Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

PHẬT GIÁO PHÙ NAM

Kiêm Đạt

 

Về vấn  đề tôn giáo  đất Phù Nam  trong giai đoạn  lập quốc, sách Lương Thư có  chép: "Người Phù Nam theo Bà  La Môn giáo, trước khi Phật Giáo du nhập. Đạo Bà La  Môn được xem là quốc giáo. Thứ đến là Phật Giáo".  Sách Tục Cao Tăng Truyện (q.1) chép: "Vị sư Tăng Già Bà La (Sanghapala), dịch là Tăng Dương hay Tăng Khải là người Phù Nam. Xuất  gia từ nhỏ, sớm tinh thông  Phật Pháp, đến tuổi đi học thì  xuất gia, chuyên nghiên  cứu "A Tì Đàm  Luận", tiếng tăm lừng lẫy, vang  vọng đến đất Hải Nam.  Ông đã dịch bộ  "A Dục Vương Kinh" và bộ "Giải Thoát Đạo Luận".

Ngoài  ra, một  vị cao  tăng Phù  Nam khác  là sa  môn Mạn  Đà La (Mandra), người Hoa  dịch là Hoằng Nhược đã  phiên dịch nhiều kinh sách, trong đó  nổi tiếng là "Pháp Giới Thể  Tính Kinh", "Bản Vân Kinh" và "Văn Thù Bát Nhã Kinh".

Sách "Lịch Đại Tam Bảo Kỷ" nói về giao lưu Phật Pháp giữa Phù Nam và Trung Quốc (năm 524) cho biết: "Nước Phù Nam đã phái (Tăng Già Bà La) mang sang Trung Quốc dâng  tặng những bộ kinh: A Dục Vương Kinh, Khổng  Tước Vương Kinh,  Văn Thù Sư  Lợi Kinh, Bồ  Tát Tạng Kinh, Cát Tường Kinh... tổng số lên đến 100 bộ kinh. Hai vị sư Tăng Già Bà La và  Mạn Đà La đều là người Phù Nam, dưới thời vua Sadabatma  được mời sang Trung Quốc  hoằng Pháp. Họ cũng mang nhiều kinh điển sang dâng tặng (theo Lịch Đại Tam Bảo Kỷ). Theo "Phù Nam  Phật Giáo khảo" thì: “Về mặt  tôn giáo của đất Phù Nam, trước  tiên theo đạo Bà  La Môn, về sau  Phật pháp cũng được thịnh hành; hơn  thế nữa, Phù Nam lúc bấy  giờ là một trạm chuyển dịch lớn của Phật Giáo di chuyển về phía đông".

Cho đến năm 540 trở về sau, thủ  đô Phù Nam bị Chân Lạp công phá, trở thành một thuốc quốc. Đến lúc nầy, Phù Nam đã suy vi. Những vị vua sau cùng  kéo thêm một thời gian (khoảng  10 năm nữa) thì mới bị Chân Lạp tiêu diệt.

Phật Giáo thời kỳ Chân Lạp

Chân Lạp với là một nước ở phía bắc của Phù Nam, chiếm cứ vùng hạ lưu sông  Mékong, trọng tâm sớm  nhất là Bassak; đất  đai bao gồm miền bắc Kampuchia và phía nam của Lào hiện nay. Năm  604,  Chân  Lạp  dưới quyền  thống  trị  của triều đình vua Bhavavarman I (550-600). Người Chân Lạp thời đó theo  đạo Bà La Môn cho nên khi đánh chiếm Phù Nam vẫn chủ trương đưa  tôn giáo nầy lên hàng đầu. Phật Giáo chỉ còn giữ trong dân gian. 

Sử liệu thời nầy chỉ nhắc trong vài biến chuyển.  Chẳng hạn như "Nam Hải Quy  Truyện" của Pháp sưNghĩa Tịnh  có chép: "Chân  Lạp dưới triều  vua Bhavavarman I  và Mahendravarman  đều theo  đạo Bà  La Môn.  Phật Giáo  từng bị bức hại". Sách  "Tùy Thư (q.28)  chép: "Kinh đô  Chân Lạp có  đền thờ thần; 2  vị thần  chính là Shiva và  Bhandna. Khi  cúng tế thì dùng  thịt người. Nhà vua hàng năm giết người đem tế thần, lễ tế cử hành ban đêm, có  hàng vạn người túc  trực. Họ tôn thờ  qủy thần; cũng tôn phụng Phật Pháp, lại tin vào đạo sĩ..."

Xem như thế Phật Giáo chỉ là  cái bóng mờ nhạt trong thời kỳ nầy. Sự hỗn dung tôn giáo (Bà La Môn và đạo Phật) thịnh hành trong dân gian. Nhà vua kế ngôi là Bhavavarman  II; ông chính thức đưa thần Shiva (Thấp Bà)  của Bà La Môn  thành tín ngưỡng  quốc gia; sau lại thờ thêm thần Vichnou. Phật  Giáo Đại Thừa chỉ lưu hành trong dân gian.

Năm 705, dưới  triều vua Thần Long, đất Chân  Lạp chia làm 2: Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. Lục  Chân Lạp ở vùng núi non phía bắc, Thủy Chân Lạp ở vùng đồng bằng và ven biển ở phía nam, bao gồm đất đai cũ của Phù Nam,vùng trung du sông Mékong đến rặng núi Dagret. Chính trị của Lục  Chân Lạp phía bắc tương đối ổn định, nhưng tại  Thủy Chân Lạp  ở phía nam  thì thường xuyên  gặp nhiều biến động, rối ren. Cả hai miền  đều tiếp thu văn hoá và tôn giáo Ấn  Độ. Việc thờ  phụng đạo Shiva  được phát triển,  trong khi Phật Giáo Tiểu thừa cũng bành trướng mà không gặp trở ngại nào.

Dựa vào những di  tích, di chỉ còn lại, có thể  nhận định các đặc trưng như sau:

1- Phong  cách Ta Phom (Tháp  Phổ La): Xuất hiện  vào cuối thế kỷ VI. Tiêu biểu cho văn hoá và tôn giáo của Phù Nam trước kia.  Những công trình điêu khắc gồm tượng đạo Bà La  Môn lẫn đạo Phật, với  đường nét Ấn Độ. Còn thấy được dấu ấn của nghệ thuật Angkor.

2- Phong cách  Sambor Prey Kuk (Tam Bi Lị  Cổ): Xuất hiện vào thế kỷ VII. Đa số là di tích chùa chiền  Phật Giáo Tiểu Thừa.  Vết tích kinh thành  Y Xa La là nét đặc trưng nhất. Nhiều trụ đá  khắc kinh Phật Giáo với hoa văn mỹ thuật. Cũng chịu ảnh hưởng văn hoá Ấn.

3- Phong cách Prei Kmeng (Ba Lị Mẫu): Xuất hiện thế kỷ VIII. Kiến trúc, điêu khắc  và đồ họa không khác  gì mấy 2 thời kỳ  kể trên. Những pho tượng  thần Vichnou và Siva nổi bật  nhất, trong khi đó tượng đức Quan Thế Âm Bồ tát (Avalokitesvara) khá phổ biến. Qua những phong cách các giai  đoạn trên cho thấy: Tượng Thần của đạo Bà La Môn  và tượng Phật của đạo Phật khá  phổ biến. Nhiều bi ký ghi khá  rõ văn hoá Phật Giáo. Điêu  khắc phong phú, tuy nhiên vẫn không đặc sắc bằng thời kỳ Phù Nam trước đó.

IV-  Thời kỳ Angkor

Đây là  thời kỳ phát triển  mạnh nhất của Vương  Quốc Kampuchia.Vua Xà Da Bạt Ma là người khai sáng Vương triều nầy. Angkor  là  tên  kinh  đô  được  xây  dựng  phía  tây bắc Biển Hồ (Tonlésap), nay  là tỉnh Siemrap.  Những nhà vua  kế tiếp đã  xây dựng Angkor  với những đền tháp  đồ sộ, với những  công kình kiến trúc và điêu khắc cực kỳ hoành tráng mà vết tích còn lưu lại đến nay. Phần lớn những công trình nầy đều mang vết tích và tinh thần của Bà La Môn giáo.

Ngay từ khi xây dựng kinh đô nầy,  nhà vua đã cho mời một tăng lữ đạo Bà La Môn là Hiranyadema đến triều đình chủ trì nghi thức tôn giáo, xoá bỏ những vết tích của triều đình Trảo Oa trước đó. Phải đợi  đến khi vua Yasovarman  (889-900) lên ngôi mới  bắt đầu cho phát  triển một tôn giáo.  Phật Giáo được phát  triển mạnh từ đó. Nhiều Tăng viện Phật Giáo được kiến tạo tại Angkor và các địa phương  trong cả  nước. Đứng  đầu Giáo  Hội Phật  Giáo có vị Tăng trưởng lãnh đạo.

Vào  nửa đầu  thế kỷ  XI, vua  Suryavarman trị  vì (1002-1050) có khuynh hướng phát triển hòa đồng  tôn giáo sâu rộng hơn, đưa Phật Giáo về vùng nông thôn. Sau khi ông qua đời, được đặt tên thụy là "Niết Bàn Già" (Nirvanaprati).  Vua Suryavarman VII cũng như vua cha là một tín đồ thuần thành Phật Giáo. Nhà vua cho  xây chùa, điện  tháp Phổ Long và chùa Neak  Pean ở Ta Proym. Chùa Banteay Chonan  được xây dựng cùng  thời với Angkor Thom  và chùa Bayon. Đó là 3 công trình vĩ đại trong giai đoạn nầy, còn bảo lưu đến nay.

Theo "Chân Lạp Phong Thổ Ký" của Chu Đạt Quan thì  "Chùa Bayon bao gồm 54 toà tháp đá, tháp  chính ở trung tâm  cao 43 mét, có  toà tượng Phật ngồi, đằng sau tượng  Phật có tượng Long Vương Naja  hộ vệ. Chung quanh các  toà tháp  đá đều  có những  công trình  điêu khắc Phật Giáo”.  Trong "Ấn Độ Chi Na văn minh sử" có chép: "Vua Suryavarman VII do chịu ảnh hưởng  của Phật Giáo, cho nên rất  nhân từ, đức hậu. Vuaquan tâm sâu sắc đến phúc lợi của xã hội thời đó. Nhà vua cho xây nhiều  y  viện để chữa  trị cho dân;  một y viện  đều có tượng đức Dược Sư Quang Vương Phật. Chùa Bayon  có tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát rất lớn; kế  cận có tượng Vichnou. Angkor thời đó là trung  tâm của Phật Giáo Đại Thừa. Tôn trọng Phật Giáo, đồng thời cũng tôn trọng  Bà La Môn Giáo, nhà vua đã tạo được thế hoà hợp tuyệt diệu..."

Thành thử sau khi nhà vua băng  hà, được triều đình biểu hiện tên thụy của ngài là "Phật Giáo Đồ tối cao vĩ đại" (Maha Paramasugata). Chân Lạp  Phong Thổ Ký cho  biết: "Đây  là thời  kỳ huy  hoàng nhất  của triều Angkor. Mọi tôn giáo đều được  coi trọng. Người theo đạo Nho được gọi là "Pandita"; sư tăng Phật Giáo được gọi là "Chaukou", đạo sĩ Lão Giáo được  gọi là "Tanpassin". Những danh  xưng nầy nhấn mạnh đến đạo hạnh của mỗi tôn giáo. Mọi ngôi chùa đều lợp ngói, chỉ có1 pho tượng Phật  Thích Ca Mâu Ni (gọi là  Prah). Chư tăng mặc áo vàng để hở vai, đi chân đất, cạo tóc, quần vàng".  Qua tài liệu trên cho thấy: đạo Phật Kampuchia thời đại Angkor đã phát triển theo  hướng Nam Truyền, khác với  Phật Giáo Bắc Truyền như các thời đại trước đây (thời kỳ Phù Nam và thời kỳ Chân Lạp). Sử liệu  trình bày về nhiều  cao tăng người Môn  của Miến Điện và Tích Lan sang hoằng pháp trong thời đại Angkor vào thế kỷ XIII và XIV.

Trên một  văn bia khai  quật được năm  1821 cho thấy:  "Vào khoảng cuối thế kỷ XIII, nhiều cao tăng  từ Lục Khôn đến truyền giáo tại Angkor. Lục Khôn thuộc quyền thống trị của vua Mã Lai". Nhưng rồi tình hình nầy đã thay đổi lớn vào thế kỷ XIV. Bi ký tìm thấy ở Kapilapura cho biết: "Trong  thời kỳ nầy (1330), Bà La Môn Giáo  và Đại  Thừa Phật  Giáo triều  Angkor dần  dà bị suy thoái. Trong khi đó, Phật  Giáo Thượng Tọa Bộ du nhập từ Tích Lan sang". Trong  "Lịch Sử  Phật Giáo  Thế Giới"  của Tịnh  Hải Pháp Sư nhấn mạnh: Phật Giáo  Thượng Tọa bộ (Tiểu Thừa)  truyền vào Kampuchia bắt đầu từ thời kỳ vua Jayavarman VIII, 1243-1295 của Vương triều Angkor. Vì rằng khi phái đoàn của  Chu Đạt Quan đến Kampuchia  vào 1296-1297  nhìn thấy tình hình Kampuchia đã là Phật Giáo Thượng  Tọa bộ từ Tích Lan truyền sang.

Việc sùng bái  Phật Giáo trong thời điểm nầy  phải kể đến sự kiện nhà vua Srijayvarman đã bỏ ngôi  báu để nhường cho người em, xuất gia tu hành  theo Phật Giáo. Những chứng tích  và bi ký khai quật cho thấy:  Phật Giáo trong  thời kỳ nầy  bành trước rất  sâu rộng trong quảng đại  quần chúng; còn đạo Bà La  Môn thì chỉ còn lưu chứng tích tại cung đình mà thôi. Sử Lào cũng chép: Năm 1345, vua Phà Ngừm của  Lào Quốc đã lễ thỉnh 22 vị  cao tăng Phật Giáo Thượng Tọa Bộ từ Angkor sang  Lào hoằng dương Phật pháp. Cuộc dời kinh  đô từ Angkor trở về Phnom  Penh được thực hiện năm 1434, do  vua Bang Cáp  Da Đặc  thực  hiện. Mục đích  chính là để tránh nguy cơ xâm lược của Thái Lan.

Trong khoảng thời  gian 1516-1566, vua Ang Chan  của Kampuchia đã nhiều lần đánh bại sự xâm lược  của quân Thái Lan, thu phục những phần đất bị mất trước đây.  Trong lịch sử Kampuchia, nhà vua được coi là một nhân vật vĩ đại sau thời kỳ Angkor. Vua Ang Chan cũng là một  tín đồ Phật Giáo;  nhà vua cho xây  dưng nhiều chùa tháp Phật Giáo tại kinh đô và các vùng phụ cận.

 

 

http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/PhatgiaoPhuNam.htm

 


Vào mạng: 1-8-2007

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang