-
KINH KIM CANG TRONG NGUỒN MẠCH VĂN HIẾN
-
CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- Thích Hạnh Tuấn
Kinh Kim Cang
hay Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika prajnaparamita
sutra) là một bộ kinh rất nỗi tiếng không những trong giới tu sĩ
Phật giáo tại Việt Nam và các nước theo Phật giáo tại Á Châu mà đã trở
nên vô cùng quan trọng đối với những học gỉa Phật giáo Tây phương ở khắp
nơi trên thế giới. Kinh Kim Cang còn đóng một vai trò vô cùng
quan trọng trong tất cả các truyền thống của Phật giáo Đại Thừa, bất
luận Thiền Tông, Mật Tông hay Tịnh Độ Tông. Đặc biệt trong truyền thống
Thiền Tông của Trung Hoa, Đại Hàn hay Nhật Bản, những truyền thống vốn
có chủ trương không nương vào kinh điển để tìm cầu giải thoát giác ngộ,
thế mà việc khuyến tấn học hỏi và nghiên cứu cũng như phiên dịch chú
giải Kinh Kim Cang từ văn bản tiếng Phạn sang nhiều ngôn ngữ trên
thế giới thật là nhiều vô số kể.
Tại Việt Nam, Kinh
Kim Cang cũng đã trở nên rất quen thuộc đối với hầu hết Phật tử
chúng ta bất luận theo tông phái nào. Chúng ta biết rằng, đối với giới
trí thức trong hàng vua chúa và học giả tu sĩ Phật giáo tại Việt Nam đã
diễn giải những ý nghĩa vô cùng quan trọng hàm chứa trong Kinh Kim
Cang mà đã được nhà học giả nỗi tiếng phương Tây, Edward Conze, đã
chú thích trong bản dịch Kinh Kim Cang từ tiếng Phạn sang tiếng
Anh của ông. Kinh Kim Cang cũng đã được trì tụng hàng trăm lần
mỗi ngày hoặc học thuộc lòng bởi nhiều Phật tử tại gia cũng như xuất gia.
Chính vì sự ảnh hưởng vô cùng rộng rãi trong việc thực tập và trì tụng,
Kinh Kim Cang đã được bảo trì bằng nhiều phương tiện khác nhau
như thêu trên gấm hoặc dệt trên lụa, sao chép bằng tay với mực bằng vàng
hay bằng máu và cũng đã được khắc bảng trên đồng, trên đá hay vàng lá và
gỗ quý. Ngày nay, chúng ta có thể tìm thấy Kinh Kim Cang có mặt
khắp nơi tại Việt Nam từ những tư gia cho đến nhiều nơi tại các chùa
viện Phật giáo cũng như thư viện quốc gia và nhiều thư viện của các
trường đại học. Riêng tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội, Việt Nam, đã có
trên 16 văn bảng Kinh Kim Cang được in từ bản khắc gỗ qua nhiều
thời đại khác nhau.
Mặc dầu đất nước Việt
Nam đã bị thống trị bởi chế độ Cộng Sản trên 50 năm qua, đặc biệt tại
Miền Bắc Việt Nam, việc bảo trì kinh điển đã bị bỏ quên nếu không nói là
đã bị từ chối. Hiện nay, chúng ta không thể tìm được một bản khắc bằng
gỗ nào của Kinh Kim Cang mà còn đầy đủ toàn bộ bản gỗ, trên đá
hoặc trên lá đồng. Do vậy, việc nghiên cứu học hỏi về mỹ thuật điêu
khắc chạm trổ của Kinh Kim Cang trên bản gỗ dường như không thể
đưa đến kết luận cuối cùng được. Muốn tìm hiểu chân diện mục về truyền
thống điêu khắc chạm trổ của Kinh điển Phật giáo tại Việt Nam, chúng ta
chỉ còn một cách duy nhất là dựa vào 16 văn bản Kinh Kim Cang
được in trên giấy từ bản gỗ đang còn tồn trử tại Viện Hán Nôm. Chúng ta
có thể phân tích tìm hiểu về những khía cạnh sau đây như: Quá trình phát
triển của Kinh Kim Cang trong truyền thống văn hoá Phật Giáo Việt
Nam trước thời kỳ mà kinh nầy đã được khắc trên bản gỗ. Cách viết và sự
tuân thủ những chữ huý kỵ theo lệnh của vua chúa tại Việt Nam cũng được
dựa vào đây để phân tích nghiên cứu. Ngoài ra, nội dung tư tưởng và sự
hiểu biết cũng như sự thực hành về Kinh Kim Cang trong vòng 3 thế
kỷ qua tại Việt Nam cũng sẽ được dựa theo những lời bạt và lời tựa của
những lần khắc bản để phân tích đối chiếu kỷ càng.
Sự Học Hỏi, Diễn
Giảng và Trì Tụng Kinh Kim Cang trong Thời Kỳ Du Nhập
Cùng với những
bộ kinh nỗi tiếng đã và đang được lưu hành tại Việt nam như Kinh Hoa
Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Kinh Giải Thâm Mật, Kinh
Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Vu Lan và Kinh A Di Đà, Kinh Kim
Cang đã từng được nghiên cứu diễn giải, học tập và trì tụng trong
hơn một ngàn năm trăm năm qua tại Việt Nam. Hiện nay còn rất nhiều tư
liệu quý giá ghi lại sự ảnh hưởng sâu đậm của Kinh Kim Cang trên
bia đá, trong sử sách v.v... Những sự ảnh hưởng nầy được biết đã
có từ đầu thế kỷ thứ VI.
Theo sự ghi chép của
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì toàn bộ Tam Tạng Kinh Điển Phật giáo
đã được triều đại Nhà Tống của Trung Hoa trao tặng cho Việt Nam vào thế
kỷ thứ X. Như vậy, bảng Kinh Kim Cang đã được lưu hành trong
cộng đồng Phật tử Việt Nam bằng văn bản chữ Hán được trích biên từ Tam
Tạng Kinh Điển. Theo sự nghiên cứu gần đây nhất của sử gia Lê Mạnh Thát
có ý kiến đề xuất rằng trong những thế kỷ từ thứ III đến thế kỷ thứ VII,
rất nhiều tu sĩ Việt Nam đã sang truyền giáo tại Trung Hoa. Một số tu
sĩ nầy đã tham gia vào Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Kinh Điển của Ngài
Huyền Trang tại Chùa Từ Ân thuộc Kinh đô Tràng An. Trong số đó có Ngài
Đại Thừa Đăng đã đến nước Tàu vào thế kỷ thứ VII.
Thật đáng tiếc là chúng ta không biết chính xác là Kinh Kim Cang
đã được truyền sang Việt Nam bằng cách nào trước thế kỷ thứ VII. Có lẽ,
Kinh nầy đã được mang về Việt Nam bởi những vị tu sĩ Phật giáo đã qua
lại Trung Hoa trong giai đoạn nầy. Tuy vậy, sự kiện sau đây cung ứng
cho chúng ta những thông tin về tình trạng lưu hành của Kinh Kim Cang
tại Việt Nam có thể là trước khi Tam Tạng Kinh Điển của Nhà Tống trao
tặng cho Việt Nam. Theo Tục Cao Tăng Truyện (T. 2060.431a7-432a8)
cho biết rằng vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI có một thiền sư Việt Nam
pháp hiệu là Pháp Minh đã giảng dạy Kinh Kim Cang cho Sa Môn Trí
Phu tại Chùa Bình Đẳng ở Phủ Tuần Châu, Trung Hoa.
Do vậy, Thiền sư Thích Pháp Minh phải nghiên cứu học tập Kinh Kim
Cang trước khi sang giảng dạy cho Sa Môn Trí Phu tại Trung Hoa. Tuy
vậy, Việt Nam trong giai đoạn nầy vẫn còn nằm trong sự kiểm soát của
chính phủ Phương Bắc, tức là Người Trung Hoa. Việt Nam lúc bấy giờ chưa
tuyên bố độc lập mãi cho đến đầu thế kỷ thứ X.
Những Ấn Bảng Đặc
Biệt
của Kinh Kim Cang
trước Thời Kỳ Bản Gỗ Xuất Hiện
Chúng ta cần phải nhắc
đến sự kiện vô cùng quan trọng sau đây vì hầu hết học giả Phật giáo trên
thế giới đã biết qua. Hiện nay tại Viện Bảo Tàng của Hoàng Gia Anh Quốc
đang bảo tồn một bộ Kinh Kim Cang được in từ bảng gỗ. Bảng Kinh
nầy do nhà sưu tầm cổ vật tại Động Đôn Hoàng, Ông Aurel Stein, phát kiến
vào năm 1907. Đây là một bảng kinh xưa nhất của Phật giáo được in trên
giấy sớm nhất trong lịch sử in ấn của nhân loại trên thế giới còn tồn
tại cho đến ngày nay. Bảng kinh nầy trong phần ghi chép cuối cùng (lời
bạt) cho biết đã được khắc bản vào ngày 15 tháng 04, năm thứ IX đời vua
Hàm Thông [tức là ngày 11 tháng 05 năm 868], tính đến nay đã trên 1,140
năm.
Tuy thế, vẫn còn có ý kiến cho là việc in ấn khắc bản gỗ đã được người
Trung Hoa phát minh trước ấn bản của Kinh Kim Cang nầy gần một
thế kỷ.
Tại Việt Nam, Kinh
Kim Cang đã được nghiên cứu giảng giải bởi những thành phần lãnh đạo
của Phật giáo như là những vị quốc sư, cố vấn cho nhà vua kể từ khi toàn
bộ Tam Tạng Kinh Điển Phật Giáo được trao tặng cho vua Lê Long Đỉnh
(1005-1009) vào những ngày đầu chấp chánh bởi nhà vua Triều Đại Nhà Tống.
Tại Việt Nam, theo lệnh của nhà Vua, sau khi tiếp nhận Tam Tạng Kinh
Điển từ Nhà Tống, vua Lê Long Đỉnh truyền lệnh khắc bản những bộ kinh
nỗi tiếng và thông dụng, trong số nầy chắc chắn bộ Kinh Kim Cang
phải được đặt vào hàng đầu trong công trình điêu khắc.
Kể từ khi Tam Tạng
Kinh Điển được trao tặng cho Việt Nam từ các nhà vua Triều Tống, Kinh
Kim Cang đã được nghiên cứu giảng dạy và khắc bản gỗ bởi nhiều đại
thí chủ của nhiều chùa viện khác nhau. Sự kiện nầy cũng đã được ghi lại
trong nhiều tác phẩm văn học được ghi chép trên sách kể cả việc chạm
khắc trên bia đá. Trước hết, trên một văn bia của Chùa Bảo Thẩm, chúng
ta tìm thấy một sự kiện được ghi lại như sau, “Vào năm thứ 11 thuộc
triều vua Đại Chánh (1540), nhà chùa đã tổ chức việc in ấn khắc kinh
trên bản gỗ những bản kinh quan trọng của Phật giáo như Kinh Kim Cang,
Kinh Quan Âm, Kinh Mục Liên và Bùa Hải Hội cũng như đúc quả chuông
đồng tại chùa”.
Thêm vào đó, chúng ta còn có thể tìm thấy trên văn bia ở Chùa Liễu Khê
có ghi lại rằng nhà chùa có thuê nhiều nhà điêu khắc chạm trỗ đã khắc
Kinh Kim Cang trên bản gỗ vào năm Ất Mão (1615).
Kinh Kim Cang Lưu
Hành
trong Truyền Thống
Thiền Việt Nam
Trong truyền thống
Thiền của Trung Hoa cũng như Việt Nam đều tôn thờ Bồ Đề Đạt Ma là Thiền
Tổ đầu tiên của Trung Hoa và tin tưởng rằng Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã đến Trung
Hoa vào thời đại của triều Vua Lương Vũ Đế, thế kỷ thứ VI. Được biết,
Bồ Đề Đạt Ma đã ngồi thiền nhìn vách 09 năm vì không tìm được đệ tử để
truyền tâm ấn thiền mà Ngài đã mang theo từ Ấn Độ. Cốt tuỷ tư tưởng và
hành động của Thiền được nói lên trong bài kệ sau đây do Bồ Đề Đạt Ma ấn
xuất,
Vì thế, hành giả của
Thiền Trung Hoa trong những giai đoạn bình minh của Phật giáo có khuynh
hướng không học tập nghiên tầm kinh điển để tìm cầu giải thoát giác ngộ.
Ngược lại với Thiền sinh của Trung Hoa, trong truyền thống Thiền của
Việt Nam, ngoài việc nghe theo thông điệp của Bồ Đề Đạt Ma, còn thêm vào
việc hành trì của mình bằng những thời khoá tụng niệm, thuyết giảng và
in ấn sao chép những bộ kinh nỗi tiếng như Kinh Viên Giác, Kinh Pháp
Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Nhân Vương Hộ Quốc, Kinh Kim Cang. Đặc
biệt hơn nữa, trong Thiền Uyển Tập Anh
ghi rõ rằng Kinh Kim Cang đã được trì tụng, nghiên cứu và thuyết
giảng cùng với sự in ấn sao chép bởi các vị Thiền Sư như Thường Chiếu,
Thanh Biện, Giới Không và Diệu Nhân. Thay vì không y cứ vào văn tự kinh
điển mà chỉ tập trung vào việc quán chiếu tự tánh để giác ngộ nghĩa lý
sắc không, những vị Thiền sư nầy đã để ra nhiều thì giờ và tâm lực của
mình để nghiên cứu học hỏi song song vời việc thiền tập theo những tư
tưởng thâm áo chưá đựng trong Kinh Kim Cang. Vì vậy, các Ngài
không những chỉ thâm hiểu triết lý của Kinh Kim Cang mà còn trở
nên giải thoát giác ngộ cũng từ Kinh Kim Cang.
Sự kiện sau đây giữa
Thiền sư Quảng Nghiêm (1122-1190) và Thiền Sư Thường Chiếu được ghi lại
trong Thiền Uyển Tập Anh cho chúng ta thấy rằng Kinh Kim Cang
đã được đem ra thảo luận trong thiền môn của Việt Nam kể từ thế kỷ thứ
12,
“Thiền sư Thường Chiếu
nói, ‘Pháp mà Đức Như Lai đã chứng đắc (dưới gốc cây Bồ Đề khi ngài
thành đạo) không ‘thật’ cũng chẳng ‘hư’ [Như lai sở đắc pháp, thử
pháp vô thật vô hư], pháp nầy là gì vậy? Thiền sư Quảng Nghiêm trả
lời, “Ngài tốt hơn là đừng có thoá mạ Đức Như Lai” Thiền Sư Quảng
Nghiêm hỏi, “Ai đã truyền dạy kinh nầy?” Thiền sư Thường Chiếu trả lời,
“Bạch ngài, Xin ngài đừng có nói đòi với con chứ. Đức Phật (của chúng
ta) đã truyền dạy chứ ai nữa mà hỏi.” Thiền sư Quảng Nghiêm nói, “ Nếu
Đức Phật đã truyền dạy kinh nầy thì tại sao chính trong kinh lại nói
rằng: ‘Nếu chúng ta nói là Đức Như Lai đã truyền dạy kinh nầy là chính
chúng ta đang phỉ báng Đức Phật của chúng ta’. Thiền sư Thường Chiếu
không thể trả lời được câu hỏi nầy.”
Có một sự kiện thứ hai
liên hệ đến sự giảng dạy của Kinh Kim Cang là Thiền sư hãy thực
hành theo nội dung tư tưởng của kinh hơn là đọc tụng thuộc lòng kinh
điển. Thiền sư Thanh Biện để dành tâm lực và thì giờ còn lại của đời
mình tụng Kinh Kim Cang kể từ khi sư phụ của Ngài là Thiền sư
Pháp Đăng viên tịch. Tuy thế, Thiền sư Thanh Biện vẫn không thông hiểu
nghĩa lý của Kinh Kim Cang cho nên mới bị quở trách,
“Một
hôm có một thiền sư đến thăm Thiền sư Thanh Biện. Sau khi chào hỏi xả
giao, vị thiền sư nầy hỏi Thanh Biện, “Kinh nầy là Mẹ của chư Phật trong
ba đời quá khứ hiện tại và vị lai [Thử kinh thị tam thế chư Phật Mẫu].
Vậy thì cụm từ ‘Mẹ của chư Phật’ có nghĩa gì vậy? Thanh Biện trả lời,
“Tôi đã từng tụng đọc kinh nầy nhưng tôi không hiểu nghĩa của cụm từ mà
ngài vừa hỏi”. Thiền sư nầy hỏi tiếp, “Ngài đã trì tụng kinh nầy được
bao lâu rồi?” Thanh Biện trả lời là đã trì tụng được tám năm rồi. Thiền
sư nầy nói, “Nếu Ngài đã từng trì tụng Kinh Kim Cang ròng rã
trong tám năm rồi mà không hiểu được nghĩa lý của kinh, thì sau một trăm
năm trì tụng ông sẽ thành tựu được gì? Thanh Biện sụp lạy dưới chân vị
Thiền sư nầy cầu xin chỉ giáo. Thiền sư nầy bảo Thanh Biện hãy tìm đến
Thiền sư Huệ Nghiêm ở Chùa Sùng Nghiệp để học tập nghĩa lý của Kinh
Kim Cang. Thanh Biện cảm thấy nhẹ nhỗm và thốt lên rằng, “Cho đến
giờ phút nầy ta mới nhận ra lời giảng dạy của Thiền sư Pháp Đăng là đúng.”
Thanh Biện theo thiền sư nầy đến Chùa Sùng Nghiệp để học đạo.”
Thiền sư Trí Nhàn,
ngài được biết là một thiền gia rất nỗi tiếng vào thời nhà Lý
(1010-1225), một hôm ngài nghe bổn sư của mình là Giới Không thuyết
giảng về Kinh Kim Cang. Khi Ngài Giới Không giải thích bài kệ
sau đây: Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc
như điện, ưng tác như thị quán -- tất cả thiền sinh hãy quán chiếu rằng
tất cả các pháp đều giống như mộng, như ảo ảnh, như bọt nước, như quán
nắng, như sương sa, như sấm chớp.
“Trí Nhàn hoát nhiên
đại ngộ và tuyên bố, “Sáu ẩn dụ trong Kinh Kim Cang vừa nêu trên
của Đấng Như Lai nói ra đều không hư dối: Tất cả sự vật thường tình
trên thế gian nầy rõ ràng là trống rỗng, ảo tưởng, và không thật có; chỉ
có chánh pháp mới thật có. Ngài tự vấn, “Tôi đang tìm kiếm gì đây?”.
Các đấng Nho Gia nói về sự liên hệ thường tình của chủ thể và luật lệ,
cha và con, trong khi đó Phật giáo thì giải rõ về sự thành đạt của Bồ
Tát và Thanh Văn. Mặc dù hai giáo nghĩa nầy không gặp nhau như đường
rầy xe lữa, cả hai đều hướng đến một mục đích. Chẳng những thế, chỉ có
Phật giáo mới làm cho con người giải thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi
đau khổ, và cắt đứt chúng sinh ra khỏi vòng nhị nguyên, có không, là và
đang là.”. Liền sau đó, Trí Nhàn cầu khẩn Giới Không trao truyền giới
pháp xuất gia.
Thiền sư Diệu Nhân
(1042-1113), được biết là vị Ni Sư đầu tiên trong Ni giới của Phật giáo
Việt Nam, sau khi Ni Sư xuất gia đầu Phật và thọ giới Bồ Tát với Thiền
sư Chân Không, Ni Sư thâm hiểu giáo nghĩa của Kinh Kim Cang.
Diệu Nhân nghiêm trì giới luật song song với việc tu tập thiền định do
vậy đã chứng đắc chân tam muội. Ni Sư Diệu Nhân luôn luôn giữ thân khẩu
ý thanh tịnh do vậy Ni Sư đã không màn đến sắc tướng, ngôn ngữ và âm
thanh.
“Có một thiền sinh hỏi,
“Trong Kinh Duy Ma Cật có đoạn nói là (Ngài Duy Ma Cật) bị bịnh
vì tất cả chúng sinh bịnh” Tại sao Ni Sư lại phải không màn đến sắc
tướng âm thanh?. Thiền sư Diệu Nhân mới trả lời nghi vấn nầy bằng cách
trích dẫn một bài kệ rất nỗi tiếng trong Kinh Kim Cang, “Nhược dĩ
sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến
Như Lai -- Nếu có chúng sinh nào muốn thấy ta qua âm thanh sắc tướng thì
chúng sinh ấy đã lầm đường lạc lối và không thể nào thấy được Như Lai.”
Thiền sinh ấy hỏi tiếp, “Công ích của sự ngồi thiền là gì?” Diệu Nhân
trả lời, “Bản chất nguyên uỷ của sự ngồi thiền là (không đến) không đi.”
Vị thiền sinh hỏi tiếp, “Tại sao Ni Sư không giảng giải rộng ra?” Diệu
Nhân trả lời, “Bản chất của đạo giác ngộ giải thoát vốn vô ngôn.”
Ngoài những sự kiện
vừa nêu ra trên đây liên hệ đến việc nghiên cứu và thực hành của Kinh
Kim Cang được ghi chép lại trong bia ký tại các chùa viện và
Thiền Uyển Tập Anh của truyền thống thiền Việt Nam, những bản
Kinh Kim Cang được khắc trên bản gỗ còn tồn trử tại Viện Hán Nôm cho
chúng ta thấy rằng bảng kinh nầy chiếm một vị trí nỗi bậc trong số lượng
văn bản khắc kinh trên gỗ tại bản viện. Trong thư viện chứa kinh của
Viện Hán Nôm tại Hà Nội chúng ta tìm thấy ít nhất là 16 văn bản Kinh
Kim Cang được khắc bản in ấn nhiều lần khác nhau.
Sau đây là bảng liệt kê niên đại khắc bản của Kinh Kim Cang.
- Kim Cang Bát
Nhã Ba La Mật Kinh Tập Chú, số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà
Nội, Việt Nam là AC-141, năm khắc bản không rõ.
- Kim Cang Bát
Nhã Ba La Mật Kinh Tập Chú, số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà
Nội, Việt Nam là AC-510, năm khắc bản 1700.
- Kim Cang Bát
Nhã Ba La Mật Kinh, số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội,
Việt Nam là AC-254, năm khắc bản 1745.
- Kim Cang Kinh
Giải, số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội, Việt Nam là
AC-512, năm khắc bản 1745.
- Kim Cang Kinh
Trực Giải,, số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội, Việt Nam là
AC-320, năm khắc bản 1822.
- Kim Cang Bát
Nhã Ba La Mật Kinh, số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội,
Việt Nam là AC-299, năm khắc bản 1825.
- Kim Cang Kinh,
số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội, Việt Nam là AC-176, năm
khắc bản Tân Mùi ?.
- Kim Cang Kinh,
số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội, Việt Nam là AC-319, năm
khắc bản 1827.
- Kim Cang Bát
Nhã Ba La Mật Kinh, số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội,
Việt Nam là AC-456, năm khắc bản 1849.
- Kim Cang Kinh,
số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội, Việt Nam là AC-438, năm
khắc bản Giáp Tuất ?.
- Kim Cang Kinh,
số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội, Việt Nam là AC-184, năm
khắc bản không rõ.
- Kim Cang Bát
Nhã Ba La Mật Kinh, số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội,
Việt Nam là VHb-133, năm khắc bản không rõ.
- Kim Cang Kinh
Giải Lý Mục, số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội, Việt Nam
là AB-528, năm khắc bản 1857.
- Kim Cang Kinh
Quốc Âm, số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội, Việt Nam là
AB-567, năm khắc bản 1861.
- Kim Cang Kinh
Trực Giải, số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội, Việt Nam là
AC-167, năm khắc bản 1886.
- Kim Cang Bát
Nhã Ba La Mật Kinh, số ký hiệu tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội,
Việt Nam là AC-131, năm khắc bản 1886.
Trong số hàng ngàn
kinh sách Phật giáo được Viện Hán Nôm thu thập và bảo quản kể từ khi
viện nầy được thành lập vào năm 1901
không có một bộ kinh nào nỗi tiếng mà có nhiều ấn bản qua nhiều lần như
Kinh Kim Cang. Sự kiện nầy cho chúng ta thấy vị trí quan trọng
của Kinh Kim Cang trong đời sống của cộng đồng Tăng Ni và Phật Tử
Việt Nam kể từ đầu thế kỷ 18.
Ngày nay, Kinh Kim
Cang đã trở nên một bộ kinh quen thuộc đối với tất cả những nhà học
Phật khắp nơi trên thế giới. Trong Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu
đã liệt kê 6 ấn bản khác nhau của Kinh Kim Cang,
duy có bản Kinh Kim Cang được phiên dịch từ tiếng Phạn vào năm
401 của Ngài Cưu Ma La Thập (Kumārajīvā, T. 135) là bản kinh đã
được nghiên cứu và học hỏi nhiều nhất. Có một sự kiện làm cho chúng ta
ngạc nhiên là trong 16 ấn bản Kinh Kim Cang đã được khắc bản
nhiều lần tại Việt Nam, không có bản dịch nào là bản dịch của Ngài Bồ Đề
Lưu Chi (T.236), hoặc 4 bản dịch khác như của Ngài Chân Đế (T.237),
Ngài Đạt Ma Cấp Đa (T.238), Ngài Huyền Trang (T.220(9)),
và Ngài Nghĩa Tịnh (T.239). Thì ra, tại Việt Nam Kinh Kim Cang
chỉ có một bản dịch duy nhất đó là bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập.
Niên
Đại Khắc Bảng Gỗ của Kinh Kim Cang
Dựa trên
bảng liệt kê về 16 ấn bản khác nhau của Kinh Kim Cang đã được đề
cập đến ở trên, chúng ta thấy ấn bản mang ký hiệu AC-510, khắc bản vào
năm 1700, là ấn bản xưa nhất của kỷ thuật in ấn bằng bảng gỗ của Kinh
Kim Cang được bảo quản tại Thư viện của Viện Hán Nôm tại Hà Nội.
Trong phần lời bạt của ấn bản lần nầy của Kinh Kim Cang, người
chủ trương có ghi lại một sự kiện quan trọng là bản gỗ của lần khắc bản
nầy của Kinh Kim Cang được cất giữ tại Chùa Quỳnh Lâm, thuộc
huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, miền Bắc Việt Nam. Thật là bất hạnh
cho chúng ta, ngôi chùa lịch sử nầy đã hoàn toàn bị thiêu rụi bởi bom
đạn của Không Lực Pháp vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Số phận của
những bản gỗ của bản Kinh Kim Cang đã bị cháy thành tro bụi cùng
với hàng trăm bản kinh khác.
Dựa theo lời tựa và
lời bạt đã được Hoà Thượng Tuệ Đăng Chân Nguyên, người chủ xướng việc
khắc bản cho Kim Kim Cang vào năm 1700, chúng ta không thấy Hoà
Thượng cho chúng ta biết thông tin về bản gốc của Kim Kim Cang
dùng làm bản đáy để khắc bản lần nầy. Do vậy chúng ta không thể kết luận
rằng bản Kinh Kim Cang (ấn bản 1700) đã được sử dụng từ bản viết
tay hay bản in từ bản khắc gỗ. Đây là một trường hợp khá phổ biến trong
việc in ấn thuộc lãnh vực khắc bản gỗ tại Việt Nam, đặc biệt là 16 ấn
bản của Kinh Kim Cang.
Để tìm hiểu văn bản
gốc nào của Kinh Kim Cang mà người chủ trương dùng làm bảng đáy
để khắc lại bảng gỗ vào năm 1700, chúng tôi đã so sánh từng bộ, từng nét,
từng chữ và mỹ thuật của ấn bản lần nầy với ấn bản của Kinh Kim Cang
được in lại trong Tam Tạng Kinh của Đại Hàn (Cao Ly Đại Tạng). Sau khi
so sánh cẩn thận như vậy, chúng tôi đưa ra kết luận rằng ấn bản năm 1700
của Phật Giáo Việt Nam rất gần với ấn bản của Kinh Kim Cang có số
ký hiệu K.13 trong Cao Ly Đại Tạng. Sự so sánh nầy cho chúng ta thấy
những đường nét của Kinh Kim Cang (bản khắc của Việt Nam năm
1700) giống hệt với đường nét của Kinh Kim Cang trong Cao Ly Đại
Tạng.
Có những để xuất rất
thú vị trong công việc đi tìm bản đáy của Cao Ly Đại Tạng – Tam Tạng
Kinh của Phật Giáo Đại Hàn đã được khắc bảng cách đây trên 700 năm, toàn
bộ trên 83 ngàn bảng gỗ đang được UNESSCO bảo quản tại Tu Viện Hải Ấn
thuộc Nam Hàn mà bản đáy của Tam Tạng nầy là Tam Tạng Kinh thuộc đời Bắc
Tống của Trung Hoa – chúng tôi có thể nói là bảng gỗ của Kinh Kim
Cang ấn bản 1700 dùng bảng Kinh Kim Cang trong Tam Tạng Kinh
thuộc đời Bắc Tống làm bản đáy. Điều nầy có thể chứng minh cho chúng ta
thấy rằng ấn bảng Kinh Kim Cang thuộc đời Bắc Tống mà đã được
các nhà vua Việt Nam từ thời Nhà Đinh, Nhà Lê, Nhà Lý và Nhà Trần vào
những thế kỷ từ thế kỷ thứ mười cho đến thế kỷ thứ mười bốn vẫn còn lưu
hành rộng rãi tại nước ta cho đến thế kỷ thứ mười tám.
Sự kiện trên đây khiến
chúng ta nhớ lại trong thời gian trị vì đất nước Đại Việt, các nhà vua
thuộc các triều đại từ thời Nhà Đinh, Nhà Lê, Nhà Lý đến nhà Trần, từ
thế kỷ thứ mười đến thế kỷ thứ mười bốn có ít nhất là 3 bộ Đại Tạng Kinh
đã được vua Nhà Tống trao tặng cho các triều đại Việt Nam. Kể từ đó rất
nhiều bản kinh được chép tay cũng như khắc bảng để in ra phổ biến rộng
rãi trong cả nước. Do vậy, ấn bản của Kinh Kim Cang được khắc
bản in vào năm 1700 chắc chắn phải sử dụng bảng đáy từ những bảng chép
tay hoặc bản gỗ đã được lưu hành rộng rãi như đã đề cập ở trên.
Những Chữ Kỵ Huý
Xuất Hiện trong Kinh Kim Cang
Có một nguồn tư
liệu rất đáng tin cậy giúp cho chúng ta lý giải và chứng minh về niên
đại khắc bản mà người chủ trương đã sử dụng để cho chúng ta đưa ra mà
xác định được bảng đáy của những ấn bản khắc gỗ mới đó là việc kỵ huý
còn lưu lại trong 16 ấn bản của Kinh Kim Cang mà chúng ta đã đề
cập ở mục trên. Trong 16 ấn bản của Kinh Kim Cang, có ấn bản vào
năm 1827 (số ký hiệu là AC-319), chúng tôi tìm thấy có ít nhất 7 lần
người chủ trương còn giữ theo lệ kỵ huý để tránh sự trùng lặp tên huý kỵ
đã được các nhà Vua vào thời Nhà Nguyễn (1802-1945) ban hành.
Để đi sâu vào vấn đề
nầy, chúng ta cũng nên tìm hiểu về luật lệ kỵ huý của các nhà vua đương
thời thuộc Nhà Nguyễn đã trị vì từ năm 1802 đến năm 1945. Trong suốt 44
năm trị vị đất nước Việt Nam, những vị vua Nhà Nguyễn đã hơn 22 lần đề
ra những luật lệ cấm kỵ dùng chữ (kỵ huý). Trong số đó có 150 chữ không
được sử dụng trong lúc viết lách, sáng tác và trò chuyện kể cả khi khắc
bản gỗ kinh điển của Phật giáo tại nước ta. Luật lệ nầy vẫn còn được
tuân hành trong khi khắc bản Kinh Kim Cang vào năm 1827. Những
ví dụ sau đây cho chúng ta thấy được sự ảnh hưởng chữ huý rất sâu đậm
trong vấn đề in ấn kinh điển của Phật giáo. Có 3 chữ trong Kinh Kim
Cang trùng / giống với tên của vua Gia Long và họ hàng bà con gần
của nhà vua: Chữ ‘chủng’ trong cụm từ ‘chủng chư thiện căn’
vốn là tên của vua Gia Long. Chữ ‘lan’ trong cụm từ ‘a lan
nhã hạnh’ vốn là tên của mẹ nhà vua Gia Long; và chữ ‘đảm’
trong cụm từ ‘hạ đảm như lai’ vốn trùng âm với tên của vua Minh
Mạng (1820-1840). Trong Kinh Kim Cang, khi khắc đến 3 chữ nầy,
người khắc không được phép khắc giống hệt với tên của vua hoặc tên của
những người bà con với vua mà phải khắc khác đi bằng cách trên đầu của
những chữ nầy phải khắc thêm 3 dấu hiệu đặc biệt giống như 3 mũi tên để
làm cho khác với chữ phải tránh vì kỵ huý.
Tục lệ kỵ huý tránh
khắc (hoặc viết) những chữ mà giống với tên vua hoặc họ hàng bà con với
vua như là tên cha hoặc tên mẹ của vua mãi còn ảnh hưởng trong nền công
nghệ điêu khắc bản gỗ kinh điển Phật giáo trong giai đoạn lịch sử nầy.
Nếu có bản kinh nào mà không có niên đại khắc hoặc niên đại viết chúng
ta có thể dựa vào tục lệ trong việc kỵ huý nầy để có thể đưa ra một thời
điểm thích hợp cho lần in ấn nầy.
Để giúp cho độc giả
biết thế nào là luật lệ huý kỵ đã phải kiêng cử trong khi khắc bảng kinh
của Phật giáo, đặc biệt trong ấn bản của Kinh Kim Cang, chúng ta
hãy so sánh và phân tích việc kỵ huý trong ấn bản vào năm 1827. Trong
ấn bản lần nầy, chúng tôi đã tìm thấy có ít nhất 7 lần người chủ trương
khắc bản tuân theo luật lệ kỵ huý của nhà Vua khi khắc 3 chữ: Chủng,
Lan và Đảm. Theo học giả Ngô Đức Thọ, trong thời điểm nầy từ 1825
đến 1833, đất nước của chúng ta đang trị vì bởi nhà vua Minh Mạng
(1820-1840), trong suốt 21 năm trị vì nầy, vua Minh Mạng đã 5 lần ra
chiếu chỉ về luật lệ kỵ huý. Lần ra chiếu chỉ vào năm 1825, nhà vua đã
đề ra 25 chữ mà thần dân không được sử dụng khi viết, khi khắc bản gỗ
cũng như khi nói. Có 3 trường hợp sau đây phải kiêng cử: 1) Không được
sử dụng đến khi sáng tác viết lách văn chương thi phú. Nếu có trường
hợp đặc biệt khi gặp đến, tác giả phải thay thế bằng những chữ tương tự
hoặc phát âm khác với phát âm của chữ đó mà trước đây đã được sử dụng
năm chữ sau đây: Noãn, Ánh, Chủng, Kiểu và Đảm. Chữ
Noãn phải thay thế bằng chữ Áo. Chữ Ánh phải thay thế
bằng chữ Chiếu. Chữ Chủng phải thay thế bằng chữ Thực.
Chữ Kiểu phải thay thế bằng chữ Hạo và chữ Đảm phải
thay thế bằng chữ Phủ. 2) Không được sử dụng những chữ sau đây
đặt tên cho người hoặc làng xã địa phương: Cốn, Hoàn, Lan, Đang.
Bốn chữ nầy phải được thêm vào 3 nét trên đầu giống như 3 mũi tên khi
khắc hoặc khi viết. 3) Không được phát âm tên người hoặc đặt tên người
11 chữ sau đây: Kim, Hoàng, Nguyên, Lan, Tần, Thái, Chu, Thụ, Khoát,
Hiểu và Thuần.
Bản khắc gỗ Kinh
Kim Cang vào năm 1827 hầu như đã giữ đúng theo luật lệ cấm kỵ về chữ
huý của nhà Vua Minh Mạng đã ra lệnh vào năm 1825 qua những chữ theo sau:
Chủng, Lan và Đảm. Tuy vậy, người chủ trương khắc bảng
Kinh Kim Cang vào năm 1827 không vâng theo lệnh của nhà Vua 100%.
Đúng theo lệnh kỵ huý của nhà Vua thì chữ Chủng phải đổi thành
chữ Thực (có nghĩa tương đương nhưng khác nét và khác cách phát
âm). Chữ Đảm phải thay thế bằng chữ Phủ (có nghĩa tương
đương nhưng khác nét cà khác cách phát âm), và chữ Lan phải thay
thế bằng chữ Lân. Thay vì người chủ trương phải cho thay thế 3
chữ nầy đúng theo lệnh của nhà Vua Minh Mạng đã ra chiếu chỉ vào năm
1825, ba chữ nầy lại bị đục bỏ hay không khắc bộ đầu tiên bên trái của
nó trong ấn bản Kinh Kim Cang vào năm 1827. Để ý kỷ bản Kinh nầy,
chúng ta nhận thấy 3 chữ rất lạ thường. Phía bên trái của chữ nầy bị
một ô đen. Ví dụ như chữ Chủng gồm 2 bộ hợp lại, đó là bộ mễ và
bộ trùng, nhưng vì theo lệ kỵ huý, bộ mễ bị đục bỏ hoặc không được khắc,
cho nên khi in ra chúng ta nhận thấy có một ô đen đi trước bộ trùng.
Nghiên cứu và tìm hiểu
thêm về luật lệ kỵ huý trong giai đoạn lịch sử nầy, chúng tôi nhận thấy
thể lệ khắc chữ hoặc viết chữ phải tránh khắc trùng tên vua hoặc tên của
họ hàng bà con gần của nhà vua bằng cách đục bỏ hoặc bỏ trống những bộ
hay nét bên trái của chữ ấy là luật lệ đã được nhà vua đặt ra khoảng 40
hoặc 50 năm sau. Luật lệ kỵ huý nầy đã được nhà vua Thành Thái
(1889-1907)
đã đặt ra. Trong thời kỳ nầy, vua Thành Thái đã ra chiếu chỉ có 3 nhóm
chữ cần phải tránh theo luật kỵ huý. Khi viết chữ người viết phải bỏ
trống hoặc tô đen những bộ và nét bên trái. Ví dụ khi viết chữ Chiếu
thì phải bỏ trống hoặc bôi đen bộ ‘nhật’ bên trái của chữ
Chiếu. Tương tợ như vậy, khi viết chữ Lân thì bộ ‘sơn’
bên trái phải bỏ trống hoặc bôi đen.
Luật lệ kỵ huý ‘bỏ
trống hoặc bôi đen những nét bên traí’ nầy được biết như là luật lệ về
kỵ huý cuối cùng đã được đặt ra bởi các nhà vua Việt Nam. Có một nghi
vấn trong vấn đề kỵ huý phải bắt buộc tuân theo trong khi khắc bảng
Kinh Kim Cang vào năm 1827 mà người chủ trương lại theo lệnh của vua
Minh Mạng đã đặt ra vào những năm 1886-1907. Đúng ra thì Kinh Kim
Cang được khắc bảng năm 1827 phải tuân theo lệnh kỵ huý của vua Tự
Đức đã đặt ra vào năm 1825. Sự kiện nầy cần được nghiên cứu tìm hiểu
thêm khi điều kiện và thời gian cho phép.
Nghiên
Cứu Phân Tích Tình Trạng Học Thuật của Kinh Kim Cang
Phân tích về tình hình
nghiên cứu cũng như học thuật của Kinh Kim Cang là một việc làm
đang gặp trở ngại và rất khó khăn vì sự thiếu hụt tư liệu trong nền văn
hiến của Phật giáo Việt Nam dựa trên nền tảng triết lý cũng như những
khía cạnh lịch sử của nó. Kể từ khi nước Đại Việt được tuyên bố độc lập
vào những thập niền cuối thế kỷ thứ 10 bởi nhà Đinh, chúng ta không thể
tìm thấy một văn bia, một phiến đá hay một văn kiện chữ viết nào trên
giấy hoặc trên vãi. Sự thiếu thốn tư liệu nầy phải chăng do sự tàn phá
của chiến tranh, và đặc biệt hơn nữa là cuộc tẩy xoá văn minh văn hoá
Đại Việt của quân xâm lăng Nhà Minh vào những thập niên cuối thế kỷ thứ
14 và đầu thể kỷ thứ 15.
Có một nguồn tư liệu
vô cùng giá trị để chúng ta dùng làm nền tảng nghiên cứu trong lãnh vực
in ấn kinh điển khắc bản gỗ đó là bản in của sách Thích Truyền Chính
Tông Pháp Ấn, được điêu khắc vào năm 1568. Đây là văn bản kinh sách
khắc bản gỗ xưa nhất còn tồn tại của Phật Giáo Việt Nam. Sách Thích
Truyền Chính Tông Pháp Ấn nầy nằm trong kho sách quý hiếm của sử giả
Lê Mạnh Thát. Chúng ta có thể tìm hiểu tình trạng nghiên cứu học hỏi
kinh điển Phật giáo của giới xuất gia cũng như tại gia của Phật giáo
Việt Nam vào thế kỷ 16
bằng cách dựa trên sách nầy để phân tích nghiên cứu. Tuy nhiên, sách
Thích Truyền Chính Tông Pháp Ấn thuộc về những ấn chú của Mật Tông
cũng như những hướng dẫn và giải thích về cách thức tổ chức và phương
pháp làm thế nào để cử hành một đại lễ cầu nguyện (theo ấn chú của Mật
Tông Phật giáo).
Một trong những phương
pháp nghiên cứu phân tích về tình trạng nghiên cứu học hỏi kinh điển của
cộng đồng Phật tử Việt Nam trong 300 năm gần đây -- bắt đầu từ đầu thế
kỷ thứ 18 cho đến cuối thập niên của thế kỷ 20, đó là sự nỗ lực phân
tích triết lý tư tưởng của các nhà chủ trương in ấn 16 bản Kinh Kim
Cang dựa theo những lời tựa và lời bạt trong những lần khắc bản mà
đang còn bảo quản tại Thư Viện Hán Nôm, Hà Nội, như chúng tôi đã liệt kê
ở trên. Bằng vào cách thức nầy, chúng tôi hy vọng sẽ đưa ra một số khía
cạnh thật vô cùng lý thú của việc nghiên cứu học tập kinh điển trong
giai đoạn nầy.
Hầu hết mọi người
trong chúng ta đều biết rằng việc nghiên cứu học tập Kinh Kim Cang
được quan niệm như là một việc riêng của giới trí thức cao tăng
trong những nước theo Phật giáo Đại Thừa. Tại Việt Nam, tên tuổi cũng
như tư tưởng và hành động của giới nầy được tìm thấy qua những lời tựa
lời bạt trong 16 lần ấn bản Kinh Kim Cang. Chúng tôi sẽ từng
bước đọc đi đọc lại và suy gẫm về tư tưởng hành động của các bậc thức
giả nầy dựa trên những bản sớ giải, lời tựa, lời bạt của Kinh Kim
Cang để thấy đâu là dòng tư tưởng độc đáo của Phật giáo Việt Nam đã
được hiển bày trong 300 năm qua.
Việc làm so sánh
nghiên cứu phân tích và phê bình kinh điển mà chúng tôi sẽ làm để tìm ra
dòng tư tưởng độc đáo của Phật giáo Việt Nam vừa nêu trên là một việc
làm có thể nói là rất mới mẻ trong làng văn học nghiên cứu của Phật giáo
Việt Nam. Kỳ thực, phương pháp nầy cũng mới xuất hiện trong nền nghiên
cứu phân tích văn học phương Tây vào đầu thế kỷ 17, kể từ khi ấn bản đầu
tiên của Kinh Tân Ước bằng tiếng Greek bởi học giả Erasmus được
xuất bản.
Trước năm 1927, tại
Việt Nam vấn đề nghiên cứu phân tích và phê bình kinh điển không được
biết đến. Sự kiện nầy có thể dựa trên 16 lần khắc bản in Kinh Kim
Cang để chúng ta đưa ra lập luận. Trong vòng 300 năm qua, Kinh
Kim Cang đã được khắc bản in trên 16 lần. Trong số 16 ấn bản nầy,
phân nửa ấn bản thì có lời tựa hoặc lời bạt cho những lần khắc bản. Đối
với phân nửa ấn bản không có lời tựa hoặc lời bạt, chúng ta không thể
tìm hiểu vấn đề nghiên cứu và tu tập theo Kinh Kim Cang ngoại trừ
những kỷ thuật và mỹ thuật in ấn bản gỗ của chúng. Để tìm hiểu về tình
trạng nghiên cứu và tu tập theo Kinh Kim Cang trong suốt 3 thế kỷ
vừa qua tại Việt Nam, chúng ta có thể dựa theo những lời tựa và lời bạt
của 8 ấn bản còn lại. Chúng ta sẽ lần lượt phân tích sự kiện nầy dựa
theo niên đại in ấn của Kinh Kim Cang.
Trước tiên, theo lời
tựa cho lần khắc bản Kinh Kim Cang vào năm 1700,
chúng ta thấy người chủ trương khắc bản gỗ Kinh Kim Cang lần nầy
là Ngài Tuệ Đăng Chân Nguyên. Trong lời tựa nầy, Ngài Chân Nguyên đã
viết:
Công đức của việc khắc
bản in ấn Kinh nầy (Kinh Kim Cang) rất vô cùng to lớn bởi vì
Kinh Kim Cang có khả năng chuyển hoá vô minh phiền não của hằng hà
sa số hữu tình chúng sinh thành giác ngộ giải thoát. Do đó, nghiên cứu
và học hỏi tu tập theo tư tưởng triết lý trong kinh thì vô cùng quan
trọng. Trong quá khứ đã có rất nhiều nhà chú giải về Kinh Kim Cang
kể từ đời Nhà Đường và Nhà Tống bên Trung Hoa. Ấn bản lần nầy (năm
1700) là bản hay nhất (trong tất cả các ấn bản), mà đã được cô đọng từ
sự tìm hiểu nghiên cứu các ấn bản trên (thuộc Nhà Đường và Nhà Tống).
Tôi (Tuệ Đăng Chân Nguyên) tin tưởng rằng ấn bản nầy sẽ được truyền khắp
nơi chốn cửa Thiền trong cả nước với mục đích cao cả là để hiểu được ý
nghĩa uyên áo ẩn tàng của kinh, cũng tương tự như người mù vừa được mở
mắt thấy được ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Và cũng giống như
người nghèo cùng khốn khổ vừa được kho tàng báu vật chứa đựng trong biển
cả. Thật là hạnh phúc vô biên !
Ngài Tuệ Đăng Chân
Nguyên còn viết thêm rằng mục đích chính của ấn bản lần nầy là để trao
truyền lại cho hàng đệ tử có tâm huyết tiếp tục ngọn đèn trí tuệ của Đức
Phật và như vậy mới đáp ứng đúng theo nguyện vọng của lời dạy của Ngài.
Chân Nguyên còn tin tưởng thêm rằng Ngài có đủ phước duyên để có được
bản kinh nầy do vì Ngài đã gieo trồng rất nhiều thiện căn trong quá khứ.
Do vậy, bất cứ những ai phát tâm thọ giới Bồ Tát với đại nguyện đi trên
còn đường cứu độ muôn loài chúng sinh ra ngoài biển khổ của phiền não
sinh tử luân hồi cần nên lấy Kinh Kim Cang làm nền tảng để thực
tập ngỏ hầu tự thân chứng đắc quả vị giác ngộ vô thượng Bồ Đề cũng như
cứu độ tất cả muôn loài chúng sinh hoàn thành chánh giác. Công đức ấy
thật vô lượng vô biên không thể đo lường, không thể nghĩ bàn được.
Trong lời tựa trong
bản Kim Kim Cang kế tiếp mang ký hiệu AC. 141, chúng ta không rõ
vị nào viết lời tựa cũng như chúng ta không biết vị nào đã đứng ra chủ
xướng việc khắc bản in lần nầy. Chúng ta cũng không được biết bảng kinh
nầy đã được khắc bản in từ năm nào. Duy chỉ có một thông tin liên hệ
đến nơi chốn bảo trì bản khắc gỗ của kinh nầy đó là Chùa Linh Quang, xã
Thọ Xương, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Nội. Tuy nhiên, nếu chúng ta so sánh
kích thước cở chữ cũng như thư pháp chữ Hán của ấn bản lần nầy so với ấn
bản mà chúng tôi đã thảo luận ở trên, ấn bản năm 1700. Cả hai ấn bản
đều giống nhau về mặt hình thức mỹ thuật điêu khắc.
Trong lời tựa của ấn
bản Kinh Kim Cang mang ký hiệu AC. 141 còn chứa đựng rất nhiều
khía cạnh vô cùng lý thú liên hệ đến triết lý của Kinh Kim Cang
với truyền thống Thiền Tông. Trước hết, người chủ trương ấn bản lần nầy
viết rằng cốt tuỷ của Kinh Kim Cang là nói về tự tánh mà tự tánh
nầy chính là Phật tánh. Do vì ác nghiệp của chúng sinh nên phải tái
sinh trong lục đạo tứ sinh với nhiều hình tướng khác nhau. Vì vậy, chư
Phật và Chư vị Bồ Tát xuất hiện ra đời theo hạnh nguyện độ sinh của các
ngài cũng dưới nhiều hình tướng khác nhau trong vô lượng thế giới với
mục đích duy nhất là truyền bá chánh pháp. Chúng ta nên nhớ rằng tất cả
chư Phật trong quá khứ vẫn còn đang ở tại (thường trú) thế gian với trí
tuệ giác ngộ sáng ngời. Vì thế, Chư Phật trong quá khứ, hiện tại cũng
như vị lai, đã truyền tâm ấn đến đời thứ sáu của Thiền Tông (tại Trung
Hoa); mỗi vị đều có hình tướng đặc thù của mình (khi hoá hiện trên đời).
Tuy vậy, Phật tánh của chư vị trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai
thì không khác. Trong thời quá khứ, kể từ khi Thiền tổ đầu tiên là Bồ
Đề Đạt Ma, ngài một mình chấn tích sang Trung Hoa để trao truyền chánh
pháp nhãn tạng, tâm ấn của Thiền Tông. Ngài đã phú chúc Kinh Lăng
Già cho đệ nhị tổ là Huệ Khả rồi truyền đến ngũ tổ Hoằng Nhẩn để rồi
ngũ tổ mật truyền ngọn đèn trí tuệ, dùng Kinh Kim Cang phó chúc
cho Lục Tổ Huệ Năng.
Người chủ xướng khắc
bản ấn bản Kinh Kim Cang mang ký hiệu AC. 141 nầy còn nói thêm
rằng Kinh Kim Cang đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong
Thiền Tông, nếu không nói là triết lý của Kinh nầy đã chiếm trọn tư
tưởng và hành động của truyền thống Thiền Phật giáo. Vì vậy, ngài (người
chủ xướng khắc bản) khuyến tấn những ai đang thực tập thiền cần phải
thấu triệt nghĩa lý thâm sâu của kinh bằng cách phân tích nghiên cứu học
tập một cách nghiêm túc, nhiệt tình và hết lòng. Đừng nên dựa theo
thiền ngữ ‘Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm,
kiến tánh thành Phật’ mà quên đi bộ kinh vô cùng quan trọng nầy.
Trong phần cuối cùng
của lời tựa, tên của ngôi chùa cũng như địa chỉ làng xã huyện nơi cất
giữ bản gỗ của Kinh Kim Cang được khắc ghi rõ ràng. Người chủ
trương khắc bản in ấn lần nầy dường như hoàn toàn im lặng không nhắc đến
tình trạng sinh hoạt của truyền thống Thiền Việt Nam trong lời tựa. Vì
lý do nầy, chúng ta có thể nghĩ rằng, bài tựa cho lần khắc bản in lần
nầy không phải được viết ra từ một vị Thiền sư của Việt Nam, mà lời tựa
là sao lại ấn bảng cũ đã được lưu hành trước đây dùng để làm bảng đáy
cho ấn bảng mới nầy.
Trong lời tựa của ấn
bản Kinh Kim Cang, mang số hiệu AC. 512, để lại cho chúng ta tình
trạng tương tự như ấn bản Kinh Kim Cang, mang số hiệu AC. 141 (vừa
đề cập ở các đoạn trên). Ấn bản mang số hiệu AC. 512 gồn có hai bài tựa.
Bài tựa thứ nhất được viết bởi Thiền Sư Thiên Mục Trung Phong (?) và bài
tựa thứ hai được viết bởi Hoà Thượng Siêu Thuỷ (?) Trong bài tự thứ
nhất chúng ta thấy Thiền Sư Thiên Mục Trung Phong trình bày sự hiểu biết
của Ngài về sự phá chấp, phá tướng đã đề cập trong Kinh Kim Cang.
Trong bài tựa thứ hai, Hoà Thượng Siêu Thuỷ nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của việc nghiên cứu học hỏi và thực tập thông điệp của Kinh Kim Cang
một cách tổng quát. Ngài còn trích dẫn một thiền ngữ trong truyền
thống của Thiền tông Phật Giáo, “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan,
Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết -- nếu chúng ta bám chặt vào chữ
nghĩa để diễn dịch kinh điển, thì chúng ta làm oan đến chư Phật trong ba
đời, nhưng nếu chúng ta rời xa kinh điển chỉ có một chữ thì không khéo
chúng ta cùng với ma quân nói pháp”, để nhắc nhở hành giả tu tập
theo thiền đừng bỏ quên kinh điển mà hãy rất cẩn trọng trong việc diễn
giải kinh điển của chư Phật trong ba đời, quá khứ, hiện tại và vị lai.
Cuối cùng, có một chữ ở câu cuối cùng của bài tựa nầy đó là chữ Nam
(trong cụm từ Nam Mô), cho ta thấy dấu hiệu tôn trọng việc kỵ huý.
Một lần nữa, việc kỵ huý nầy cho chúng ta thấy rằng ấn bản của Kinh
Kim Cang, ấn hành vào năm 1745, có lẽ đã sử dụng ấn bản của thế kỷ
thứ 13 làm bản đáy. Nói một cách khác hơn, người Phật tử Việt Nam ở vào
thế kỷ thứ 18 vẫn còn chịu ảnh hưởng tập tục kỵ huý mà đã được các vị
vua đời nhà Trần đã đặt ra.
Trong cùng một thời
điểm, vào năm 1745, Kinh Kim Cang, mang số hiệu AC. 254, cũng đã
được khắc bản và được bảo quản tại Chùa Báo Ân thuộc xã Vân Tế , huyện
Thượng Phúc. Trong lời tựa của ấn bản nầy, người chủ trương khắc bản in
đã trích dẫn một câu kinh rất nỗi tiếng của Kinh Kim Cang,
“Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm – vị Bồ Tát phát tâm cầu quả vị
tối thượng Bồ Đề, không nên trụ chấp bất cứ vào đối tượng hoặc bất cứ
hình tướng nào cả”, để giải thích thông điệp của Đức Phật đã dạy cho
Ngài Tu Bồ Đề, bởi vì trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng đã
ngộ đạo từ thông điệp vô cùng quan trọng nầy khi vừa nghe một hành giả
tụng đến câu kinh trên. Người chủ trương khắc (cùng viết bài tựa) cho
ấn bản lần nầy còn đi xa thêm để cố gắng giải thích những tư tưởng triết
lý của Kinh Kim Cang. Vị nầy đã nhấn mạnh đến vai trò quan trọng
của Kinh Kim Cang trong truyền thống Phật giáo bằng cách trích
dẫn một câu kinh trong Kinh Kim Cang, “Tam thế Như Lai y thử
Kim Cang Kinh nhi thành vô thượng chánh đẳng chánh giác – ba đời các đức
Như Lai đều nương vào nơi Kinh Kim Cang nầy mà thành bậc giác ngộ vô
thượng chơn chánh”
Cuối cùng, người chủ
trương ấn bản lần nầy cho chúng ta biết rằng Kinh Kim Cang có một
vị trí vô cùng quan trọng trong toàn bộ hệ thống văn học tư tưởng Bát
Nhã. Ngài đã đề xuất thêm là bộ Kinh Đại Bát Nhã gồm có 600 quyển trong
đó có 60 hội thuyết kinh của Đức Phật. Trong số 60 hội nầy, Kinh Kim
Cang thuộc hội thứ chín. Ngài còn chỉ cho chúng ta biết thêm rằng
Kinh Kim Cang đã được chia thành 32 phẩm bởi hoàng tử Chiếu Minh
(499-529) thuộc đời nhà Lương (502-557) của Trung Hoa.
Trong bài tựa của bộ
kinh thứ năm (trong số 16 ấn bản đang tàng trử tại Viện Hán Nôm, Việt
Nam) được in vào năm 1822, mang số hiệu là AC.320, người chủ trương in
ấn lần nầy, Ngài Sa Môn Tính Tỉnh Diên Trường, thông báo cho chúng ta
một trường hợp đặc biệt của sự xuất hiện Kinh Kim Cang tại Việt
Nam. Ngài nói rằng có một thương gia mang theo kinh nầy sang Việt Nam
từ Trung Hoa muốn hiến cúng bộ Kinh Kim Cang cho chùa Bổ Đà.
Trong kinh nầy, có một đoạn kinh nói rằng trong vòng cả ngàn năm mới có
một cơ hội duy nhất là có một vị Bồ Tát xuất hiện ra đời với bộ Kinh
Kim Cang. Ngài Sa Môn Tính Tỉnh Diên Trường một lần mở kinh liền
cảm thấy vô cùng an lạc hạnh phúc và đề nghị ngài Viện chủ chùa Bổ Đà,
Ngài Tịch Trai, và ngài Viện chủ chùa Nhất Trụ, Ngài Tịch Phu, đứng ra
vận động tài chánh để trả tiền cho việc điêu khắc chạm trổ Kinh Kim
Cang để ấn tống mà làm lợi ích cho tất cả Phật tử.
Những sự kiện vừa nêu
trên đây cho chúng ta biết chư Tăng trong hai ngôi chùa chưa bao giờ có
cơ hội được biết về Kinh Kim Cang. Khi họ có phước duyên lớn
được gặp bộ kinh nầy thật không thể nào diễn tả hết nỗi vui mừng hạnh
phúc vô biên của họ. Do vậy họ đã nỗ lực nghiên cứu học hỏi và tổ chức
việc khắc bản Kinh Kim Cang mà in ra thành nhiều bảng để phổ biến
rộng rãi.
Trong bài tựa của ấn
bảng Kinh Kim Cang vào năm 1825, mang số hiệu là AC 299, ấn bản
lần nầy được dựa theo ấn bản đã được phổ biến vào đời vua Khang Hy Trung
Quốc (1662-1723). Đây là ấn bản riêng đã được Hoà Thượng Phúc Điền thu
thập trong khi ngài sang Trung Hoa vào năm 1735. Ấn bản lần nầy không
có bài tựa mới mà chỉ khắc lại hai bài tựa đã có trong ấn bản đời Nhà
Thanh dùng làm bản đáy. Bài tựa đầu tiên trong hai bài tựa nầy được
viết vào năm thứ 41 đời vua Khanh Hy (1704). Tương tự vời ấn bản cuả
Kinh Kim Cang, được khắc bản năm 1886, ở đấy chúng ta không thấy có
tên tác giả của bài tựa nầy. Ấn bản năm 1886 mang bài tựa của bản chính
mà đã được dùng làm bản đáy cho ấn bản lần nầy. Bài tựa của ấn bản mới
mà đã được khắc bản và tàng bảng tại Chùa Hồng Phúc tại Hà Nội vào năm
1886; ấn bảng nầy có ngày tháng khắc bảng vào năm thứ nhất của đời vua
Càn Long (1736).
Ấn bảng cuối cùng của
Kinh Kim Cang mà đã được khắc bản vào năm thứ hai của vua Đồng
Khánh (1886), cho chúng ta biết về sự thâm hiểu những ý nghĩa quan trọng
của Kinh Kim Cang. Chúng ta không biết vị sư nào viết 4 trang
bài tựa cho ấn bản lần nầy. Trong trang đầu tiên của bài tưạ, người chủ
trương khắc bản giải thích về ý nghĩa của đề Kinh Kim Cang một
cách rất truyền thống bằng cách dựa theo đề kinh của Tiếng Phạn. Cách
giải thích nầy chúng ta có thể tìm thấy trong hầu hết những bản chú gỉai
khác nhau tại Trung Hoa. Để nhấn mạnh vị trí quan trọng của kinh, người
viết lời tựa trích dẫn câu kinh, “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (Hành
gỉa chớ nên chấp thủ vào bất cứ đối tượng nào để khởi lên cái tâm ấy (tâm
cầu quả vị giác ngộ vô thượng) – tâm phát nguyện làm cho tất cả chúng
sinh chứng đắc quả vị giải thoát niết bàn – mà đã khiến cho Lục Tổ
Huệ Năng giác ngộ trong truyền thống thiền Trung Hoa. Trong truyền
thống nầy, chúng ta biết rằng Lục Tổ Huệ Năng trở nên giác ngộ khi lần
đầu tiên trong đời được nghe đến câu kinh nỗi tiếng nầy tại Chùa Hoàng
Mai nơi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn lưu trú. Chúng ta còn thấy người viết lời tựa
đề cập đến một câu trong bài kệ ngộ đạo của Huệ Năng, “Bổn lai vô
nhất vật” ( Xưa nay vốn không có vật nào tồn tại độc lập) để khuyến
tấn hành giả của Thiền không nên dựa vào bất cứ hình tướng nào để tìm
cầu giác ngộ. Trong trang thứ ba của bài tựa nầy, người chủ trương khắc
bản đề cập đến công đức vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn qua sự thâm
hiểu thực tập và trì tụng cũng như nghiên cứu học hỏi kinh nầy. Người
chủ trương còn nói thêm rằng việc khắc bản Kinh Kim Cang để in ra
nhiều bản phổ biến rộng rãi thì sẽ được công đức vượt trội hơn những
công đức đã được đề cập ở trên.
Kết luận:
Sự phân tích và diễn
dịch trên đây trong 16 văn bản khác nhau của Kinh Kim Cang, đã
được in ấn từ bảng gỗ, tàng trử tại thư viện của Viện Hán Nôm cho chúng
ta thấy sự nghiên cứu và thực tập của các Thiền gia Việt Nam mà đã được
ghi lại trong Thiền Uyển Tập Anh cũng đã cho chúng ta thấy một
bức tranh đầy mầu sắc của việc học hỏi Kinh Kim Cang tại Việt Nam
kể từ khi văn bản của kinh nầy được lưu hành trong cộng đồng trí thức
tăng lữ và cư sĩ Phật tử. Khía cạnh đầu tiên của bức tranh đầy mầu sắc
nầy đã chiếm cứ toàn bộ lịch sử của việc nghiên cứu và thực tập Kinh
Kim Cang trong cộng đồng tăng lữ và cư sĩ, đó là bảng dịch Kinh
Kim Cang từ tiếng Phạn ra tiếng Trung Hoa bởi Cưu Ma La Thập vào năm
401 (T.235)
Chúng ta có thể dựa
vào Thiền Uyển Tập Anh để truy tầm về những sự diễn dịch và trích
dẫn Kinh Kim Cang của những vị Thiền Sư Việt Nam. Tất cả những
vị Thiền Sư có mặt trong Thiền Uyển Tập Anh đã diễn giải, chú
thích hay trích dẫn về Kinh Kim Cang thì chỉ sử dụng duy nhất bản
dịch của Ngài Cư Ma La Thập. Điều nầy cho chúng ta thấy một điểm nỗi bậc
là các Thiền gia Việt Nam sử dụng duy nhất chỉ có bản Kinh Kim Cang
của Cưu Ma La Thập.
Như chúng ta đã thấy
trong phần thứ ba của luận văn nầy Kinh Kim Cang đã được trích
dẫn và nhắc đến ít nhất là bốn lần trong Thiền Uyển Tập Anh. Sự
kiện đầu tiên đã xãy ra rất sớm trong lịch sử của Thiền Tông Việt Nam.
Đó là sự kiện của Thiền sư Thanh Biện, người đã để ra tám năm trì tụng
Kinh Kim Cang vào thế kỷ thứ 17.
Sự kiện thứ hai ghi lại rằng Ni Sư Diệu Nhân, người đã giảng dạy Kinh
Kim Cang cho môn nhân của ni sư vào thế kỷ thứ 11 rằng đừng bao giờ
chấp chặt hay tìm kiếm Như Lai qua hình thanh sắc tướng.
Sự kiện thứ ba vào thế kỷ thứ 12
được cho rằng đó là Thiền sư Trí Không, người đã khuyến tấn môn đệ của
mình là Trí Nhàn hãy quán chiếu về những nhân duyên yếu tố của các pháp
(để thấy bản thể của sự vật). Sự kiện thứ tư ghi lại rằng Thiền sư
Quảng Nghiêm chỉ dạy cho học trò của mình là Thường Chiếu hãy ngưng phỉ
báng Kinh Kim Cang và đức Phật mà hỏi Thầy mình (Quảng Nghiêm)
một câu hỏi vớ vẩn sau đây, “Phải chăng đức Phật đã giảng dạy kinh
nầy – Kinh Kim Cang?”
Câu kinh nầy trích dẫn một cách chính xác câu kinh trong bản dịch của
Ngài Cưu Ma La Thập, bảng dịch năm 401.
Thêm nữa, những lời
tựa và lời bạt của 07 ấn bản trong số 16 ấn bản của Kinh Kim Cang
còn tàng trử tại Viện Hán Nôm mà đã được viết nên bởi những nhà chủ
trương khắc bảng vào thế kỷ thứ 18 và 19 không có đề cập đến năm bản
dịch khác của Kinh Kim Cang ngoài bảng dịch của Ngài Cưu Ma La
Thập. Sự kiện nầy khiến chúng ta tin tưởng rằng cộng đồng tăng lữ và cư
sĩ Việt Nam chỉ sử dụng duy nhất bảng dịch Kinh Kim Cang của Ngài
Cưu Ma La Thập mà vô tình hay cố ý không động chạm hay nhắc đến năm bảng
dịch khác của Kinh Kim Cang. Có lẽ 05 bảng dịch đó không được
biết đến tại Việt Nam trong giai đoạn lịch sử văn hiến nầy. Hoặc là sự
lưu hành của 05 ấn bản đó quá giới hạn trong một lãnh vực nào đó, ngay
cả các vị Thiền sư không có cơ hội đọc tụng đến nó.
Ngày nay, chúng ta
tiếp nhận một phương pháp mới về việc nghiên cứu phê bình, học tập kinh
điển của Phật giáo, các học giả Phật học khắp nơi chưa có cơ hội đào bới
tận gốc rễ để nghiên tầm về những ý nghĩa thâm áo của kinh điển đã được
lưu truyền tại Việt Nam. Hơn nữa, thế giới dường như thu nhỏ lại trong
lòng bàn tay của chúng ta với những phương tiện truyền thông và giao
thông hiện đại. Nhờ vậy ngày nay chúng ta mới có thêm nhiều tư liệu
liên quan đến kinh điển để cho chúng ta nghiên cứu, đối chiếu, phân tích
và phê bình. Trên phương diện nghiên cứu phê bình và phiên dịch về văn
bản học của kinh điển, chúng ta cần phải so sánh đối chiếu và sử dụng
càng nhiều tư liệu càng tốt ngỏ hầu khám phá những điều khác biệt giữa
những truyền thống kinh điển của tiếng Việt, tiếng Phạn, tiếng Tàu cũng
như tiếng Tây Tạng, đặc biệt trong trường hợp của Kinh Kim Cang
vì kinh này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc hành trì
thực tập của Phật giáo Việt Nam.
Chúng ta biết rằng
chúng ta đang sinh vào thời mạt pháp, cách Phật rất xa đã trên 25 thế kỷ.
Vì thế chúng ta không thể nào có được những bản kinh nguyên thuỷ được
viết bằng tiếng Phạn. Tuy vậy, càng so sánh, phân tích đối chiếu những
văn bản mà chúng ta có được, thì chúng ta sẽ tìm được thêm nhiều thông
tin và ý nghĩa uyên áo của kinh điển. Sự kiện nầy sẽ đem lại lợi ích
nhiều cho chúng ta trong việc nghiên cứu và hiểu biết chính xác về lời
dạy của Đức Phật.
THÍCH HẠNH TUẤN
http://buddhismtoday.com/viet/kinh/kinhkimcang_vietnam.htm