đã phóng quang hộ trì
- ánh sáng
kỳ diệu của 4 chữ A Di Đà Phật
- công đức
trí huệ của người trì niệm danh hiệu A Di Đà
KINH: “Xá
Lợi Phất, đức Phật A Di Đà thành Phật cho đến nay đã được mười kiếp.”
Đức A Di Đà
thành Phật từ đó cho đến nay đã trải qua được 10 kiếp, tức là đã trên 13
tỷ năm của thế giới Ta Bà nếu tính theo đại kiếp.
Mười kiếp
(thập kiếp) là khoảng thời gian rất lâu dài. Một kiếp lớn có 4 kiếp trung,
mỗi kiếp trung có 20 kiếp nhỏ. Một kiếp nhỏ (gọi là tiểu kiếp) có
16.800.000 năm. Một kiếp trung (gọi là trung kiếp) có 336.000.000 năm. Một
kiếp lớn (gọi là đại kiếp) có 1.344.000.000 năm. Như vậy, 10 tiểu kiếp tức
là 168 triệu năm, 10 đại kiếp là trên 13 tỷ năm của thế giới Ta Bà.
KINH: “Lại
nữa, Xá Lợi Phất, đức Phật đó có vô số hàng Thanh Văn đệ tử, đều là bậc A
La Hán, nhiều không thể tính đếm mà biết được. Các vị Bồ Tát cũng đông như
thế.”
Đức Phật A
Di Đà có vô số hàng Thanh Văn đệ tử và chúng Bồ Tát ở cõi nước của ngài,
nhiều vô số không thể nào tính đếm mà có thể biết được, dù cho bậc A La
Hán có thiên nhãn thông cũng chẳng thể nào tính đếm mà biết được số lượng,
vì vậy nên Phật nói là nhiều vô số vô lượng vô biên.
Bồ Tát (còn
gọi là Bồ Đề Tát Đỏa) là hàng đệ tử Đại thừa của Phật, đã chứng đắc đạo
quả, có đức hạnh từ bi rộng lớn, luôn thực hành hạnh lợi tha, giúp đời và
cứu người. Chúng Bồ Tát là biểu trưng cho Trung Đạo, ở giữa 2 đường nhị
biên là các Thanh văn Tiểu thừa của Phật và hàng chư Thiên, Thần, Rồng, Cư
sĩ, Trưởng giả.
Tiểu thừa
là tìm cầu giải thoát cho riêng mình (gọi là tự độ), tu theo pháp Tứ Diệu
Đế. Đại thừa là giải thoát cho mình và tùy phương tiện mà giáo hóa chúng
sanh, giúp đời và cứu người thoát khổ (gọi là tự độ và độ tha), tu theo
pháp Lục Độ Ba La Mật. Trung thừa là hàng Bích Chi Phật, tự tu tự độ, gồm
có Độc Giác và Duyên Giác. Các vị Độc Giác ra đời không gặp Phật, tự ngộ
được pháp Vô Thường của vạn vật mà tu chứng đạo quả. Các bậc Duyên Giác
thì tu theo pháp Thập Nhị Nhân Duyên của Phật mà được giải thoát.
Thế nào là
Vô Thường?
Mọi sự vật
luôn biến động, đổi thay, không có gì thường còn mãi, nên gọi là Vô
Thường.
Thế nào là
Thập Nhị Nhân Duyên?
Thập Nhị
Nhân Duyên là vòng quay tiến trình của Sanh Tử. Tất cả là 12 yếu tố lệ
thuộc vào nhau, tác động với nhau. Có nghĩa là sự phát sanh của trạng thái
nầy tùy thuộc vào sự sanh khởi của trạng thái trước đó.
– Nguyên
nhân chính làm chuyển động sự Sanh Tử của đời sống con người là Vô Minh,
nghĩa là sự ngu mê không nhận biết được về chân lý của khổ, nguồn gốc của
khổ, cứu cánh sau khi diệt khổ và con đường dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
– Tùy thuộc
nơi Vô Minh mà yếu tố Hành phát khởi (tức là tất cả những hành động có tác
ý, đã muốn làm như vậy trong kiếp quá khứ, gây tạo ra những Nghiệp Báo tốt
hoặc xấu). Nghiệp là yếu tố dẫn đưa chúng ta đi tái sanh.
– Tùy thuộc
nơi Hành mà phát khởi 2 yếu tố kế tiếp là Thức và Danh Sắc. Thức là sự tái
sanh nối liền giữa kiếp quá khứ với kiếp hiện tại. Danh, bao gồm 3 uẩn là
suy tưởng, tâm tư, cảm xúc. Sắc là bào thai và giống tính (tức là tổng thể
các nhóm hòa hợp tạm bợ làm thành thân xác nam hoặc nữ). Thức-Danh-Sắc làm
thành con người.
– Kế tiếp
là sự phát triển của Lục Căn (6 giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).
Tùy thuộc nơi sự tác động giữa Lục Căn (6 giác quan) với Lục Trần (6 đối
tượng của giác quan: hình sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, chạm xúc, ý
niệm) và Lục Thức (sự nhận biết phân biệt của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ý) mà yếu tố Xúc sanh khởi (tức là sự giao hợp chạm biết giữa 3 yếu tố
Căn-Trần-Thức).
– Tùy thuộc
nơi Xúc mà sanh khởi yếu tố Thọ (cảm giác nhận thọ: hoặc dễ chịu, hoặc khó
chịu, hoặc trung tính không khó chịu cũng không dễ chịu).
– Tùy thuộc
nơi Thọ, yếu tố Ái phát sanh (tức là lòngï yêu thích và tham muốn, có tất
cả là 108 loại ái dục).
– Tùy thuộc
nơi Ái, yếu tố Thủ sanh khởi (sự bám lấy, chấp giữ những gì về “tôi” “của
tôi”).
– Từ đó,
yếu tố Hữu phát sanh (sự trở thành của những hành động có tác ý, tạo ra
Nghiệp trong hiện tại, làm bước chuyển tiếp của Nghiệp Báo cho cảnh giới ở
vị lai).
– Tùy thuộc
vào yếu tố Hữu mà phát khởi yếu tố Sanh (cơ thể tâm vật lý), và tùy thuộc
nơi yếu tố Sanh mà phát khởi yếu tố Lão Tử (già và chết).
Đó là tiến
trình quay vòng liên tục của nhân duyên không bao giờ chấm dứt. Muốn cắt
đứt sự Sanh Tử của Thập Nhị Nhân Duyên thì phải từ nơi Vô Minh mà trừ
diệt. Pháp môn thù thắng và diệu dụng nhất, để thoát vòng Sanh Tử, là pháp
Niệm Phật Tam Muội. Trong thời Mạt pháp 10.000 năm, chúng ta chỉ nhờ vào
pháp môn nầy mới có thể dứt trừ được gốc rễ của Vô Minh. Vì vậy, 4 chữ A
Di Đà Phật là phương tiện rốt ráo, mầu nhiệm vô biên, để phá trừ Vô Minh
và vượt thoát sanh tử.
KINH: “Xá
Lợi Phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.”
Đây là lần
thứ 4 đức Phật đề cập đến sự thành tựu trang nghiêm công đức ở cõi Cực
Lạc. Người dân ở cõi đó đều có thọ mạng rất lâu dài, 32 tướng tốt, 80 vẻ
đẹp, thân sắc chói sáng yến vàng và không bao giờ bị hư hoại, vì vậy nên
gọi là thân kim cang Na La Diên. Na La Diên là vị Bồ Tát ở cõi Trời, có
thân xác cứng chắc và kiên cố như chất báu kim cang.
Cõi nước
Cực Lạc là nơi tụ hội của các bậc Thiện nhân, Thượng thiện nhân, A La Hán,
Thanh Văn, Duyên Giác, Độc Giác, và các vị Thánh thuộc hàng đệ tử nhất
sanh bổ xứ của chư Phật.
Thế giới
Cực Lạc có được sự thành tựu trang nghiêm như thế là bởi công đức của Phật
A Di Đà. Đã qua nhiều kiếp, cái nhân tốt hôm qua mà đức Phật A Di Đà đã
gieo thành cái quả ngày hôm nay, là vùng đất an lành, là ao hồ ngọc báu,
cho chúng sanh có nơi để phát nguyện sanh về. Chúng ta được vãng sanh về
đó, cái mà mình có thể mang theo được là công đức trí huệ của chính mình
đã tích tập từ nhiều kiếp trước và trong kiếp nầy.
Vì vậy, thế
giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà có thể được quán tưởng là một thế giới
rất nhiệm mầu, an vui, thành tựu bởi công đức trí huệ, một cõi sáng vĩnh
hằng để mọi người cùng nhau đem về đó công đức, tu tạo thêm công đức, góp
dựng thêm công đức, và gìn giữ mãi công đức trang nghiêm Cực Lạc như thế.
sự thành tựu công đức trang nghiêm ở cõi Cực
Lạc (4) cõi nước Phật A Di Đà ở phương Tây và ở trong tâm của người trì
niệm danh hiệu Phật
KINH: “Lại
nữa, Xá Lợi Phất, nơi cõi nước Cực Lạc đó, chúng sanh được sanh về, đều là
bậc chẳng thối chuyển. Trong đó có rất nhiều vị một đời thành Phật, số đó
rất đông, nhiều không thể tính đếm mà biết được, chỉ có thể nói là vô số.”
Những Thánh
chúng được sanh về cõi đó đều là bậc đã chứng được quả vị bất thối chuyển.
Bất thối chuyển, còn gọi là quả vị a bệ bạt trí (tiếng Phạn), có nghĩa là
chẳng bao giờ bị lui chuyển, ngừng bước, hoặc chán mỏi trên con đường tiến
tu đến quả vị Phật.
Có 4 bậc
bất thối:
- không còn
thối đọa trong đường sanh tử (vị bất thối)
- nơi hạnh
tự lợi, lợi tha không còn lui sụt (hạnh bất thối)
- không còn
một niệm nào thối chuyển (niệm bất thối)
- chẳng lùi
bước nơi đạo giải thoát (cứu cánh bất thối)
Trong kinh
Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội, đức Như Lai đã xác quyết:
Nên biết
rằng, được vãng sanh Cực Lạc thì không bao giờ trở lại địa vị phàm phu với
thân xác ngũ uẩn nữa. Do đó, mới gọi là Bất Thối Chuyển. Từ đó về sau, dần
dần thành tựu mười thứ trí lực, mười tám pháp bất cộng, năm nhãn, sáu
thông, vô lượng Đà Ra Ni, vô số tam muội, thần thông du hý, biện tài vô
ngại... đầy đủ bấy nhiêu công đức vô lậu của bậc đại Bồ Tát, cho đến khi
đắc quả Phật. Bởi vậy mà Ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, hôm nay trân trọng
xác quyết rằng:
VÃNG SANH ĐỒNG Ý NGHĨA VỚI THÀNH
PHẬT
VÌ VÃNG SANH TỨC LÀ THÀNH PHẬT
Muốn vãng
sanh Cực Lạc thì chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu
chính là biểu tướng của pháp thân, cho nên niệm danh hiệu Phật tức là niệm
pháp thân Phật vậy. Và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu
nào nữa, vì ngay nơi danh hiệu A Di Đà Phật luôn luôn chứa đựng vô lượng
vô biên công đức, vô lượng vô biên diệu dụng, vô lượng vô biên quang minh,
tướng hảo, uy lực... không thể nghĩ bàn.
Theo tinh
thần của bản kinh Niệm Phật Ba La Mật, ở thời kỳ Mạt pháp cuối cùng, khi
các kinh điển của Như Lai dần dần bị ẩn mất, thì chỉ còn lại pháp niệm
Phật A Di Đà, là phương tiện tối hậu duy nhất để có thể cứu độ tất cả mọi
chúng sanh nơi cõi thế gian Ta Bà.
Trong số
các Thánh chúng được sanh về cõi nước Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà, có
những vị thuộc hàng đệ tử nhất sanh bổ xứ của chư Phật. Số ấy rất đông,
chẳng thể nào tính đếm mà có thể biết được số lượng, bởi vậy nên chỉ có
thể nói là vô lượng vô biên a tăng kỳ, có nghĩa là nhiều vô số. Nhất sanh
bổ xứ, tức là một đời thành Phật, có nghĩa là một đời hiện tại, khi được
vãng sanh cõi Cực Lạc, tinh tấn tu trì, sẽ chứng đắc đạo quả và thành
Phật.
Đức Phật
tương lai hạ sanh trong đời Mạt pháp là ngài Di Lặc Bồ Tát (tức là ngài A
Dật Đa Vô Năng Thắng), hiện ở cung Trời Đâu Suất trên đỉnh núi Tu Di, là
vị đại Bồ Tát thuộc hàng đệ tử nhất sanh bổ xứ của chư Phật.
Bồ Tát Quán
Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí là 2 vị đại Bồ Tát nhất sanh bổ xứ. Tiền
thân, 2 ngài là anh em và là 2 người con lớn của vua Vô Tránh Niệm (tức là
đức giáo chủ A Di Đà Phật trước khi xuất gia). Phật A Di Đà, Bồ Tát Quán
Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí được tôn xưng là Tây phương Tam Thánh.
Phải nên phát nguyện sanh về (1)
KINH: “Xá
Lợi Phất, chúng sanh nào nghe được điều nầy, thì phải nên phát nguyện,
nguyện sanh về cõi nước đó. Vì sao vậy? Vì được cùng các bậc Thượng thiện
nhân như thế tụ hội một nơi.”
Vì vậy, khi
chúng ta đã nghe được điều nầy, đã hiểu được điều nầy, đã tin vào lời Phật
nói, thì hãy mau sớm tu hành, nắm giữ lấy danh hiệu Phật mà thọ trì. Người
tu theo pháp niệm Phật, thì phải chân thành phát nguyện, cầu sanh về cõi
Cực Lạc của Phật A Di Đà, để được gần gũi các bậc Thượng thiện nhân.
Thượng
thiện nhân, có nghĩa là bậc thiện lành đệ nhất, đó là các vị đại A La Hán,
các vị đại Bồ Tát thuộc hàng đệ tử nhất sanh bổ xứ của chư Phật.
Nhân hạnh để được vãng sanh
KINH: “Xá
Lợi Phất, chẳng thể có chút ít căn lành, phước đức, nhân duyên mà được
sanh về cõi nước đó.”
Chẳng thể
vì chút ít phước lành đã tích tập từ nhiều kiếp trước và một chút ít công
đức đã tu tạo trong kiếp nầy, mà có thể được sanh về cõi nước đó. Muốn
được sanh về Cực Lạc thì phải chí tâm tu hành Lục Niệm và thiết tha nguyện
về.
– Lục Niệm
là 6 pháp tưởng niệm: tinh tấn trì niệm danh hiệu A Di Đà, luôn tưởng nhớ
đến chánh pháp của Phật, tưởng niệm đến các hàng Thánh chúng, thực hành
hạnh bố thí, giữ gìn giới thể nghiêm mật, thường luôn tưởng niệm đến các
điều lành và các cõi lành.
Cùng với
việc tinh tấn tu trì Lục Niệm, người niệm Phật phải thiết tha và thành tâm
cầu nguyện để được sanh về cõi nước Tịnh Độ. Đồng thời, người tu trì theo
pháp niệm Phật phải phát khởi niềm tin thật
dũng mãnh, phát tâm Bồ Đề vô thượng, tu tập theo hạnh của Phật và chư đại
Bồ Tát, như vậy mới tương ứng với bản nguyện bi trí của Phật A Di Đà.
KINH: “Xá
Lợi Phất, nếu có người con trai lành, người con gái lành nào nghe nói đến
Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc
ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, tâm
chuyên nhất chẳng loạn. Người đó, lúc lâm chung, được Phật A Di Đà cùng
các Thánh chúng hiện ra trước mặt. Người đó, khi chết, tâm không điên đảo,
liền được sanh về cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà.”
Thiện nam
tử, thiện nữ nhân là những người con trai lành, những người con gái lành,
hiền đức và nhân hậu. Nếu có ai, trong số những thiện nam tử và thiện nữ
nhân đó, một khi đã nghe nói đến Phật A Di Đà, rồi có lòng tin, chấp trì
danh hiệu, từ 1 ngày cho đến 7 ngày, một lòng chuyên nhất không loạn tưởng
(nhất tâm bất loạn), thì người ấy lúc lâm chung, có chánh niệm giữ được 10
niệm A Di Đà, tâm thần không điên đảo, sẽ được Phật A Di Đà và Thánh chúng
hiện ra trước mặt, với hoa sen báu, với đài kim cang, tiếp dẫn người ấy về
cõi Tây phương Tịnh Độ.
Đời bây giờ
là thời kỳ Mạt pháp, nhiều phiền não và nhiễm ô, đầy dẫy những đấu tranh
hiểm ác, tham vọng, ích kỷ, ngu mê, hận thù, tà kiến, và kiếp đời như thế
sẽ phải kéo dài cho đến 10.000 năm. Nếu chúng ta hôm nay không nhờ vào
pháp niệm Phật nầy, không nương dựa vào tha lực của các đức Phật, thì
chẳng còn cách nào khác để có thể tự cứu mình và giúp người, chẳng thể nào
vượt thoát khỏi vòng khổ đau luân hồi triền miên.
Trong giáo
pháp của đức Phật, có tất cả là 84.000 pháp môn, thì pháp môn Niệm Phật
Tam Muội là thù thắng hơn hết, là vua của tất cả các pháp. Chúng sanh
trong thời Mạt pháp chỉ có thể nương nhờ vào giáo pháp nầy mà được độ
thoát.
Thế nào là
Chấp trì danh hiệu Phật?
Chấp trì
danh hiệu Phật là luôn nhớ tưởng và xưng niệm danh hiệu Phật một cách
nghiêm mật và khẩn thiết, với tất cả sự thành kính và từ ái, không xen
tạp, không giải đãi, không ngừng nghỉ, không mong cầu.
Có rất
nhiều phương pháp trì niệm danh hiệu Phật, tùy căn cơ và hợp ứng của người
thọ trì. Ở đây, lấy diệu dụng phương cách mặc niệm, vì dễ dàng thu nhiếp
tâm và thích hợp cho mọi giới trong mọi hoàn cảnh.
Trì niệm
theo pháp mặc niệm là niệm trong tâm, không động môi, không phát ra tiếng.
Niệm theo phương cách nầy thì mới có thể niệm được nhiều, niệm liên tục và
niệm chắc. Niệm trong khi đang làm việc, lúc nghỉ ngơi, khi đang đứng,
đang đi, đang ngồi hoặc đang nằm. Trì niệm với tất cả chân thành và cẩn
thiết, trong mọi oai nghi, mọi thời lúc và ở bất cứ nơi nào.
Điều quan
trọng của pháp mặc niệm là phải lắng nghe tiếng niệm cho rõ ràng, dùng tâm
lắng xuống để nghe tiếng niệm trong tâm, nghe cho phân minh từng chữ một.
Khi trì niệm, tập trung tâm trí vào chữ Phật ở cuối mỗi câu niệm. Người
niệm Phật phải dựa vào phương cách chú tâm như thế, để phát khởi chánh
niệm và chuyên nhất tâm tưởng. Chỉ cần niệm 4 chữ A Di Đà Phật và cứ thế
mà giữ mãi như vậy, cố gắng trì giữ liên tục 24 giờ 7 ngày không buông
lơi, không giải đãi, không hoài nghi. Trì niệm như thế thì mới có thể đúc
thành một khối KIM CANG vững và chắc.
Bất cứ lúc
nào, bất cứ nơi đâu, khi chợt nhớ đến niệm Phật thì niệm ngay. Đừng quá
bám níu vào ngoại cảnh mà khắc hứa, chờ hẹn. Ngay cả những khi ăn, uống,
tắm, gội, đánh răng, súc miệng, rửa mặt, lau mặt, tiểu tiện, đại tiện…
người niệm Phật cũng phải cố gắng duy trì tiếng mặc niệm A Di Đà trong tâm
tưởng, để việc hành trì không bị gián đoạn.
Trong khi
trì niệm danh hiệu A Di Đà Phật, người niệm Phật phải niệm cho rõ ràng
từng mỗi chữ. Niệm từng chữ và phải chắc từng chữ. Niệm chữ “A”, tâm nghe
rõ ràng chữ “A”. Niệm chữ “Di”, tâm nghe rõ ràng chữ “Di”. Niệm chữ “Đà”,
tâm nghe rõ ràng chữ “Đà”. Niệm chữ “Phật”, tâm nghe rõ ràng chữ “Phật”,
và cứ như vậy mà tinh tấn trì niệm. Từng mỗi chữ, mỗi câu, phải dùng tâm
để lắng nghe tiếng niệm trong tâm, nghiêm mật mà hành trì, với tất cả chân
thành và tín nhận. Mỗi khi vọng tưởng khởi dậy, đừng bám níu theo nó, đừng
để ý đến nó, hãy cứ một lòng thành kính mà niệm Phật, thì mọi vọng niệm sẽ
tự nó tự diệt. Khi vọng tưởng đã tan diệt, cũng chẳng cần biết nó đã diệt,
người niệm Phật chỉ biết thành tâm mà niệm Phật.
Hãy nghiêm
kính, chân thật mà hành trì như thế, trong mọi thời lúc, ở mọi nơi chốn,
trong bất cứ oai nghi nào. Những khi thiền hành, kinh hành, tọa thiền,
ngọa thiền, lạy Phật, sám hối, làm việc, nghỉ ngơi... hãy cố gắng luôn giữ
chánh niệm bằng cách nghiêm mật trì giữ 4 chữ A Di Đà Phật trong tâm trí.
Ở những nơi không được thuận duyên, hoàn cảnh trái nghịch, người niệm Phật
vẫn cẩn thiết mặc niệm hành trì trong thầm lặng.
Trong bước
đầu tu tập, tâm chúng ta còn rất nhiều loạn náo, từng mỗi phút giây đầy
dẫy những điên đảo nghĩ tưởng. Vì vậy, những khi tâm trí loạn động, người
niệm Phật phải dùng cách kim cang trì (niệm thầm, chỉ khẽ động môi, không
phát ra tiếng) để đối trị vọng tưởng và trì giữ định lực. Khi tâm đã tương
đối chuyên nhất, loạn tưởng đã tạm dừng, thì nên buông bỏ pháp kim cang
trì và chỉ thuần tu theo pháp mặc niệm, để hòa nhập tâm thể của tự tánh tự
niệm vào ánh sáng dòng tâm A Di Đà.
–
kim cang trì và mặc niệm (dựa trên pháp TRUY
ĐẢNH) là những phương tiện rốt ráo nhất để đạt đến nhất tâm. Trong 48 pháp
niệm Phật, mặc niệm truy đảnh (niệm trong tâm và niệm nhanh, niệm nầy nối
tiếp niệm kia, niệm truy đuổi niệm, niệm niệm gối đầu theo nhau) là pháp
vô tướng Duy-Tâm-Thức, đó là phương cách tốt nhất để diệt trừ loạn tưởng.
Người niệm Phật chỉ nên áp dụng truy đảnh khi đã niệm chuyên nhuần và vững
chắc. Đức Thế Tôn đã xác quyết rằng, Niệm Phật Tam Muội là pháp tối hậu đệ
nhất để cứu độ tất cả chúng sanh trong thời Mạt pháp, đó là con đường vi
diệu nhất để giải thoát tâm linh, dứt trừ mọi phiền não tư duy và đạt đến
quả vị Thánh.
Trong kinh
Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội, đức Phật nói:
“Pháp môn
niệm Phật chính là chuyển biến cái tâm thể của chúng sanh, bằng cách không
để cho tâm thể ấy duyên với vọng niệm, với lục trần là sắc thanh hương vị
xúc pháp, với huyễn cảnh, với trí lực, với kiến chấp, với mong cầu, với
thức phân biệt… mà chỉ đem tâm thể ấy duyên mãi với danh hiệu A Di Đà
Phật. Không bao lâu, người niệm Phật tự nhiên đi vào chỗ vắng lặng, sáng
suốt, an lạc, cảm ứng với nguyện lực của đức Phật A Di Đà.”
Nếu ai đã
có lòng tin, đã quyết tâm trì niệm danh hiệu A Di Đà Phật cho được Nhất
Tâm Bất Loạn, để cầu vãng sanh Cực Lạc, thì hãy tinh tấn kiên trì bám giữ
pháp môn nầy cho đến trọn đời.
Đừng xen
tạp pháp niệm Phật với các pháp tu khác. Hãy chỉ thuần tu một pháp nầy
(nhất hạnh), và nghiêm mật chấp trì chỉ một danh hiệu Phật (nhất danh) 24
giờ 7 ngày không chán mỏi, không buông lơi, với tâm tưởng ngày đêm hướng
về Phật A Di Đà (nhất hướng). Tinh tấn chấp trì như vậy thì mới có thể đạt
được cảnh giới Niệm Phật Tam Muội ngay trong kiếp nầy (nhất niệm).
Những khi
thiền hành, sẽ là thiền hành niệm Phật. Những khi ngồi thiền, sẽ là tọa
thiền niệm Phật. Những khi kinh hành, sẽ là kinh hành niệm Phật. Những khi
nằm ngủ, sẽ là ngọa thiền niệm Phật. Những khi lạy Phật, sẽ là lạy Phật
niệm Phật. Những khi sám hối, sẽ là sám hối niệm Phật. Những khi làm việc,
sẽ là làm việc niệm Phật. Những khi nghỉ ngơi, sẽ là nghỉ ngơi niệm Phật.
Những khi thở vào và thở ra, sẽ là thở vào và thở ra danh hiệu Phật.
Nghiêm mật và cẩn thiết chấp trì danh hiệu A Di Đà Phật như thế, gọi là
“chân chánh chấp trì danh hiệu Phật” , đó chính là duy tâm tịnh độ.
Trong thời
Mạt pháp, người tu theo pháp niệm Phật phải tránh đừng xen tạp pháp niệm
Phật với các pháp tu quán tưởng, quán tượng, thiền tứ niệm xứ, thoại đầu,
công án, sổ tức, tùy tức, trì chú mật tông, tri vọng... Cũng đừng xen tạp
với các danh hiệu của những vị Phật khác, vì chữ “A” trong 4 chữ A Di Đà
Phật đã gồm thâu tất cả muôn vạn ức đức Phật ở mười phương trong đó, qua
cả 3 thời Quá khứ Hiện tại Vị lai. Ngài đại Bồ Tát Phổ Hiền đã xưng tán:
“danh hiệu Phật chính là ba đời mười phương chư Phật, vì A Di Đà tức là
pháp giới tạng thân, có lực dụng thu nhiếp và hiện pháp thân của ba đời
mười phương chư Phật”.
Người niệm
Phật phải nghiêm cẩn trì niệm danh hiệu A Di Đà với tất cả lòng thiết tha
và tôn kính. Mỗi từng chữ niệm, mỗi từng câu niệm, phải trải lòng từ bi hỷ
xả của mình theo với tiếng niệm, để ánh sáng Phật hiệu trong tâm mình luôn
chiếu soi và lan tỏa ra ngoài một cách Ba La Mật, tìm đến xoa dịu những
khổ đau của tất cả chúng sanh muôn loài. Niệm Phật đến một trình độ nào đó
mà mọi người chung quanh có thể cảm nhận được sự bình
an trong ánh mắt từ bi của mình.
Niệm theo
hạn kỳ 7 ngày như Phật Thích Ca đã khuyến dẫn trong kinh A Di Đà. Khởi
tính từ ngày chủ nhật cho đến thứ 7, và 7 ngày được dùng làm một định kỳ
để dựa theo đó mà tu trì cho đạt được nhất tâm. Nếu sau 7 ngày vẫn chưa
được nhất tâm, thì lại tiếp một hạn kỳ nữa, cũng 7 ngày. Sẽ có nhiều lần
của 7 ngày. Chớ để bị gián đoạn giữa các hạn kỳ. Mỗi hạn kỳ sẽ bắt đầu trở
lại từ ngày 1 cho đến ngày 7, rồi lại một hạn kỳ kế tiếp cũng 7 ngày như
thế.
Với bậc
thượng căn, thì chỉ cần 7 ngày hoặc 7 tháng là
có thể đạt được cảnh giới Niệm Phật Tam Muội. Hạ căn như chúng ta thì cần
rất nhiều hạn kỳ của 7 ngày 7 tháng 7 năm 21 năm hoặc 49 năm. Khi đạt được
nhất tâm thì tự tánh tự niệm, tất cả niệm đều là một niệm, tất cả ngày đều
là hạn kỳ 7 ngày, đó là cõi Tịnh Độ an lạc và mầu nhiệm vô biên ở trong
tâm của người niệm Phật.
Trong kinh
Niệm Phật Bát Nhã Ba La Mật, ngài đại Bồ Tát Phổ Hiền ở trước đức Như Lai
đã xưng tán ý nghĩa của danh hiệu A Di Đà Phật: “danh hiệu Phật chính là
cõi Cực Lạc vì tự thân trang nghiêm và tự tâm trang nghiêm”. Mỗi một niệm
mình niệm, thành kính và nhất tâm, là 84.000 ánh hào quang tỏa ra ở nụ sen
hóa sanh nơi ao thất bảo. Mỗi một niệm mình niệm, chí thành và nhất tâm,
là cả một tầng trời Tịnh Độ diệu mầu chẳng thể nghĩ bàn.
Trong kinh
Phật nói: “mỗi một niệm A Di Đà, thành kính và nhất tâm, phát ra ánh sáng
chung quanh mình 40 dặm, khiến các loài ác ma đều phải khiếp sợ”.
Bởi vậy,
pháp niệm Phật A Di Đà là pháp tối hậu ở vào thời kỳ Mạt pháp, có công
năng mầu nhiệm và diệu dụng vô biên bất khả tư nghì, là pháp cứu độ tất cả
mọi chúng sanh nơi cõi thế gian Ta Bà.
Đức Phật
dạy, muốn niệm Phật đúng phương pháp và tự biết mình chắc chắn sẽ được
vãng sanh, thì người niệm Phật phải phát khởi 10 thứ tâm thù thắng như
sau:
– Tín Tâm:
Người niệm Phật phải tin vào lý nhân quả, tin rằng kiếp sống thế gian là
vô thường, 6 nẻo luân hồi là nguy hiểm chướng nạn, tin rằng Phật pháp là
đạo giải thoát, Tam Bảo là chỗ nương về, tin rằng các pháp đều do tâm thể
của mình tạo ra, cõi Cực Lạc cũng chỉ do tâm thể thanh tịnh của chính mình
tạo ra cùng tương ứng với bổn nguyện vĩ đại của Phật, tin rằng bất cứ
chúng sanh nào cũng đều có năng lực lãnh thọ giáo pháp Như Lai, tin rằng
bản nguyện của Phật A Di Đà là chân thật, rốt ráo, tối thắng, tin rằng
pháp Niệm Phật Vãng Sanh là môn tu duy nhất cho tất cả mọi người để đạt
đến sự giải thoát.
– Thâm
Trọng Tâm: Người niệm Phật phải đem tấm lòng sâu xa và cẩn trọng mà cảm mộ
ân đức của Tam Bảo, tưởng nhớ đến công lao của cha mẹ, của thiện tri thức
và của hết thảy chúng sanh.
– Hồi Hướng
Phát Nguyện Tâm: Người niệm Phật, không riêng gì bản thân mình mà cầu pháp
giải thoát. Trái lại, phải vì tất cả chúng sanh mà cầu vãng sanh Cực Lạc,
chóng thành Phật quả để cứu độ muôn loài.
– Xả Ly
Tâm: Trong khi xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật, người niệm Phật phải phát
khởi cái tâm thái lìa bỏ tất cả. Lìa bỏ, nghĩa là không trụ tướng mà niệm
Phật, không dính mắc mà niệm Phật, không nắm giữ mà niệm Phật, không tương
ưng mà niệm Phật, không đối đãi mà niệm Phật, không chống trái mà niệm
Phật, không cầu mong mà niệm Phật, không nhiễm duyên mà niệm Phật. Người
niệm Phật chỉ buộc tâm và ý vào danh hiệu Phật, chăm chú lắng nghe, mỗi
câu rõ ràng, mỗi niệm phân minh. Quên cả thân, quên cả cảnh, quên cả cái ý
thức tự biết “ta đang niệm Phật”.
– An Ổn Tâm: Trong khi xưng niệm danh hiệu A Di
Đà Phật, người niệm Phật phải phát khởi cái tâm chí bất động, kiên cố,
không thối chuyển. Luôn tìm cách giúp đỡ người khác tu hành nhẫn nhục, xa
rời pháp điên đảo, vượt thoát những dục lạc lầm mê.
– Hộ Giới
Tâm: Người niệm Phật phải luôn an trụ nơi giới
luật và hằng phát tâm hộ trì giới luật.
– Đà Ra Ni
Tâm: Người niệm Phật phải phát khởi tâm chí nắm giữ tất cả các thiện pháp,
che lấp tất cả các ác pháp, quán sát khéo léo tất cả các pháp đang diễn
biến trong tâm và ngoài thân, hoan hỷ an trụ nơi lực tiếp dẫn của chư Phật
và Thánh chúng, tự tại an nhiên giữa cảnh tượng của nhân quả tương tục
trong ba đời Quá khứ, Hiện tại, Vị lai.
– Ba La Mật
Tâm: Người niệm Phật sẵn sàng xả bỏ tất cả sở hữu trong thân cũng như
ngoài thân không lẫn tiếc, chẳng thối chuyển tín tâm vì những chướng
duyên, chỉ chuyên nhất nhớ tưởng một danh hiệu Phật.
– Bình Đẳng
Tâm: Người niệm Phật phải thực hiện tâm thái bình đẳng, không phân biệt,
không ngăn ngại, mở rộng tuệ nhãn để nhận hiểu mình và người đều bình đẳng
trước lực nhiếp thọ của chư Phật, chư Bồ Tát.
– Phổ Hiền
Tâm: Trong khi xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật, người niệm Phật phải phát
khởi cái tâm thái rộng lớn, quảng đại, luôn mong cầu độ thoát tất cả mọi
chúng sanh.
Niệm Phật
với 10 thứ tâm thù thắng nói trên, gọi là chân chánh niệm Phật, đó là Niệm
Phật Bát Nhã Ba La Mật.
Thế nào là
Tọa thiền niệm Phật?
Tọa thiền
niệm Phật (còn gọi là tọa niệm) là ngồi xếp bằng và trì niệm danh hiệu A
Di Đà Phật. Ngồi theo tư thế kiết già là tốt nhất (kim cang tọa). Ngồi
trên gối dầy, hai chân xếp chéo, bàn chân trái để lên đùi chân phải, bàn
chân phải để lên đùi chân trái. Hai bàn tay lật ngửa xếp lên nhau và đặt
nhẹ trên hai bàn chân. Bàn tay phải đặt lên bàn tay trái, đầu hai ngón tay
cái chạm nhẹ vào nhau (tam muội ấn). Mắt nhắm hờ. Thở vào và thở ra bằng
mũi. Giữ lưng, vai, cổ và đầu cho ngay thẳng. Thân tâm buông thả trong tư
thế thoải mái và vững vàng.
Nếu cách
ngồi kiết già quá khó khăn trong bước đầu tu tập, có thể ngồi theo tư thế
bán già, một chân nầy xếp chéo lên đùi chân kia:
- hoặc chân
phải để lên đùi chân trái (hàng ma tọa)
- hoặc chân
trái để lên đùi chân phải (kiết tường tọa)
(tư thế
hàng ma là cách ngồi của ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tư thế kiết tường là
cách ngồi của ngài Phổ Hiền Bồ Tát)
Nếu không
thể ngồi bán già được, có thể ngồi kiểu Miến Điện (theo cách ngồi của phái
thiền Mahasi). Hai chân xếp lại nhưng không cần chéo lên nhau, chân phải
để phía trước chân trái. Cũng có thể ngồi trên ghế, theo lối Ai Cập, 2
chân vừa chạm đất, 2 bàn tay úp xuống để nhẹ trên đùi (hoặc 10 ngón tay
đan vào nhau, hoặc choàng lên nhau, để phía trước bụng), chủ yếu là giữ
lưng vai cổ và đầu cho ngay thẳng, thân tâm buông thả trong tư thế thoải
mái và an bình.
Niệm theo
cách mặc niệm ký số (niệm trong tâm và ghi nhớ 3 lần niệm) và chỉ niệm 4
chữ A Di Đà Phật. Niệm chậm rãi và rõ ràng từng chữ. Mỗi câu niệm, người
niệm Phật phải dồn hết tâm trí tập trung vào danh hiệu Phật và số lần
niệm. Niệm câu 1, ghi nhớ đó là niệm 1. Niệm câu 2, ghi nhớ đó là niệm 2.
Niệm câu 3, ghi nhớ đó là niệm 3, rồi trở lại từ 1, và cứ như vậy mà
nghiêm cẩn hành trì. Người niệm Phật phải dựa vào phương tiện ký số như
thế, để liên tục chú tâm và nuôi giữ chánh niệm.
Cứ như vậy
mà trì giữ câu Phật hiệu A Di Đà trong tâm trí. Dùng tâm lắng xuống để
nghe tiếng niệm cho rõ ràng, nghe cho phân minh từng chữ một, tập trung
tất cả tâm trí vào tiếng niệm và thành kính trên câu Phật hiệu. Mỗi niệm,
mỗi chữ, người niệm Phật phải trải lòng từ bi hỷ xả của mình vào đó, chân
thật từ ở chính tự tâm, nhẹ nhàng lan tỏa đến tất cả những chúng sanh đang
đau khổ trong 6 nẻo luân hồi.
Hãy tinh
tấn tọa niệm theo pháp tam niệm ký soá (ghi nhớ 3 lần niệm), rồi tăng dần
lên thất niệm ký số (ghi nhớ 7 lần niệm). Tọa niệm theo cách ký số nghiêm
mật như thế, lâu dần sẽ có sự định tâm. Lúc ấy, khi đã định tâm rồi, thì
niệm Phật tức là Thiền. Phật dạy: "Nếu ai chỉ niệm A Di Đà Phật thì gọi là
vô thượng thâm diệu thiền".
Trước khi
xả thiền, hồi hướng công đức về Cực Lạc và Tam Bảo ở các cõi, cho cha mẹ 7
đời của mình và của người, cho anh em chúng sanh trong 7 kiếp, cho muôn
loài vạn thể khắp mười phương các cõi nước… tất cả đều sẽ được vãng sanh
Niết Bàn Tịnh Độ của Phật A Di Đà: “nguyện đem công đức nầy, hướng về khắp
tất cả, đệ tử và chúng sanh, đều trọn thành Phật đạo”.
Sau đó,
dùng hai tay xoa nhẹ đều hai mi mắt, xoa khắp trên mặt, hai bên vai phải
và trái. Kế đó, xoa đều trước ngực, chà xát phía sau hông nơi cuối cột
xương sống. Rồi từ từ tháo chân ra, xoa bóp từng chân cho bớt tê mỏi.
Nếu có thể,
nên ngồi ít nhất mỗi ngày một lần hoặc nhiều hơn nữa. Mỗi lần ngồi từ 15
phút đến một tiếng trở lên. Thời điểm ngồi tốt nhất là sáng sớm hoặc lúc
chiều tối trước giờ ngủ nghỉ.
Ni sư Đạo
Chứng (1956-2003) đã khuyến dẫn phương cách tọa thiền niệm Phật: “Buông bỏ
vọng tưởng, nhắm mắt, dẹp sạch lo âu. Tướng thân ngồi trên hoa sen. Đức A
Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, cùng Đại Thế Chí Bồ Tát ở trước mặt. Đem
hết lòng thành kính niệm niệm danh hiệu Phật, nhiếp tai lắng nghe, Phật
niệm tự mình trong tự tánh không thể nghĩ bàn tuôn ra, không quý mau và
nhiều, quý ở chỗ luôn phản chiếu tự tâm, mới có thể từng chữ phân minh,
không hôn trầm, không tán loạn. Niệm mà không niệm, niệm đến không niệm mà
tự niệm, niệm không chân niệm, bên ngoài không thấy thế giới, bên trong
không thấy thân tâm, vì khế nhập với sự niệm Phật và lý tịch quang.”
Thế nào là
Lạy Phật niệm Phật?
Lạy Phật
niệm Phật là vừa lạy Phật vừa trì niệm danh hiệu Phật (theo cách mặc niệm
và chỉ niệm 4 chữ A Di Đà Phật). Điều quan trọng là phải phối hợp các cử
động của thân thể, lúc cúi xuống và xá lạy, lúc trổi dậy và đứng lên, làm
sao cho tương ưng với từng nhịp điệu của tiếng niệm A Di Đà trong tâm
tưởng.
Cúi xuống
và xá lạy trong 1 câu niệm. Trổi dậy và đứng lên trong 1 câu niệm. Mỗi
niệm phải rõ ràng, chậm rãi và thành kính. Mỗi cái lạy là chu trình của
nhiều cử động thân thể theo liền nhau, cùng với câu Phật hiệu A Di Đà.
Phải cần nhiều thời gian để thực tập cho có chánh niệm trong từng mỗi cái
lạy. Khi có chánh niệm, mỗi cái lạy là vạn ngàn công đức. Lạy Phật là để
sám hối vì vậy cần phải có chánh niệm và thật thành kính.
Thế nào là
Ngọa thiền niệm Phật?
Ngọa thiền
niệm Phật (còn gọi là ngọa niệm) là niệm Phật trong tư thế nằm, niệm theo
cách mặc niệm (niệm trong tâm, tập trung tâm ý vào chữ Phật ở cuối mỗi câu
niệm). Điều quan trọng là phải lắng nghe tiếng niệm cho rõ ràng và chỉ
niệm 4 chữ A Di Đà Phật. Nằm ngửa mình, thẳng lưng. Hai chân duỗi thẳng.
Hai tay lật úp xuống, xếp lên nhau và để nhẹ trên bụng. Hoặc nằm nghiêng
bên phải, đầu hướng về phía Tây. Hoặc nằm nghiêng bên trái, một chân duỗi
thẳng, một chân co lại, hoặc là 2 chân cùng duỗi thẳng ra và gác lên nhau.
Pháp ngọa
thiền niệm Phật có thể dùng thực tập trên giường trước khi ngủ, trong khi
ngủ, khi mới thức dậy, hoặc lúc nằm nghỉ ngơi.
Mỗi đêm
trước khi ngủ nên ngọa thiền niệm Phật như vậy, niệm cho đến ngủ thiếp đi.
Những khi chợt giật mình thức giấc nửa đêm, nhớ đến niệm Phật thì niệm
ngay. Cứ nhẹ nhàng trì niệm trong tư thế nằm như thế, cho đến khi cơn ngủ
trở lại, và tiếng niệm Phật cùng đi vào trong giấc ngủ. Niệm như vậy, gọi
là niệm Phật trong khi ngủ, đưa câu Phật hiệu vào trong giấc ngủ.
Thế nào là
Nhất tâm bất loạn?
Nhất tâm
bất loạn là cảnh giới định rất vi diệu trong pháp môn Niệm Phật Tam Muội.
Nhất tâm bất loạn là tâm chuyên nhất chẳng loạn tưởng. Trong tâm chỉ còn
duy nhất một niệm là niệm tưởng A Di Đà, luân lưu tuôn chảy bất tận thành
một dòng tâm, chẳng còn chút loạn náo bên trong, không còn bị ảnh hưởng
bởi vạn duyên bên ngoài, tất cả là sự tịch tĩnh, an lạc và sáng suốt. Đấy
là sự thành tựu sơ khởi, có tính cách tiểu quả, của pháp môn tu huệ Nhất
Hạnh Tam Muội.
– Nhất Hạnh
là chỉ thuần tu duy nhất một hạnh là trì niệm chỉ duy nhất một danh hiệu
Phật, đó là danh hiệu A Di Đà, để đạt đến cảnh giới nhất niệm.
Khi đạt đến
cảnh giới vi diệu của Niệm Phật Tam Muội, còn gọi là Bảo Vương Tam Muội
(vua của tất cả các tam muội), thì diệt tận mọi phiền não, tâm tĩnh lặng
và an bình, tự mình làm chủ chính mình, biết rõ về nhiều kiếp quá khứ và
có khả năng tự tại vãng sanh.
Bồ Tát Quán
Thế Âm nói: “Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để tâm rong ruổi
theo thanh trần, mà xoay cái nghe trở vào Chân Tánh. Đó là danh hiệu Phật
đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng Tâm, mà mỗi mỗi sát na đều
hiển hiện Chân Như Tánh. Chính nó thật là Tánh Nghe của mình, chẳng còn
hai tướng động và tịnh, toàn thể là vắng lặng, soi chiếu khắp mười phương.
Tiếp tục hành trì niệm mật như thế, chẳng bao lâu thì Tánh Nghe cũng không
còn. Khi ấy, Phật Trí tự nhiên tỏa rạng, danh hiệu Phật vẫn tương tục,
không gián đoạn. Do đó, phải nói rằng Niệm Phật là pháp môn đệ nhất, dùng
để chuyển THỨC thành TRÍ mà chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ
trì.”
Đại sư
Quảng Khâm (1892-1986) dạy: “Mỗi tâm niệm, mỗi ý nghĩ, bạn chớ xa rời cảnh
giới Phật. Đi đứng nằm ngồi, nhất cử nhất động, làm gì bạn cũng cứ niệm
Phật. Khóc cũng niệm Phật. Cất chân một bước cũng niệm Phật. Sức mạnh của
việc niệm Phật vĩ đại vô song, có thể khiến bạn đắc Niệm Phật Tam Muội,
một thứ định không phải tầm thường.”
Người tu
đạo phải dùng tiếng niệm Phật A Di Đà để chuyên nhất tâm ý và giữ vững
định lực trước những được mất, vinh nhục, khen chê, vui khổ trong cuộc đời
(đó là 8 ngọn gió trần ai, gọi là bát phong).
Trong kinh
Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội, Phật Thích Ca nói:
“Chư Phật
đã dùng Phật Nhãn quán sát khắp mười phương, thấy rõ nghiệp lực chúng sanh
lành dữ không đồng đều, thấy thân tướng và cảnh giới của chúng sanh xấu
tốt có sai biệt. Nhưng điểm sanh khởi chẳng rời sát na tâm sanh diệt, chỗ
hội quy cũng không rời sát na tâm sanh diệt. Muốn hàng phục và chuyển biến
cái sát na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là pháp NIỆM PHẬT.”
Khi người
niệm Phật đã kiên quyết, một lòng trì giữ danh hiệu A Di Đà suốt ngày đêm
6 thời, không buông lơi, không xen tạp, và nếu trì giữ như vậy cho mãi
trọn đời, đến giờ phút lâm chung, có chánh niệm giữ được liên tục 10 câu A
Di Đà, tâm thần không điên đảo, người ấy sẽ được Phật A Di Đà và các vị
Thánh chúng hiện ra trước mặt, tiếp dẫn về cõi Tây phương Cực Lạc. Hàng
Thánh chúng gồm có Bồ Tát Quán Thế Âm đứng bên trái Phật A Di Đà, tay cầm
đài sen lớn, Bồ Tát Đại Thế Chí đứng bên phải Phật A Di Đà, cùng với nhiều
vị đại Bồ Tát khác nữa.
Trong kinh
Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội, Phật khuyến tán:
“Pháp môn
niệm Phật là pháp vi diệu thù thắng đệ nhất, mà chư Phật dùng để cứu độ
khắp hết thảy chúng sanh. Đây thật là môn tu thích đáng khế hợp mọi căn
cơ, mà chư Phật dùng để đưa hết thảy muôn loài xa rời nẻo khổ, chứng đắc
Niết Bàn tại thế, thành Phật trong một đời.
Đây là môn
tu đại oai lực, đại phước đức, mà chư Phật giúp chúng sanh vượt thắng thân
phàm phu mà thâm nhập cảnh giới Chân Thường. Đây là môn tu đại Bát Nhã,
đại thiền định, mà chư Phật dùng làm thuyền bè đưa hết thảy chúng sanh qua
đến bờ bên kia, không còn sanh già bệnh chết, hoàn toàn hưởng dụng pháp
lạc.
Đây là môn
tu đại trang nghiêm, đại thanh tịnh, mà chư Phật dùng để đưa hết thảy
chúng sanh vào giới luật, nhiếp chúng sanh vào oai nghi,
an ổn, phúc lạc. Đây là môn tu đại nhu hòa, đại
nhẫn nhục, mà chư Phật giúp hết thảy chúng sanh tự tại giữa khổ và vô
thường mà thành tựu Tri Kiến Phật.
Đây là môn
tu đại Bồ Đề, đại siêu việt, mà chư Phật dùng làm cứu cánh để giúp hết
thảy chúng sanh thành Phật, như Phật, ngay trong một kiếp. Đây là môn tu
đại từ bi, đại dũng mãnh, mà chư Phật dùng để giúp chúng sanh có được cái
tâm bằng tâm chư Phật, có được cái nguyện bằng nguyện chư Phật, mau chóng
vượt qua địa vị phàm phu và tự chứng pháp thân từng phần.”
Phải nên phát nguyện sanh về (2)
KINH: “Xá
Lợi Phất, ta thấy lợi ích ấy nên nói lời nầy. Nếu có chúng sanh nào nghe
được điều nầy, thì phải nên phát nguyện sanh về cõi nước đó.”
Đức Phật đã
thấy rõ được sự lợi ích của thế giới Cực Lạc và 48 lời nguyện của Phật A
Di Đà. Ngài rất hiểu rõ cái tâm thể của chúng sanh trong thời Mạt pháp.
Cho nên, ngài đã khuyến dẫn những lời như thế, để chúng sanh theo đó mà
phát tâm tu hành, có nơi chốn an vui làm cứu
cánh để hướng nguyện sanh về.
Nguyện rất
là quan trọng để tâm thể nương theo đó mà hướng về. Dù cho kiếp nầy mình
có tu chứng Nhất Tâm Bất Loạn nhưng nếu mình không phát nguyện chân thành
thì cũng chẳng được sanh về Cực Lạc.
Trong bản
kinh A Di Đà, Phật đã 3 lần khuyến tấn người tu theo pháp niệm Phật, là
phải chí thành phát nguyện sanh về cõi nước đó. Phật đã 3 lần ân cần như
vậy, thì mình phải khẩn thành sám hối 3 lần mỗi đêm ngày để sớm tiêu trừ
nghiệp chướng, chân thành hướng nguyện sanh về cõi Tây phương Tịnh Độ của
đức Phật A Di Đà.
Thế nào là
Sám hối?
Sám hối là
ăn năn và chừa bỏ. Ăn
năn về lỗi lầm đã vướng phải, chừa bỏ lỗi nầy trong tương lai, để thân tâm
được thanh tịnh trong giờ phút hiện tại. Sám hối là phải quyết tâm tu sửa
và phải thành tâm lạy Phật cho nhiều. Lạy Phật là để sám hối, không phải
là để cầu xin danh lợi, tiền của, sức khỏe, thần thông, thọ mạng.
Mỗi một cái
lạy đi kèm với một câu niệm Phật 4 chữ, lạy xong và trổi dậy cũng với một
câu niệm Phật kế tiếp. Phải thành tâm mà sám hối, thành tâm mà lễ Phật.
Như vậy, gọi là lạy Phật sám hối, niệm Phật sám hối.
Một lỗi đã
phạm không được quá 3 lần tái phạm thì việc sám hối mới có ý nghĩa ứng hợp
mà thanh tịnh thân tâm. Người niệm Phật, khi đã phát tâm Bồ Đề dũng mãnh,
tinh tấn trì niệm danh hiệu A Di Đà Phật không chán mỏi, thì càng phải
thành tâm sám hối nhiều hơn nữa, như vậy mới có thể sớm tiêu trừ được
nghiệp chướng trong muôn ngàn ức kiếp sanh tử. Trong kinh Phật nói: “mỗi
một niệm A Di Đà, thành kính và nhất tâm, tiêu trừ được trọng tội trong 80
ức kiếp sanh tử”.
Người niệm
Phật phải nghiêm kính trì giữ câu Phật hiệu A Di Đà, với tâm thái xả ly
tất cả pháp thế gian. Niệm Phật cẩn thiết như vậy mới là chân chánh niệm
Phật, xả ly niệm Phật, đó gọi là Niệm Phật Bát Nhã Ba La Mật.
Nguyện để
sanh về Tây phương thì phải biết chán bỏ chốn trần gian nầy, phải biết
buông xả vạn duyên bên ngoài để mà thiết tha nguyện về, để mà tịnh tâm
niệm Phật, để có chánh niệm mà chấp trì danh hiệu Phật cho được nhất tâm.
Trong thời Mạt pháp 10.000 năm, pháp môn chấp trì danh hiệu A Di Đà là
pháp cứu độ tất cả mọi chúng sanh, đó là pháp môn vô cùng mầu nhiệm bất
khả tư nghì trong 84.000 pháp môn của đức Thế Tôn.
Phần Lưu Thông
Chư Phật 6
phương cùng khuyến tín và hộ niệm,
tất cả đại
chúng hoan hỷ tin nhận lời Phật
Lời khuyến
tín của chư Phật 6 phương
KINH: “Xá
Lợi Phất, như ta hôm nay khen ngợi công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của
Phật A Di Đà, thì ở phương Đông cũng có Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng,
Phật Đại Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu Âm, nhiều vô số các đức Phật
như thế, ở tại nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba
nghìn cõi đại thiên thế giới mà nói lời chân thật: Các chúng sanh phải tin
kinh nầy, là kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả các
đức Phật hộ niệm.”
Các đức
Phật ở phương Đông nhiều vô số, hằng hà sa số, đã cùng nhau khen ngợi công
đức của kinh nầy, của người thọ trì kinh nầy. Đây là lời chân thật của
Phật Thích Ca đã nói, của ngài A Nan Đà đã thuật lại, của các đức Phật ở
phương Đông đã đồng thanh tán thán. Chúng ta phải nên TIN là đúng đắn.
5 vị Phật ở
phương Đông và công đức đạo hạnh:
- Phật A
Súc Bệ (chẳng động, chẳng đến, chẳng đi)
- Phật Tu
Di Tướng (tướng tốt như núi Tu Di)
- Phật Đại
Tu Di (đức tướng trùm khắp như núi Tu Di)
- Phật Tu
Di Quang (đức tướng chói sáng như núi Tu Di)
- Phật Diệu
Âm (tiếng nói êm dịu)
Hằng hà sa
số là số cát của sông Hằng ở Ấn Độ, ý nói là số lượng rất nhiều, nhiều vô
lượng vô biên như số cát của sông Hằng chẳng thể nào đo lường tính đếm
được. Sông Hằng, tức là sông Ganges, tên địa phương là Mother Ganges, dài
2.500 cây số, bắt nguồn từ dãy Hymalaya (biên giới Nepal) chảy đến cửa
vịnh Bengal (biên giới Bangladesh) và đổ vào biển Ấn Độ Dương.
Tướng lưỡi
rộng dài (quảng trường thiệt tướng) là biểu trưng cho sự thành thật, ý nói
là thuyết pháp, là nói lời ngợi khen chân thật (tán thán), trải dài pháp
âm đến khắp thế giới, đến tất cả mọi loài, để cùng nhau biết sự thật là
như vậy. A Súc Bệ, có nghĩa là kiên cố, vững chắc, không có gì có thể chi
phối hoặc lay chuyển được.
Thế nào là
Ba nghìn cõi đại thiên thế giới?
Ba nghìn
cõi đại thiên thế giới (tam thiên đại thiên thế giới) là nhiều vô số thế
giới, là 1 tỷ tiểu thế giới của tất cả chư Phật. Thế giới chúng ta đang
sống đây là một thái dương hệ (chỗ có ánh sáng mặt trời). Một thái dương
hệ tương đương với một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu
thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới.
Một nghìn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Như vậy, ba
nghìn cõi đại thiên thế giới là cõi số thế giới 3 lần của số nghìn
(1.0003), tức là lũy thừa 3 của 1.000, là 1 tỷ tiểu thế giới (1.000 x
1.000 x 1.000), tương đương với 1 tỷ thái dương hệ, gọi là tam thiên đại
thiên thế giới.
KINH: “Xá
Lợi Phất, thế giới phương Nam có Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn
Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu Di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn, nhiều
vô số các đức Phật như thế, ở tại nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng
dài, trùm khắp ba nghìn cõi đại thiên thế giới mà nói lời chân thật: Các
chúng sanh phải tin kinh nầy, là kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ
bàn và được tất cả các đức Phật hộ niệm.”
Các đức
Phật ở phương Nam cũng đã đồng thanh khen ngợi về công đức của kinh nầy và
nguyện hứa sẽ hộ trì những ai thành kính thọ trì kinh nầy.
5 vị Phật ở
phương Nam và công đức đạo hạnh:
- Phật Nhật
Nguyệt Đăng (đức tướng sáng chói như mặt
trời mặt
trăng)
- Phật Danh
Văn Quang (đức tướng vang dội chói sáng)
- Phật Đại
Diệm Kiên (phước trí lớn vô biên)
- Phật Tu
Di Đăng (ánh sáng như núi Tu Di)
- Phật Vô
Lượng Tinh Tấn (tinh tấn viên mãn)
Phật
Đại Diệm Kiên ở phương Nam và phương Trên, là các vị Phật phân thân
của đức Phật Đại Diệm Kiên.
KINH: “Xá
Lợi Phất, thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng,
Phật Vô Lượng Tràng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật
Tịnh Quang, nhiều vô số các đức Phật như thế, ở tại nước của mình, hiện ra
tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba nghìn cõi đại thiên thế giới mà nói lời
chân thật: Các chúng sanh phải tin kinh nầy, là kinh khen ngợi công đức
chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả các đức Phật hộ niệm.”
Các đức
Phật ở phương Tây cũng đã đồng thanh khen ngợi về công đức của kinh nầy và
nguyện hứa sẽ hộ trì những ai thành kính thọ trì kinh nầy.
7 vị Phật ở
phương Tây và công đức đạo hạnh:
- Phật Vô
Lượng Thọ (sống lâu vô lượng)ï
- Phật Vô
Lượng Tướng (tướng tốt vô lượng)
- Phật Vô
Lượng Tràng (công đức vô lượng)
- Phật Đại
Quang (hào quang diệu dụng)
- Phật Đại
Minh (sáng suốt tột cùng)
- Phật Bảo
Tướng (tướng tốt như châu báu)
- Phật Tịnh
Quang (hào quang thanh tịnh)
Phật Vô
Lượng Thọ ở phương Tây là vị Phật phân thân của đức Phật A Di Đà.
KINH: “Xá
Lợi Phất, thế giới phương Bắc có Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật
Nan Trở, Phật Nhật Sanh, Phật Võng Minh, nhiều vô số các đức Phật như thế,
ở tại nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba nghìn cõi
đại thiên thế giới mà nói lời chân thật: Các chúng sanh phải tin kinh nầy,
là kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả các đức Phật
hộ niệm.”
Các đức
Phật ở phương Bắc cũng đã đồng thanh khen ngợi về công đức của kinh nầy và
nguyện hứa sẽ hộ trì những ai thành kính thọ trì kinh nầy.
5 vị Phật ở
phương Bắc và công đức đạo hạnh:
- Phật Diệm
Kiên (phước trí vô lượng)
- Phật Tối
Thắng Âm (âm thanh vi diệu)
- Phật Nan
Trở (không bao giờ bị hư hoại)
- Phật Nhật
Sanh (trí tuệ như mặt trời mới mọc)
- Phật Võng
Minh (trí tuệ sáng ngời như minh châu)
KINH: “Xá
Lợi Phất, thế giới phương Dưới có Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh
Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp, nhiều vô số các đức
Phật như thế, ở tại nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp
ba nghìn cõi đại thiên thế giới mà nói lời chân thật: Các chúng sanh phải
tin kinh nầy, là kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả
các đức Phật hộ niệm.”
Các đức
Phật ở phương Dưới cũng đã đồng thanh khen ngợi về công đức của kinh nầy
và nguyện hứa sẽ hộ trì những ai thành kính thọ trì kinh nầy.
6 vị Phật ở
phương Dưới và công đức đạo hạnh:
- Phật Sư
Tử (lời nói như sư tử rống)
- Phật Danh
Văn (đức tướng vang dội khắp nơi)
- Phật Danh
Quang (hào quang chiếu ngời xa)
- Phật Đạt
Ma (pháp khí trùm khắp)
- Phật Pháp
Tràng (pháp đức vượt hơn tất cả)
- Phật Trì
Pháp (giữ gìn quy luật)
(sư tử
rống, ý nói là thuyết pháp tự tại, không chướng ngại, không sợ sệt, như
loài sư tử mỗi khi rống lên làm muôn thú đều phải khiếp sợ)
KINH: “Xá
Lợi Phất, thế giới phương Trên có Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương
Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm
Thân, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa,
Phật Như Tu Di Sơn, nhiều vô số các đức Phật như thế, ở tại nước của mình,
hiện ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba nghìn cõi đại thiên thế giới mà
nói lời chân thật: Các chúng sanh phải tin kinh nầy, là kinh khen ngợi
công đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả các đức Phật hộ niệm.”
Các đức
Phật ở phương Trên cũng đã đồng thanh khen ngợi về công đức của kinh nầy
và nguyện hứa sẽ hộ trì những ai thành kính thọ trì kinh nầy.
10 vị Phật
ở phương Trên và công đức đạo hạnh:
- Phật Phạm
Âm (lời nói thanh tịnh)
- Phật Tú
Vương (chiếu soi như vua tinh tú)
- Phật
Hương Thượng (trí tuệ vượt hơn tất cả)
- Phật
Hương Quang (trí đức ngời sáng)
- Phật Đại
Diệm Kiên (phước trí lớn vô biên)
- Phật Tạp
Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân (đức tướng trang
nghiêm như
hoa báu muôn màu)
- Phật Ta
La Thọ Vương (kiên cố như vua cây Ta La)
- Phật Bảo
Hoa Đức (phước tướng như hoa báu)
- Phật Kiến
Nhất Thiết Nghĩa (thông suốt vạn pháp)
- Phật Như
Tu Di Sơn (hạnh đức như núi Tu Di)
Cây Ta La,
tiếng Hán là Song Thọ, loại cây mọc theo từng hàng đôi, mỗi nhóm 2 cây.
Rừng Ta La, ở làng Kusinara, là nơi đức Phật đã nhập diệt Niết Bàn.
Tất cả các
đức Phật ở 6 phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới) đã đồng thanh khen
ngợi về công đức bất khả tư nghì của kinh nầy và nguyện hứa sẽ hộ niệm
những ai thành kính thọ trì kinh nầy, tức là kinh A Di Đà tiểu bổn, bản
dịch âm tiếng Hán: Phật thuyết A Di Đà Kinh, của ngài Tam Tạng Pháp sư Cưu
Ma La Thập, hoặc bản dịch của ngài Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang, hoặc
những bản dịch nghĩa tiếng Việt: Phật nói Kinh A Di Đà. Trong bản dịch của
ngài Huyền Trang có đề cập đến 10 phương chư Phật. Bản dịch của ngài Cưu
Ma La Thập tóm lược, chỉ nói đến 6 phương chính.
Trong kinh
Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội, Phật Thích Ca nói: “Chư Phật mười phương đã
cùng nhau khuyến tán: ai nhất tâm xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật, sẽ
được chư Phật hộ trì và nhiếp thọ, quyết định thành Phật”.
Chư Phật
mười phương là tất cả 10 tỷ các đức Phật (thập vạn ức Phật) ở khắp mười
phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, Trên,
Dưới.
Ý nghĩa hộ niệm ở tựa đề kinh
KINH: “Xá
Lợi Phất, ý ông nghĩ sao? Vì sao gọi là kinh tất cả các đức Phật hộ niệm?”
Trong pháp
hội giảng nói kinh A Di Đà, đây là câu hỏi thứ 3 trong 3 câu hỏi, mà đức
Phật đã hỏi ngài Xá Lợi Phất. Phật hỏi ngài Xá Lợi Phất vì ngài là người
có trí tuệ bậc nhất trong hàng Thanh Văn đại đệ tử của Phật, có đầy đủ trí
huệ để có thể hiểu và có thể tin về những sự mầu nhiệm ở thế giới Cực Lạc.
Tên đầy đủ
của kinh nầy là “kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả
các đức Phật hộ niệm”, dịch tắt là Phật nói Kinh A Di Đà, Kinh Niệm Phật A
Di Đà, Kinh A Di Đà, Tiểu Bổn Kinh A Di Đà, hoặc là Kinh Niệm Phật Vãng
Sanh.
KINH: “Xá
Lợi Phất, nếu có người con trai lành, người con gái lành nào nghe được
kinh nầy mà thọ trì, và nghe được danh hiệu của các đức Phật, thì những
người con trai lành, những người con gái lành đó đều được tất cả các đức
Phật hộ niệm, đều được chẳng thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác.”
Nhiều vô
lượng vô số các đức Phật ở 6 phương, nguyện hứa sẽ hộ niệm những ai đã
nghe và thọ trì kinh nầy, cùng đã nghe và nhớ tưởng đến danh hiệu của 38
vị Phật ở 6 phương. Những người đó đều được bất thối chuyển, sẽ chẳng bao
giờ lùi bước nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bởi vì lý do đó, tên
của kinh nầy được gọi là “tất cả các đức Phật hộ niệm” (nhất thiết chư
Phật sở hộ niệm kinh).
Trong kinh
Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội, Phật Thích Ca nói: “Tất cả chư Phật phân thân
của ta, luôn luôn phóng đại quang minh, nhiếp thọ và thủ hộ những chúng
sanh niệm Phật, không rời bỏ”.
Hộ niệm,
tức là nhớ nghĩ và hộ trì, có nghĩa là chư Phật ở khắp mười phương luôn
nhớ tưởng đến người niệm Phật và tìm mọi cách để giúp đỡ, hỗ trợ người ấy.
Thọ trì,
tức là năng lực của Tín và Hạnh, đó là sức mạnh tin tưởng vào giáo pháp và
tinh chuyên thực hành đúng theo tinh thần lý nghĩa của kinh.
Thọ là ghi
nhận vào lòng, Trì là nhớ mãi không quên. Đó là tin vào 48 lời nguyện của
đức Phật A Di Đà, luôn nắm giữ trong tâm danh hiệu A Di Đà Phật suốt ngày
đêm 6 thời, không chán mỏi, không buông lơi. Thọ trì như vậy mới là chân
chánh thọ trì danh hiệu Phật.
Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, còn gọi là Vô Thượng Bồ Đề (tiếng Phạn:
a nậu đa la tam miệu tam bồ đề), có nghĩa là
chỗ giác ngộ về chánh pháp không còn ai hơn được nữa, trí tuệ hiểu biết
bình đẳng không tà vọng hư dối, giác ngộ được chân lý giải thoát rốt ráo.
Đó là quả vị cứu cánh vô thượng của chư Phật, cảnh giới của sự thanh tịnh
giải thoát tối cao, công đức trí huệ bất khả tư nghì.
A nậu đa la
tam miệu tam bồ đề, còn có nghĩa là Vô Thượng Chánh Biến Tri, tức là trí
tuệ rộng lớn cùng khắp, hiểu rõ thật tướng của tất cả vạn pháp thế gian.
Phải nên tin lời của Phật
KINH: “Cho
nên, Xá Lợi Phất, các người đều phải tin nhận lời của ta và các đức Phật
nói.”
Đức Phật
không bao giờ nói dối. Ngài đã vì thương xót chúng sanh mà nói pháp cứu độ
nầy. Chúng ta phải nên TIN vào lời dạy của ngài và lời tán thán của các
đức Phật khác ở khắp mười phương. Hãy tin với niềm tin thật vững chắc
(tín), khắc giữ vào trong tâm (thọ), đó là chân chánh tin nhận vậy (tín
thọ).
Người tu
theo pháp niệm Phật phải phát khởi niềm tin vững chắc (khải tín) trên cả 2
mặt lý và sự: tin có cõi Tịnh độ nhiệm mầu trong tâm của người niệm Phật,
tin có Niết Bàn Cực Lạc của Phật A Di Đà ở phương Tây.
Phải nên phát nguyện sanh về (3)
KINH: “Xá
Lợi Phất, nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát
nguyện, muốn sanh về cõi nước Phật A Di Đà, thì các người đó đều được
chẳng thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở cõi nước đó,
hoặc đã sanh về, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.”
Người niệm
Phật, khi đã thành tâm phát nguyện thì sẽ được sanh về. Sẽ phát nguyện thì
sẽ được sanh về. Không phát nguyện thì sẽ không bao giờ được sanh về. Khi
đã được sanh về, thì sẽ chẳng bao giờ bị thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Bồ
Đề ở cõi đó. Hãy tin tưởng vững chắc như vậy mà chấp trì danh hiệu Phật,
phát nguyện sanh về cõi Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà.
KINH: “Cho
nên, Xá Lợi Phất, những người con trai lành, những người con gái lành, nếu
có lòng tin thì phải nên phát nguyện sanh về cõi nước đó.”
Trong bản
kinh A Di Đà tiểu bổn, đức Phật Thích Ca đã 3 lần ân cần khuyến tấn rằng,
người tu theo pháp niệm Phật thì phải nên chí thành phát nguyện sanh về
cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà. Nguyện là những điều ước muốn thiêng
liêng được ghi tạc sâu xa ở trong lòng, và tâm tưởng của người phát nguyện
ngày đêm thiết tha mong cầu để thực hiện các điều nguyện ước đó.
Nay, đã
được nghe những lời Phật nói, đã hiểu rõ những lời Phật nói, thì hãy tin
chắc vào pháp môn nầy, tin thật có thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà ở
phương Tây, tin thật có cõi Tịnh Độ ở trong tâm mình, tin vào khả năng
chính mình cũng có thể thành Phật nương nhờ ở sự hộ trì của chư Phật mười
phương, tin vào lý nhân quả và luật nghiệp báo, tin vào 48 lời nguyện của
Phật A Di Đà, tinh tấn trì niệm câu Phật hiệu A Di Đà cho đến Nhất Tâm Bất
Loạn. Từng mỗi niệm vững chắc, từng mỗi niệm chân thành, trải rộng lòng từ
bi của mình theo với tiếng niệm, hồi hướng công đức về Cực Lạc, thiết tha
nguyện sanh về Tây phương Tịnh Độ. Trong thời Mạt pháp 10.000 năm, những
chướng ngại lớn của người niệm Phật là tín tâm không được vững chắc và sự
chấp trì câu niệm A Di Đà thường bị gián đoạn, vì bởi quá nhiều ngoại
duyên chi phối, hoặc vì tâm tưởng tán loạn làm mình quên niệm. Người niệm
Phật phải nhận biết rõ điều nầy, hãy cố gắng nỗ lực hơn nữa, hãy khẳng tâm
một lòng niệm Phật và chỉ biết niệm Phật.
Chư
Phật 6 phương cùng tán thán
KINH: “Xá
Lợi Phất, như ta hôm nay khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức
Phật, thì các đức Phật đó cũng khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của
ta mà nói lời nầy: Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm những việc rất khó, ít có,
ở cõi Ta Bà ngũ trược ác thế: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược,
chúng sanh trược, mạng trược, đã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, vì các chúng sanh nói pháp mà tất cả thế gian khó tin.”
Nơi cõi Ta
Bà, Phật đã nói pháp như thế, đã vì chúng sanh mà nói pháp để cứu chúng
sanh, nhưng hỏi có mấy ai tin những lời nầy, có mấy ai tin có sự mầu nhiệm
công đức ở thế giới Cực Lạc cách xa nơi nầy mười vạn ức cõi nước Phật? Bởi
vậy, pháp môn niệm Phật là pháp môn rất kỳ diệu, thù thắng, chẳng thể nghĩ
bàn, và cũng bởi vì cảnh giới vô cùng kỳ diệu chẳng thể nghĩ bàn nên pháp
môn nầy rất khó tin (nan tín chi pháp).
Thế nào là
Ngũ trược ác thế? Ngũ trược ác thế là 5 thứ nhơ đục ở cõi thế gian Ta Bà
khổ lụy và hiểm ác:
- thời đại
biến đổi không ngừng (kiếp trược)
- sự thấy
biết sai lầm, tà bậy (kiến trược)
- những si
mê, tham đắm, thù hận (phiền não trược)
- sự luân
hồi sanh tử không ngừng dứt (chúng sanh trược)
- đời thọ
mạng ngắn ngủi, vô thường (mạng trược)
Trong kinh
Niệm Phật Bát Nhã Tam Muội nói, ở vào thời Mạt pháp cuối cùng, thời của
ngũ trược ác thế, tâm trí con người mỗi ngày càng thêm sa đọa bởi dục
vọng, ganh tỵ, ích kỷ, hiểm ác, hận thù. Từ đó, chiêu cảm đất trời những
tật dịch, chiến tranh, gió bão, động đất, mất mùa, lũ lụt, thời tiết viêm
nhiệt bức não. Chúng sanh nơi cõi Ta Bà, trong thời đại căn cơ yếu kém,
tâm tưởng thô trệ, chỉ có thể tự cứu chính mình bằng pháp niệm Phật A Di
Đà, vì đó là pháp môn Nhị Lực siêu việt đệ nhất trong tất cả 84.000 pháp
môn của đức Thế Tôn.
– Nhị Lực
là năng lực ở chính tự thân mình, tinh tấn nghiêm mật trì giữ câu Phật
hiệu A Di Đà không buông lơi, cùng với tha lực hộ trì của tất cả chư Phật
ở khắp mười phương.
Chúng ta
phải nên TIN vào lời của Phật Thích Ca đã nói, TIN vào lời của chư Phật đã
khuyến tán, TIN thật có những sự mầu nhiệm vô biên của thế giới Tịnh Độ ở
phương Tây và ở trong tâm của chính người niệm Phật.
Trong kinh
Niệm Phật Ba La Mật, Bồ Tát Quán Thế Âm đã xác quyết: “Đức Thích Ca Mâu Ni
Thế Tôn trọn đời giáo hóa điều phục chúng sanh, đã ban bố tám vạn bốn ngàn
pháp môn tu tập, nhưng trong đó, niệm Phật là thù thắng đệ nhất. Hiện tại,
nơi trăm nghìn muôn ức na do tha quốc độ khắp mười phương, các đức Phật
Chánh Đẳng Chánh Giác cũng đang dùng hằng hà sa phương tiện, ngôn thuyết,
thí dụ, để diễn bày vô số pháp môn tu tập, đưa hết thảy chúng sanh dung
hóa vào Không Tánh, Niết Bàn Diệu Tâm Như Lai Tạng, nhưng duy chỉ có pháp
môn NIỆM PHẬT là hữu hiệu siêu việt đệ nhất.”
(Theo Phật
Học tự điển, na do tha, tiếng Phạn: nayuta, số nhiều của hàng ngàn, có thể
là mười ngàn, trăm ngàn, vạn ngàn, ức ngàn)
Vì
chúng sanh mà nói pháp khó tin
KINH: “Xá
Lợi Phất, phải biết rằng, ta ở cõi đời ngũ trược ác thế, làm những việc
khó nầy, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì tất cả thế gian mà
nói pháp khó tin nầy, đó là rất khó.”
Ở vào thời
đức Thế Tôn lúc còn tại thế, ngài đã nói với các vị Thánh chúng đệ tử của
ngài, là pháp môn Niệm Phật Vãng Sanh rất khó tin.
Nay, đã
2549 Phật lịch, đã 549 năm của thời Mạt pháp 10.000 năm, thì pháp môn nầy
lại càng khó tin hơn nữa. Làm sao có thể tin những cây vàng, lá bạc, lưới
ngọc, suối báu, nhạc trời, chim thiêng lại có thể hòa âm diễn xướng lên
những tiếng pháp Ba La Mật nhiệm mầu như thế? Cho nên, Phật nói, ở cõi Ta
Bà ngũ trược nầy, khuyến dẫn để cho mọi người tin vào pháp môn niệm Phật
là việc rất vô cùng khó khăn (thị vi thậm nan).
Phật lịch,
khởi tính từ ngày Phật nhập diệt, 15 tháng 2 âm lịch, đến nay là 2549 năm
(tức là 2005 dương lịch).
Sau khi đức
Phật Thích Ca nhập diệt, Phật pháp được chia ra làm 3 thời kỳ:
- Chánh
pháp: 1.000 năm, thời kỳ Phật pháp thịnh hành
- Tượng
pháp: 1.000 năm, mường tượng như chánh pháp
- Mạt pháp:
10.000 năm, thời kỳ Phật pháp bị suy đồi
Nếu có ai
đã nghe, đã hiểu, đã có lòng tin nơi pháp môn Tịnh Độ và tin vào 48 lời
nguyện của Phật A Di Đà, thì đó là cái phước của người ấy từ nhiều kiếp
trước, thì ngay bây giờ, hãy nhất tâm trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà,
hoặc 1 ngày cho đến 7 ngày, hoặc nhiều lần của 7 ngày, tuần tự tiến tu
theo các pháp: kim cang trì (niệm thầm), mặc niệm (niệm trong tâm), truy
đảnh (niệm truy đuổi niệm), mà tinh tấn tu trì. Rồi một ngày mai, sẽ biết
được năng lực vô cùng mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn của 4 chữ A Di Đà Phật.
Lúc ấy, khi đã đạt được Nhất Tâm Tam Muội, chúng ta sẽ thấy được bộ mặt
thật của chính mình trước khi được cha mẹ sinh ra (bản lai diện mục) và
biết được sau khi chết chúng ta sẽ về đâu. Sẽ cảm nhận một cách rất sâu xa
SỰ BIẾT ƠN vô ngần của chính mình, đối với đức Thế Tôn đại từ đại bi, ngài
đã vì tất cả chúng sanh mà nói pháp rất khó tin nầy.
Vui
mừng tin nhận lời Phật dạy
KINH: “Phật
nói kinh nầy xong, ngài Xá Lợi Phất và các vị Tỳ Kheo, tất cả thế gian:
Trời, Người, A Tu La, nghe lời Phật nói, vui mừng tin nhận, đảnh lễ rồi
lui ra.”
Khi Phật
nói kinh nầy xong, ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất cùng với các vị đại Tỳ
Kheo, các vị đại Bồ Tát, các vị Thượng thủ, chư Thiên, chư Thần, các loài
Rồng, các vị A Tu La, các vị Trưởng giả, các vị Cư sĩ cùng gia đình quyến
thuộc, và những vị ở các cõi khác nữa… tất cả đại chúng đã cùng nhau tán
thán, hoan hỷ tin nhận lời của Phật dạy, thành tâm đảnh lễ đức Phật rồi
lui ra.
Thượng thủ
là bậc chủ tể lãnh đạo của một cõi, hoặc đại diện đứng đầu cho nhiều cõi.
Bậc Thượng thủ của các vị đại Tỳ Kheo là ngài Xá Lợi Phất. Bậc Thượng thủ
của các vị đại Bồ Tát là ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử. Bậc Thượng thủ
của 33 cõi Trời ở núi Tu Di là vua Đế Thích. Bậc Thượng thủ của các vị A
Tu La là A Tu La Vương.
A Tu La
Vương (còn gọi là vua thần Phi Thiên) là vị thần chiến đấu rất hung dữ
trong 8 nhóm Trời, Thần, Quỷ, Rồng (được gọi là Thiên Long Bát Bộ). Các vị
Thiên Long Bát Bộ làm hộ pháp cho người tu là chư Thiên Tướng của 33 cõi
Trời ở núi Tu Di, các loài Rồng, các loài quỷ Dạ Xoa, thần âm nhạc Càn
Thát Bà, thần chiến đấu A Tu La, chim đại bàng Ca Lâu La, thần múa hát
Khẩn Na La, thần mãng xà Ma Hầu La Dà.
Văn Phật sở
thuyết, là nghe và hiểu những gì Phật đã nói. Hoan hỷ tín thọ, là vui mừng
tin nhận những gì Phật đã dạy. Tác lễ, là đảnh lễ với lòng biết ơn và tôn
kính, vì Phật đã thương xót trao dạy cho pháp nhiệm mầu. Nhi khứ, là đi
lui ra, để hành trì pháp môn mà Phật đã ân cần
khuyến dẫn, phát nguyện sanh về Tây phương Tịnh Độ.
Văn Phật sở
thuyết, là nhân của TRI. Hoan hỷ tín thọ, là nhân của TÍN. Hoan hỷ tín thọ
và Tác lễ nhi khứ, là nhân của NGUYỆN. Tác lễ nhi khứ, là nhân của HẠNH.
TRÍ là quả của TRI TÍN NGUYỆN HẠNH. Tất cả là 4 món tư lương “hiểu sâu,
tin chắc, nguyện thiết, hành chuyên” rất cần
thiết cho người niệm Phật, để dựa theo đó làm phương hướng tu trì, cảm
thán ân đức của Phật đã vì chúng sanh mà nói pháp cứu độ nầy.
Phật đã nói
pháp như thế, con đường đã được vạch sẵn như vậy, nếu có ai tin nhận thì
hãy theo đó mà tu trì. Hãy tin với niềm tin thật vững chắc, khắc giữ vào
trong tâm, tin như vậy mới là chân chánh tín
thọ.
Hãy xem
việc niệm Phật là vấn đề KHẨN THIẾT NHẤT trong cuộc sống, bất cứ nơi đâu,
bất cứ lúc nào. Hãy xem việc niệm Phật là NIỀM VUI trên tất cả. Hãy đặt
việc niệm Phật lên hàng đầu của tất cả mọi sự việc, trọn kiếp đời nầy và
muôn nghìn kiếp về sau. Hãy buông bỏ vạn duyên bên ngoài và chỉ một lòng
chuyên nhất trì niệm danh hiệu A Di Đà Phật. Hãy thành tâm niệm Phật và
chỉ biết niệm Phật.
Niềm tin
Cực Lạc, câu Phật hiệu A Di Đà, Tứ Vô Lượng Tâm, Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu
Đế, Bồ Đề Tâm, Tứ Tư Lương – đấy là những hành trang công đức trí huệ diệu
hạnh vô thượng mà đức Thế Tôn đã ân cần trao dạy, người niệm Phật phải
nghiêm kính tin giữ và hành trì.
hành trang công đức trí huệ diệu hạnh vô
thượng người niệm Phật phải nên nghiêm kính tin nhận và chấp trì
Hãy cố gắng
tinh tấn tu tập theo hạnh của Phật. Hãy kiên trì dũng mãnh học theo nguyện
của Phật. Hãy nỗ lực chuyên cần thêm nữa, hãy ráng làm cho xong trong một
đời nầy, giải thoát và thành Phật, vì mình, vì người, vì tất cả mọi loài…
Với sức
mạnh Nhị Lực, đó là sự tinh tấn chấp trì danh hiệu Phật trong niềm tin
vững chắc, cùng với tha lực hộ trì của tất cả chư Phật mười phương, người
niệm Phật nhất định sẽ thành Phật.
Hãy luôn
ghi nhớ lời cuối cùng của đức Thế Tôn đã nói, ở rừng cây Ta La, nơi ngôi
làng hẻo lánh Kusinara, trước khi ngài nhập diệt:
“Mọi vật ở
đời không có gì quý giá, thân thể rồi sẽ tan rã, chỉ có Đạo ta là quý báu,
chỉ có Chân Lý của Đạo ta là bất di bất dịch, hãy tinh tấn lên để giải
thoát.”
Nam Mô Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Tóm
lược YẾU CHỈ thọ trì Kinh A Di Đà
- Khi đã
quyết tâm thọ trì kinh A Di Đà, người tu tập phải phát khởi tín tâm vững
và chắc, mở rộng niềm tin để nhận hiểu lời Phật dạy trên cả 2 mặt Lý và
Sự, nghĩa là phải tin chắc rằng có cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà ở phương
Tây, tin có cõi Tịnh Độ nhiệm mầu trong tâm của người niệm Phật. Tin vào
lý nhân quả, tin vào luật luân hồi và nghiệp báo. Giữ vững niềm tin thiết
tha và kiên cố, tinh tấn chấp trì danh hiệu Phật, trong tất cả mọi oai
nghi đi đứng nằm ngồi, bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào, không chán mỏi,
không hoài nghi, không mong cầu, không buông lơi.
- Khi đã
quyết tâm thọ trì kinh A Di Đà, người tu tập phải phát khởi dũng mãnh 10
thứ tâm vô thượng thù thắng, đó là Tín tâm, Thâm trọng tâm, Hồi hướng phát
nguyện tâm, Xả ly tâm, An ổn tâm, Hộ giới tâm, Đà ra ni tâm, Ba la mật
tâm, Bình đẳng tâm, Phổ hiền tâm. Tức là phải tu tạo công đức trí huệ và
phẩm hạnh trên cả 2 mặt Thiện nghiệp và Tịnh nghiệp.
Thiện
nghiệp là năng làm các điều lành, ngăn ngừa và trừ diệt những điều ác,
luôn nắm giữ 10 thiện nghiệp trên cả 3 bình diện Thân Khẩu Ý, thực hành bố
thí, buông xả, tha thứ, nhẫn nhục, phát khởi tâm Bồ Đề vô thượng, tu tập
Bát Chánh Đạo, học hiểu Tứ Diệu Đế, thường xuyên sám hối để tu sửa tâm
tánh, dũng mãnh tu tập theo hạnh của Phật và chư đại Bồ Tát, thực hành các
pháp Lục Độ Ba La Mật, không ngừng nghỉ tự độ và độ tha, nhận hiểu và tu
tập theo 48 lời nguyện của Phật A Di Đà.
Tịnh
nghiệp là giữ tâm ý cho thanh tịnh, bằng cách trì niệm câu Phật hiệu A Di
Đà suốt đêm ngày 6 thời, để chuyên nhất tâm tưởng, dứt trừ mọi vọng niệm
điên đảo, cắt đứt vòng dây trói buộc của Vô Minh và Tham Ái.
- Khi đã
quyết tâm thọ trì kinh A Di Đà, người tu tập phải phát nguyện vãng sanh về
cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Phát nguyện phải chân thành, với tất cả
nghiêm kính và thiết tha, ghi nhận sâu xa điều nguyện ước ấy ở trong lòng,
ngày đêm tưởng nhớ đến các cõi lành và các điều lành, có như vậy thì mới
có thể cảm ứng được sự gia trì hộ niệm của chư Phật, của các vị Thiên Long
hộ thể, và tương ứng với bản hoài của đức Phật A Di Đà.
- Khi đã
quyết tâm thọ trì kinh A Di Đà, người tu tập phải trải rộng 4 thứ tâm vô
lượng, một cách chân thật từ chính tự tâm, từ cõi lòng lân mẫn của chính
mình, vào từng câu Phật hiệu A Di Đà. Trên từng mỗi tiếng niệm Phật, người
niệm Phật phải trải rộng tâm Từ của mình đến tất cả chúng sanh bình đẳng,
trải tâm Bi đến những chúng sanh đang đau khổ, trải tâm Hỷ đến các loài
đang vui sướng, trải tâm Xả đến những người mình yêu thích hoặc ghét bỏ.
Và câu Phật hiệu phải được niệm từ trong chính tự tâm, vững vàng và nghiêm
cẩn, để chuyên nhất tâm tưởng, làm phương tiện trừ diệt mọi tà ý, dục niệm
sinh khởi trong từng mỗi phút giây của cuộc sống. Đó là thể hiện 4 đức
tánh liên hoa: vi, diệu, hương, khiết trong câu Phật hiệu A Di Đà.
Điều quan
trọng của pháp niệm Phật là phải phát khởi tâm chân thành trong khi xưng
niệm danh hiệu A Di Đà Phật, với tất cả sự nghiêm kính và từ ái, nhẹ nhàng
lan tỏa một cách Ba La Mật đến tất cả mọi chúng sanh, vì mỗi chúng sanh
trên thế giới nầy đều có tánh Phật và tất cả là những vị Phật sẽ thành
trong tương lai. Người niệm Phật phải chân thành hồi hướng tất cả công đức
về Cực Lạc và chúng sanh muôn loài. Một điều rất quan trọng là trong khi
xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật, người niệm Phật phải lắng tâm để nghe
tiếng niệm trong tâm cho rõ ràng, nghe cho phân minh từng chữ một. Niệm
từng chữ và phải chắc từng chữ. Nghiêm cẩn hành trì như thế thì mới có thể
điều phục được tâm ý và diệt trừ mọi vọng tưởng đảo điên. Đó là yếu chỉ
thọ trì theo tinh thần lý nghĩa của bản kinh A Di Đà.
Nam Mô A Di Đà Phật
---o0o---
Mục Lục >>
Phần
A -B
>> Phần
C >> Phần D >>
Chú Nghĩa
Kinh A Di Đà (download - PDF)