PHẬT GIÁO KHMER ĐỒNG BẰNG NAM BỘ
Tín ngưỡng cư dân Khmer
Nam Bộ
Cư dân Khmer trong vùng
đồng bằng sông Cửu Long cũng như vùng Đồng Nai với người Khmer tại
Kampuchia là cùng chung chủng tộc, sống trong hai quốc gia khác nhau;
thì trước kia đã có môt thời gian khá dài chung sống trong cộng đồng
Vương quốc Phù Nam; sau đó đến thế kỷ thứ sáu thì hợp lại trong cộng
đồng Chân Lạp, và kéo dài cho đến thế kỷ thứ XVIII. Trên một bình diện
khác, nền văn hoá truyền thống Khmer một khi đã chịu những ảnh hưởng văn
hoá Java, Malaysia, Thái Lan, Môn và những yếu tố gốc Ấn Độ, đã hình
thành từ lâu, trước khi những diễn biến lịch sử cách đây mấy thế kỷ. Từ
đó phân chia ra làm hai khối khác nhau: Khối Khmer đồng bằng sông Cửu
Long và khối Khmer Kampuchia. Mỗi khối do môi trường chính trị và văn
hoá khác nhau cho nên cũng theo một hướng đi riêng biệt. vào thập niên
30 của thế kỷ XX, Liên bang Đông Dương được thành lập trong thời đô hộ
Pháp, họ mối có cơ hội giao lưu với nhau, nhưng chỉ giao lưu trên phương
diện hình thức mà thôi.
Phật
Giáo Tiểu Thừa trong quá khứ và hiện nay là tôn giáo chính, chi phối
những sinh hoạt tinh thần của người Khmer. Tuy nhiên, trước khi đoạ Phật
du nhập trong đất nước nầy, đã tồn tại một hệ thống tín ngưỡng phản ánh
nền văn hoá bản điạ. Ngày nay, các tín ngưỡng dân gian đó chỉ còn lưu
lại chút ít tàn dư hay pha trộn với những tập tục tín ngưỡng, phong tục
khác. Vấn đề tô tem giáo cũng được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Khmer
đề cập đến. Những khai quật cho biết: do điều kiện sinh hoạt của tộc
người Khmer từ trước, còn phụ thuộc vào thiên nhiên là cư dân ống trên
những vùng đất chinh phục từ đầm lầy, cho nên người Khmer đã sớm xem
loại bò sát - tiêu biểu là rồng, hay biến thể của rồng - là tô tem của
tộc mình.
Người Khmer thường truyền tụng đến câu chuyện kết hôn giữa Preah Tgôn và
Néăng Neak từ xa xưa, xem là điển hình của phong tục, tín ngưỡng, tập
quán. Những nghi thức trong đám cưới cổ truyền của Khmer, như tục nhuộm
răng, cắt quy đầu... đều in đậm dấu vết về Tô tem giáo của họ. Cho đến
nay người Khmer vẫn còn giữa lại tinh thần tín ngưỡng vật tổ. Nhiều ảnh
hưởng của Bà La Môn giáo sau đậm trong địa hạt nầy; chẳng hạn như rấn
thần naga được lưu truyền cho đến nay trong tín ngưỡng và văn hoá. rắn
thần Naga trong truyền thuyết là "tổ tiên" của người Khmer. Những lễ tục,
diễn xướng liên quan đến rắn thần được thể hiện trong nhiều hội lễ nhất
là trong lễ cuất gia của tuổi thành niên Khmer. Rắn thần lại còn được
xem là niềm tin và nguồn may mắn, được thể hiện trên điêu khắc chùa
chiền, trên các phù điêu đền tháp, trên những nông cụ. Chim Krut cũng là
một biểu tượng khác về vật tổ. Thành thử trong những hình thái sinh hoạt
bình thường, không được dùng rắn Naga và chim Krut môt cách bữa bãi.
Một
số chùa còn thờ thêm thần Arak. Đối với người Khmer, thì Arak có nghĩa
là những loài ma quỷ với ý nghĩa khác. Ngưởi Khmer quan niệm: Arak là
thần tổ của dòng họ 7 đời (?), đã biến thành ma quỷ thiêng liêng, nhưng
lại có khả năng bảo vệ cho cuộc sống cá nhân và gia đình họ. Arak thường
trừ khử hết những loại ma ác độc. Arak là môt nhân thần phái nữ đã chết,
có những tên họ cụ thể, có huyền thoại, đồng thời mỗi vị lại có những
nghi thức cúng lễ khác nhau, được ghi trong Thánh Lễ. Để thông đạt với
Arak, phải dùng đến đồng bóng. người lên đồng gọilà Rup Arak, tức là
truyền thông với thần linh. Nhiều đàn bà trởthàng các "Rup Arak" chuyên
nghiệp. Họ lên đồng để hiểu căn bệnhcủa kẻ yếu đau, hay để thoát những
tai ương xẩy ra bất thường. Ảnh hưởng tín ngưỡng Neak Ta thời cổ lưu
lại không nhỏ. Theo nguyên nghĩa thì Neak là con người nói chung; Tà là
người đàn ông đứng tuổi. Hai chữ hội lại thành ý niệm về những vị thần
linh. Neak Tà được biểu hiện ra Neak Tà Meha Sros là vị thần cầmđầu
trong các Phum Sóc, Neak Tà Watt là vị thần của chùa chiền đền miếu,
Neak Tà Ra Chay là thần của ao hồ, ngả ba sông, Neak Tà Sâm Rông là
thần của cây trôm, Neak Tà Đom Chreay là thần cây đa,cây đề. Qua những
hình tượng trên đây cho thấy người Khmer thường có xu hướng thờ Bách Vật
Giáo từ thời nguyên thuỷ còn lưu lại Neak Tà là thần bảo hộ. Những ngôi
chùa Khmer đều có dựng lên thần bảo hộ. Người Khmer có tục lệ thờ cúng
Arak và thờ cúng Neak Tà, hình thức của vị thần bảo hộ. Khi thờ cúng,
đồng bóng là nghi lễ không thể thiếu. Arăk có mặt bảo vệ trên nhiều
phương diện: bảo hộ gia đình, bảo hộ đất đai, bảo hộ làng mạc, ruộng
nương. Neak Tà là vị thần bảo hộ cho thôn xóm tương tự như Thành Hoàng.
Mỗi năm đều tổ chức lễ cúng vị Neak Tà rất trang trọng. Người Khmer phân
chia ra bốn loại Neak Tà khác nhau: Loại Neak Tà có tên gọi những vật
trong thiên nhiên, tên thựcvật hay tên của một đặc thù địa lý - Loại
Neak Tà mang tên người - Loại Neak Tà mang tên các vị thần Bà la Môn -
Loại Neak Tà tại chùa chiền.
Thành thử trong tín ngưỡng "Neak Tà" của người Khmer có đầy đủ các quan
hệ tín ngưỡng đa dạng, từ tín ngưỡng vạn vật hữu linh cho đến tục thờ
cúng tổ tiên, thờ cúng các thần trong đạo Bà La Môn và chư Phật trong
Phật Giáo. Ngưòi bình dân Khmer hiện nay vẫn còn sùng bái những vị thần
trong Bà La Môn: Brahma, Vichnu, Siva, Indra, được đặt dưới những danh
xưng: Prek Norey, Prek Proum, Prek Em, Prek Puon Nuk... những di chỉ
khai quật tại Óc Eo và tại Đồng Tháp có nhiều bức tượng của những vị
thần nầy. Hiện nay, những tàn dư của Bà La Môn Giáo chỉ tồn tại trong
những nghi lễ đồng bóng.
Trong việc phát triển Phật Giáo ở miền Nam, không thể không đề cập đến
Phật Giáo Nam Tông từ đất Cao Miên truyền bá sang theo con đường bộ.
Như vậy, từ thế kỷ thứ XVII trở đi, Phật Giáo đã theo nhiều hướng tiến
đến vùng đất nầy. Tại đây, những hệ phái chính gồm có: Bắc Tông, Nam
Tông và Phật Giáo Khất Sĩ. Địa bàn phát triển của miền Nam Việt Nam
được phân chia ra làm bakhu vực mang những đặc tính sinh hoạt khác nhau:
khu vực miền Đông Nam Phần, vùng Sài Gòn Gia Định và vùng đồng bằng sông
Cửu Long. Vùng đất miền Nam vốn là nơi cư trú và sinh hoạt của nhiều cư
dân khác nhau: Người Việt, Người Hoa, người Khmer, người Chăm - Pa...
Với một vị trí đặc biệt, qua những biến chuyển lịch sử, vùng đất miền
Nam đã trở thành nơi xẩy ra những cuộc giao lưu văn hoá của nhiều cộng
đồng cư dân. Thành thử, trong phạm vi tôn giáo – tín ngưỡng cũng có
những sắc thái đặc biệt. Những cuộc khai quật di chỉ văn hoá miền Nam
trong mấy chục năm gần đây, khiến cho những nhà nghiên cứu muốn phác
thảo lại lịch sử thành lập cũng như sinh hoạt cư dân thời cổ:
Những di chỉ
được khai quật tại những vùng Cầu Sắt (cách nay khoảng 5,000 năm) vùng
Núi Gốm vào thời đại đồ đồng (2,000 năm trước Công nguyên) vùng Dốc Chùa
của nền văn hoá đồng thau (3,145cách ngày nay). Con người trong những
giai đoạn nầy phải tập trung sống trong những vùng đất cao. Những khu mộ
cổ, những ditích cư trú cho thấy con người thời kỳ nầy phải vất vả lắm
mớithích nghi với thiên nhiên. Họ cố vươn xuống sinh họat trong vùngđồng
bằng, để ổn định cuộc sống hơn. Những thế kỷ đầu Công Nguyên, sự ra đời
của nền văn hoá Óc Eo là tiến bộ lớn. Thế là từ lúc nầy choi đến thế kỷ
thứ VIII, đã đánh dấu được một bước tiến dài trong cuộc chinh phục đồng
bằng sông Cửu Long. Đến đầu thế kỷ VIII, văn hoá Óc Eo bắt đầu tàn
lụi. Chân lạp thay thế vị trí Phù Nam. Vào thế kỷ XIII, trong thời đại
Angkor huy hoàng, khuôn mặt mới của đồng bằng sông Cửu Long đã "những
cửa rộng của con sông lớn chảy dài hàng trăm dặm, bóng mát um tùm... tạo
thành nhiều chỗ trú ngụ xum xuê" (trích Chân Lạp Phong Thổ Ký - Châu Đạt
Quan). Năm Giáp Tý 484 khi vua Kaundinya Jayavarman sai thiền sư
Nagasena sang Trung Quốc, đạo Phật đã dựng cơ sổ tại vùng đất Phù Nam.
Năm 539: dưới triều vua Rudravarman, triều đình liên tiếp cử nhiều phái
đoàn sứ thần sang Trung Hoa, tiếp nhận nhiều Phật tích. Dưới triều đại
Kaundinya và Rudravarman, Phù Nam đã xây chùa, tạc tượng rất nhiều.
Những cuộc khai quật cho thấy tại làng Phong Mỹ (Sadec) tượng đức Thích
Ca đứng bằng gỗ mù u. Tài liệu được đoán định vào thế kỷ IV. Năm 1943
phát hiện tại Cái Tàu Hạ (Mỹ Tho) tượng Phật đứng bằng gỗ sao. Tài liệu
được đoán định có niên đại thế kỷ II. Năm 1944 phát hiện tại Đá Nổi
(Rạch Giá) tượng Phật đứng, không đầu. Tài liệu được đoán định thuộc thế
kỷ V. Năm 1945: phát hiện tại làng Bình Hoà (Vàm Cỏ) tượng Phật bằng gỗ
sao. Tài liệu được đoán định thuộc thế kỷ VI.Di vật Hội Sơn và Phụng Sơn
(Sài Gòn): tại nền của ngôi chùa cổ nầy, tìm thấy những tượng Phật bằng
đồng. Di vật của vùng đất Thủy Chân Lạp. Ngoài ra, có nhiều di vật
Phật Giáo cổ xưa phát hiện được qua các lần khai quật khảo cổ học tại
Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang, Long An, Tây Ninh. Những nhà nghiên cứu
xác định: trước khi có những lưu dân từ vùng Thuận Quảng vào miền Nam
Việt Nam, thì tại đây, đạo Phật, Bắc Tông lẫn Nam Tông đã bành trướng.
Tôn giáo đóng
vai trò quan trọng trong ý thức hệ xã hội của người Khmer. Theo thống kê
của Phật Giáo Việt Nam thì trong toàn miền Nam có 419 ngôi chùa Khmer,
với khoảng 11,000 sư. Ngôi chùa người Khmer trở thành trung tâm sinh
họat tín ngưỡng của cộng đồng nầy.Cộng đồng của tộc người Khmer theo
Phật Giáo hệ phái Nam Tông, từ trước đã phân chia ra làm ba giáo phái
chính. Những giáo phái nầyđã ảnh hưởng cơ cấu tổ chức của Phật Giáo ở
Kampuchia, gồm: giáo phái Mohanikay, giáo phái Thommayutt và giáo phái
Theravada.
Theo tài liệu
trong "Người Việt gốc Miên" (1969) thì: Miền Nam Việt Nam có 482 chùa
theo phái Mohanikay, 18 chùa theo phái Thommayutt; giáo phái Theravada
do Sơn Thái Nguyên thành lập năm 1957. Từ đó toàn thể sư sãi Khmer đều
thuộc giáo phái nầy. Tuy nhiên, bộ Nội Vụ VNCH trước đây vẫn chưa chấp
thuân giáo phái nầy. Năm 1964, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất, Viện Hoá Đạo chỉ nhận giáo phái Theravada là đại diện cho giới sư
sải người Việt gốc Miên tại Trung ương. Những chùa chiền người Khmer ở
các tỉnh vẫn giữ nguyên giáo phái chính của mình.
Về hệ thống tổ
chức cơ sở của Phật Giáo Khmer như sau: Giáo hội trung ương nắm toàn
quyền về tổ chức và hành chánh. Giáo hội cấp tỉnh có Hội đồng kỹ luật sư
sãi (Salakon), do vị Mekhon ứng đầu. Ở giáo hội cấp huyện có Anukhon và
khu vực xã thì có Upachhlea. Từng chùa thì có Sãi Cả trụ trì; dưới Sãi
cả có hai Sãi phó và một vị Achar chuyên dạy giáo lý. Những tu sĩ trong
chùa được phân chia ra làm 2 bậc: đại đức và hoà thượng. Những tu sĩ đã
thọ 227 giới được gọi chung là Tỳ Kheo (Bikkhu). Dưới cùng là lớp Sa
di. (Trần Hồng Liên - 1996)
Kiến trúc
chùa Khmer
Nhìn chung, mỗi ngôi chùa
người Khmer trong vùng đồng bằng sôngCửu Long đều có một giá trị cao về
giá trị mỹ thuật Phật Giáo. Một ngôi chùa Khmer là sự tổng hợp hài hòa
về những yếu tố tạo hình, tạo dáng, điêu khắc, kiến trúc, hội họa. Môt
ngôi chùa Khmer thường được kiến lập trên một khu đất khá rộng rãi trong
mỗi địa phương. Có nhiều khu vực chục rộng đến hàng chục mẫu tây. Với
cảnh quan đó, chung quanh một ngôi chùa thường trồng nhiều loại cây to
như thốt nốt, dầu, sao, những cây đặc sản miền Nam. Mỗi ngôi chùa Khmer
thường bao gồm nhiều khu vực kiến trúc như: khu chánh điện, sala, nhà
tăng, nhà tu thiền định, nhà thiêu hương và những tháp thờ. Trước chùa
thường là cổng (tam quan) trang trí hoa văn theo kiểu kiến trúc đền tháp
Kampuchia. Vì là nơi cúng bái, hành lễ và cầu đảo, cho nên chánh điện
giữa vị trí trung tâm của ngôi chùa. Những nền chùa Khmer thường được
xây cất hơn mặt đất thường là một mét; phần để gia tăng vẻ tôn nghiêm;
phần để tránh mùa lũ lụt.
Chánh điện chùa Khléang tại
thị xã Sóc Trăng (1533) có ba bậc: mỗi bậc được bao quanh bằng một vòng
rào xây bằng gạch. Những hàng rào đều theo đúng các hướng đông, tây, nam,
bắc; mỗi hướng đều có cửa ra vào, trang trí mỹ thuật. Bên cạnh cổng vào
là những ngôi tháp nhỏ, mỗi loại điêu khắc và kiến trúc theo mỗi thể
điệu khác nhau. Cũng như những ngôi chùa Khmer khác, chùa Khléang có sân
rất rộng, thường dùng để tổ chức những ngày lễ lớn thường diễn ra trong
mỗi tháng. Khu chánh điện nằm vào trung tâm của toàn bộ quần thể nầy.
Nền nhà được cất cao hẳn lên, và phân chia thành ba cấp bậc có những bố
cục hoàn toàn khác nhau. Khu vực nầy được phân ra thành bốn phần, được
quay hẳn về bốn hướng ra vào khác nhau. Mỗi hướng giành riêng cho mỗi
hạng người khác nhau vào chùa, từ vị trụ trì đến chư tăng, thiện nam
tín nữ và những người phục vụ trong chùa.
Cũng nhờ kỹ thuật bố trí
khá hoàn chỉnh cho nên từ ngoài nhìn vào sẽ thấy ngôi chánh điện cao hẳn
lên; điều nầy có thể phân biệt được với chùa chiền cổ truyền Việt Nam.
Khung mái chùa uốn cao hẳn lên và được làm bằng loại gỗ quý, được đưa từ
nhiều vùng khác đến. Mái chùa được phân ra làm ba phần bọc quanh nhau
và những góc cạnh đều được trang trí và điêu khắc rất công phu. Những
nhánh cao vút lên ở những góc mái, mang hình tượng Vichnou cổ truyền.
Chung quanh chùa có nhiều cột cao san sát nhau tạo ra một hình tượng
vững chải và kỳ bí hẳn. Ba lớp la thành bọc quanh chiến phần lớn sân
chùa, khiến cho du khách tưởng tượng đến những hạn chế từng vùng riêng
biệt, mà nghi thức người Khmer thường đưa ra cho mọi tín đồ đến hành lễ.
Đặc biệt nhất là những hình
tượng Krud, tức là hình người đầu chim, một biểu trưng về "vật nhân nhất
thể". Ảnh hưởng Corinthien và Dorothien của Hy Lạp thể hiện rõ nét
nhất trong những mô hình nầy. Trong điện thờ và nhà Tổ có nhiêu bao lam;
những bao lam nầy vươn lên cao vút lên tận mái nhà. Tất cả những chi
tiết nầy đều được chạm trổ, điêu khắc lẫn hội họa; màu sắc rực rỡ và
được chiếu sáng rực hẳn lên (Nguyễn Quảng Tuân - 1990)
Mái chùa Khmer là phần kiến
trúc và trang trí nổi tiếng trong toàn bộ, cấu trúc khá phức ạp và độc
đáo. Khung mái thường dùng toàn loại gỗ quý, lợp ngói. Có một số chùa
lớn toàn thể bộ mái được đúc liền bằn xi măng và cẩn gạch nhiều màu (như
ngôi chùa Srâ Lâung, ở xã Đại Tâm, Sóc Trăng).
Thông thường trong kiến
trúc bộ mái chùa Khmer gồm có ba cấp; mỗi cấp mái lại chia làm ba nếp.
Nếp cẩn ở giữa thường lớn nhất và trang trí tinh vi nhất; còn hai nếp
phụ ở hai bên cân đối, hài hoà. Hai mái trên cùng lợp lại hợp thành góc
60 độ (Theo Lê Đắt Thắng- 1988). Hai đầu trống ở hai đầu mái được đóng
bít bằng một mảnh gỗ hình tam giác, được gọi là "Hô Cheang". Phần nầy
thường được khắc họa và trang trí rất đẹp. Trên đầu hai góc mái trên
cùng thường có một khúc đuôi rắn dài và con vút; nhờ vậy, trông đầu mái
có cảm giác nhẹ nhàng hẳn lên.
Trên hai mái trên cùng nầy,
ở phần giữa, thường xuất hiện một ngọn tháp cao vút (có chùa đến ba ngọn
tháp như chùa "Tắc Gồng" (Brasat Kông tại xã Tham Đôn, huyện Mỹ Xuyên).
Nắp tháp to lớn, có hình một quả chuông úp xuống, gồm có nhiều tầng
chồng lên nhau. Phía trên, có đặt một đầu tượng bốn mặt là vị thần "Maha
Prum", như tại chùa Bãi Xài (Mỹ Xuyên); trên cùng lại có đặt thêm một
cột thu lôi cao vút. Trên đầu góc của hai tầng mái dưới, thường thấy
xuất hiện rất nhiều đầu con rồng (theo họa tiết Khmer); thân rồng là một
bờ dãy, giương lên nhiều vi lưng. Những tài liệu của Malleret cho biết:
trong những thế kỷ trước, chùa tháp Khmer không có tháp nóc; kiểu tháp
nóc nầy do ảnh hưởng của nền kiến trúc Phật Giáo Thái Lan hay Miến Điện
sang. Trong điện thờ và nhà Tổ có nhiều bao lam; những bao lam nầy vươn
lên cao vút lêntận mái nhà.
Tất cả những chi tiết nầy
đều được chạm trổ, điêu khắc lẫn hội họa; màu sắc rực rỡ và được chiếu
sáng rực hẳn lên. Trên bàn thờ chính có nhiều tượng Phật trong những tư
thế và giai đoạn khác nhau trong đời của Ngài, từ khi đản sinh cho đến
hồi nhập diệt: ít nhất là 20 thể hình như thế. Sau mỗi pho tượng có đều
ghi chú xuất xứ của pho tượng và người mang tượng đến cúng chùa.
Trong chùa không có những
tượng Kim cương, tuy nhiên, ở những cửa ra vào thì được chạm nổi những
hình Theanin và Reahu trông rất dữ dằn. Thậm chí những hình Tiên Nữ trên
cửa hay trên cột trông cũng rất hung tàn, trong tư thế chiến đấu. Chánh
điện của chùa Khmer chiếm hầu toàn phần lớn và vị trí quan trọng từ
ngoài vào. Đây là gian phòng dùng trong việc hành lễ, thờ phụng, cầu đảo,
truyền đạo, hành đạo. Thông thường, cách bài trí chánh điện đơn giản,
nhưng không kém phần trang nghiêm. Trên bệ chính cao nhất, có nhiều tầng,
đặt pho tượng Phật. Những tượng Phật của chùa Khmer thường quay về hướng
đông. Giải thích về chọn phương hướng nầy, kinh điển Khmer cho rằng:
Phật Tổ ở phương tây thì bao giờ cũng quay về hướng đông, để phổ độ
chúng sanh. Phần bệ tượng chính thường khắc họa, trang trí một toà sen
rộng lớn, chia nhiều bậc và mỗi bậc đều có nhiều hoa văn trang trí mỹ
thuật. Bệ tượng thường là một toà sen và có nhiều bậc, được trang trí tỉ
mỉ. Trên bệ gồm một tượng Phật chính, thiết trí ở chính giữa; nhiều
tượng nhỏ chung quanh.
Khác với những ngôi chùa
Việt Nam và chùa Trung Hoa, những loại chùa Khmer chỉ thờ đức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni, không thờ các vị Phật, Bồ tát khác như đức Quán Thế Âm
Bồ tát, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, hay các vị Kim Cương, La Hán
và các Bồ tát khác. Toàn thể tượng và bệ tượng thường đặt phía sau một
cái khuôn lớn, có chạm khắc những mẫu hoa văn, hình kỷ hà rất tinh vi.
Nổi bật nhất hiện nay là ngôi chùa Srâ Lâung, còn bảo lưu nhiều khung
bằng gỗ, có những hình chạm trỗ rất đẹp.
Những kỹ thuật chạm khắc gỗ
tại chùa nầy được thể hiện qua những khung hình rất sắc sảo. Trong bố
cục, phần chánh điện thường được xây một nơi riêng biệt, cách xa hẳn các
dãy sala và nhà tăng, nhà hậu. Những kiến trúc chùa chiền Khmer, thì
sala là ngôi nhà xây đầu tiên khi dựng chùa; sala cũng được là kiểu "nhà
hội" của Phật tử, giảng đường của những sư sải. Sala cũng là nơi tiếp
khác trong những ngày đại lễ Phật Giáo; có nhiều trường hợp sala được
ngăn chia thêm những gian phòng nhỏ cho chư tăng hay nơi ngụ tạm cho
khách thập phương (Lịch sử chùa Khmer - Trang 112)
Trong sala, phần trung tâm
vẫn có bàn thờ Phật nhưng đơn giản hơn, và trong bố cục nầy thì sala
phải hướng về phía đông như bao nhiêu chánh điện khác. Theo tổ chức,
sala kiến tạo đơn giả hơn phần chánh điện. Nhìn tổng thể, thì những
sala hiện có ở những ngôi chùa Khmer miền Nam Việt Nam hiện nay, tất cả
đều được xây dựng theo quy cách hiệnđại; ngày trước sala chỉ là ngôi nhà
sàn nhỏ bé.
Thiết trí: Cách thiết trí
của sala không giống như chánh điện.Sala gồm có: phòng chính để cử hành
lễ dâng cơm, nơi tổ chức sinh hoạt, phòng tiếp khác, nơi tổ chức phòng
nhạc ngũ âm tế lễ. Tại chùa Bãi Xâu (Mỹ Xuyên) sala còn có thêm một dãy
nhà khách. Nơi đây thường tổ chức chúng thập loại chúng sinh, trai đàn
chẩn tế. Theo tập tục của người Khmer, nhất là trong tổ chức của tín đồ
Phật Giáo, người chết được hoả táng tại nhà thiêu. Việc xây cất nhà
thiêu không theo một quy định nào.
Trên nguyên tắc, nhà thiêu
chỉ là gian phòng nhỏ, thông gió, để áo quan, cách xa chùa, trên có ống
thông khói khi hỏa táng. Cũng có những kiểu nhà thiêu khác; chẳng hạn
như tại chùa Phướn (Trà Vinh) nhà thiêu có hình dáng cấu trúc lớn, với
diện tích rộng, nền cao, ống thông lớn. Mái nhà thiêu lại có nhiều tầng,
xếp chồng lên nhau. Trên mỗi đầu góc mái đều có trang trí hình rồng. Nhà
thiêu Khmer trông giống như kiểu đền thờ linh vật của Chăm - Pa. Kiểu
nầy chia hai phần: phần dưới là nhà thiêu; phần trên là ống khói. Trong
khu vực chung quanh chùa Khmer, thường có những loại tháp lớn nhỏ đủ
kiểu và loại khác nhau. Đây là những tháp để cốt. Những loại tháp nầy
thường được cấu trúc ba phần: chân tháp khá rộng, hình vuông, có một lỗ
nhỏ để cốt của người quá cố vào; thân tháp có nhiều tầng, nhỏ từ dưới
lên trên; đầu tháp là những mũi nhọn, trên đỉnh thường để đầu thần có
bốn mặt gọi là "Maha Prum". Phía trên đầu tượng nầy là cột sắt nhỏ,
nhọn, có nhiều lông nhỏ. Còn những ngôi tháp lớn thì lưu lại cốt của các
vị Sãi cả trong chùa, những người đã từng có công lao xây dựng và trùng
tu, kiến thiết chùa. Những ngôi tháp lớn hơn dùng để cốt của những người
dân trong Phum, Srok.
Hầu hết những cổng chùa
Khmer thường được trang trí, điêu khắc tỉmỉ và được xem là những công
trình nghệ thuật nổi tiếng. Tuy nhiên, những kiểu dáng của các chùa
không theo một khuôn mẫu nào nhất định. Chẳng hạn như cổng chùa Phướn
được xây dựng rất đồ sộ; phần trên là ba ngọn tháp theo kiểu cổng đền
Angkor, trang trí bằng những hoa văn rất đẹp; phần dưới cổng có hình
con rắn 7 đầu, nằm trên bờ lan can. Những cổng chùa theo mô thức Chăm -
Pa thì thường chạm khắc hình những người đua ghe Ngo.
Qua thống kê, những ngôi
chùa cổ Khmer đến nay chẳng còn lại bao nhiêu; phần lớn đã được trùng tu
hay xây dựng lại toàn thể. Qua nghiên cứu, thật khó khăn trong việc xác
định niên đại của từng ngôi chùa. Những ngôi chùa Khmer có niên đại lâu
đời nhất trong vùng đồng bằng sông Cửu Long như chùa Ông Mẹt (Trà Vinh)
chùa Bãi Xàu, chùa Khléang thì không lưu lại một phả tự. hầu hết đều
được nhắc trong truyện kể dân gian. Những ngôi chùa cổ được trùng tu một
phần hay toàn bộ, trong những thời kỳ khác nhau, tùy nhu cầu, phương
tiện và giai đoạn thịnh suy.
Vật liệu xây dựng cũng tùy
theo những yếutố nầy, thay đổi khác nhau, kiểu dáng của khác nhau. Những
ngôi chùa kiến tạo hay trùng tu về sau được dùng vật liệu bằng xi măng,
sắt, gạch, nên ảnh hưởng không ít đến việc xây dựng và quymô chùa. Thông
thường, một ngôi chùa trùng tu lại không tuân thủ theo kiểu dáng cũ,
theo quy tắc nào nhất định, có khi ngôi chùa trùng tu lại khác hẳn cơ sở
chùa nguyên thủy.
Nhìn chung lại, những chùa
chiền Khmer trong vùng đồng bằng sông Cửu Long đều không giống nhau về
hình dáng, kích thước, nhưng lại giống về kiểu thức, nguyên tắc kết cấu..
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/PhatgiaoKHMER.htm