PHẬT GIÁO PHÙ NAM
Về vấn đề tôn giáo đất Phù Nam trong giai đoạn
lập quốc, sách Lương Thư có chép: "Người Phù Nam theo Bà La Môn giáo,
trước khi Phật Giáo du nhập. Đạo Bà La Môn được xem là quốc giáo. Thứ
đến là Phật Giáo". Sách Tục Cao Tăng Truyện (q.1) chép: "Vị sư Tăng Già
Bà La (Sanghapala), dịch là Tăng Dương hay Tăng Khải là người Phù Nam.
Xuất gia từ nhỏ, sớm tinh thông Phật Pháp, đến tuổi đi học thì xuất
gia, chuyên nghiên cứu "A Tì Đàm Luận", tiếng tăm lừng lẫy, vang vọng
đến đất Hải Nam. Ông đã dịch bộ "A Dục Vương Kinh" và bộ "Giải Thoát
Đạo Luận".
Ngoài ra, một vị cao tăng Phù Nam khác là sa
môn Mạn Đà La (Mandra), người Hoa dịch là Hoằng Nhược đã phiên dịch
nhiều kinh sách, trong đó nổi tiếng là "Pháp Giới Thể Tính Kinh", "Bản
Vân Kinh" và "Văn Thù Bát Nhã Kinh".
Sách "Lịch Đại Tam Bảo Kỷ" nói về giao lưu Phật Pháp
giữa Phù Nam và Trung Quốc (năm 524) cho biết: "Nước Phù Nam đã phái (Tăng
Già Bà La) mang sang Trung Quốc dâng tặng những bộ kinh: A Dục Vương
Kinh, Khổng Tước Vương Kinh, Văn Thù Sư Lợi Kinh, Bồ Tát Tạng Kinh,
Cát Tường Kinh... tổng số lên đến 100 bộ kinh. Hai vị sư Tăng Già Bà La
và Mạn Đà La đều là người Phù Nam, dưới thời vua Sadabatma được mời
sang Trung Quốc hoằng Pháp. Họ cũng mang nhiều kinh điển sang dâng tặng
(theo Lịch Đại Tam Bảo Kỷ). Theo "Phù Nam Phật Giáo khảo" thì: “Về mặt
tôn giáo của đất Phù Nam, trước tiên theo đạo Bà La Môn, về sau Phật
pháp cũng được thịnh hành; hơn thế nữa, Phù Nam lúc bấy giờ là một
trạm chuyển dịch lớn của Phật Giáo di chuyển về phía đông".
Cho đến năm 540 trở về sau, thủ đô Phù Nam bị Chân
Lạp công phá, trở thành một thuốc quốc. Đến lúc nầy, Phù Nam đã suy vi.
Những vị vua sau cùng kéo thêm một thời gian (khoảng 10 năm nữa) thì
mới bị Chân Lạp tiêu diệt.
Phật Giáo thời kỳ Chân Lạp
Chân Lạp với là một nước ở phía bắc của Phù Nam,
chiếm cứ vùng hạ lưu sông Mékong, trọng tâm sớm nhất là Bassak; đất
đai bao gồm miền bắc Kampuchia và phía nam của Lào hiện nay. Năm 604,
Chân Lạp dưới quyền thống trị của triều đình vua Bhavavarman I
(550-600). Người Chân Lạp thời đó theo đạo Bà La Môn cho nên khi đánh
chiếm Phù Nam vẫn chủ trương đưa tôn giáo nầy lên hàng đầu. Phật Giáo
chỉ còn giữ trong dân gian.
Sử liệu thời nầy chỉ nhắc trong vài biến chuyển.
Chẳng hạn như "Nam Hải Quy Truyện" của Pháp sưNghĩa Tịnh có chép:
"Chân Lạp dưới triều vua Bhavavarman I và Mahendravarman đều theo
đạo Bà La Môn. Phật Giáo từng bị bức hại". Sách "Tùy Thư (q.28)
chép: "Kinh đô Chân Lạp có đền thờ thần; 2 vị thần chính là Shiva
và Bhandna. Khi cúng tế thì dùng thịt người. Nhà vua hàng năm giết
người đem tế thần, lễ tế cử hành ban đêm, có hàng vạn người túc trực.
Họ tôn thờ qủy thần; cũng tôn phụng Phật Pháp, lại tin vào đạo sĩ..."
Xem như thế Phật Giáo chỉ là cái bóng mờ nhạt trong
thời kỳ nầy. Sự hỗn dung tôn giáo (Bà La Môn và đạo Phật) thịnh hành
trong dân gian. Nhà vua kế ngôi là Bhavavarman II; ông chính thức đưa
thần Shiva (Thấp Bà) của Bà La Môn thành tín ngưỡng quốc gia; sau lại
thờ thêm thần Vichnou. Phật Giáo Đại Thừa chỉ lưu hành trong dân gian.
Năm 705, dưới triều vua Thần Long, đất Chân Lạp
chia làm 2: Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. Lục Chân Lạp ở vùng núi non
phía bắc, Thủy Chân Lạp ở vùng đồng bằng và ven biển ở phía nam, bao gồm
đất đai cũ của Phù Nam,vùng trung du sông Mékong đến rặng núi Dagret.
Chính trị của Lục Chân Lạp phía bắc tương đối ổn định, nhưng tại Thủy
Chân Lạp ở phía nam thì thường xuyên gặp nhiều biến động, rối ren. Cả
hai miền đều tiếp thu văn hoá và tôn giáo Ấn Độ. Việc thờ phụng đạo
Shiva được phát triển, trong khi Phật Giáo Tiểu thừa cũng bành trướng
mà không gặp trở ngại nào.
Dựa vào những di tích, di chỉ còn lại, có thể nhận
định các đặc trưng như sau:
1- Phong cách Ta Phom (Tháp Phổ La): Xuất hiện vào
cuối thế kỷ VI. Tiêu biểu cho văn hoá và tôn giáo của Phù Nam trước
kia. Những công trình điêu khắc gồm tượng đạo Bà La Môn lẫn đạo Phật,
với đường nét Ấn Độ. Còn thấy được dấu ấn của nghệ thuật Angkor.
2- Phong cách Sambor Prey Kuk (Tam Bi Lị Cổ): Xuất
hiện vào thế kỷ VII. Đa số là di tích chùa chiền Phật Giáo Tiểu Thừa.
Vết tích kinh thành Y Xa La là nét đặc trưng nhất. Nhiều trụ đá khắc
kinh Phật Giáo với hoa văn mỹ thuật. Cũng chịu ảnh hưởng văn hoá Ấn.
3- Phong cách Prei Kmeng (Ba Lị Mẫu): Xuất hiện thế
kỷ VIII. Kiến trúc, điêu khắc và đồ họa không khác gì mấy 2 thời kỳ
kể trên. Những pho tượng thần Vichnou và Siva nổi bật nhất, trong khi
đó tượng đức Quan Thế Âm Bồ tát (Avalokitesvara) khá phổ biến. Qua những
phong cách các giai đoạn trên cho thấy: Tượng Thần của đạo Bà La Môn
và tượng Phật của đạo Phật khá phổ biến. Nhiều bi ký ghi khá rõ văn
hoá Phật Giáo. Điêu khắc phong phú, tuy nhiên vẫn không đặc sắc bằng
thời kỳ Phù Nam trước đó.
IV- Thời kỳ Angkor
Đây là thời kỳ phát triển mạnh nhất của Vương Quốc
Kampuchia.Vua Xà Da Bạt Ma là người khai sáng Vương triều nầy. Angkor
là tên kinh đô được xây dựng phía tây bắc Biển Hồ (Tonlésap),
nay là tỉnh Siemrap. Những nhà vua kế tiếp đã xây dựng Angkor với
những đền tháp đồ sộ, với những công kình kiến trúc và điêu khắc cực
kỳ hoành tráng mà vết tích còn lưu lại đến nay. Phần lớn những công
trình nầy đều mang vết tích và tinh thần của Bà La Môn giáo.
Ngay từ khi xây dựng kinh đô nầy, nhà vua đã cho mời
một tăng lữ đạo Bà La Môn là Hiranyadema đến triều đình chủ trì nghi
thức tôn giáo, xoá bỏ những vết tích của triều đình Trảo Oa trước đó.
Phải đợi đến khi vua Yasovarman (889-900) lên ngôi mới bắt đầu cho
phát triển một tôn giáo. Phật Giáo được phát triển mạnh từ đó. Nhiều
Tăng viện Phật Giáo được kiến tạo tại Angkor và các địa phương trong
cả nước. Đứng đầu Giáo Hội Phật Giáo có vị Tăng trưởng lãnh đạo.
Vào nửa đầu thế kỷ XI, vua Suryavarman trị vì
(1002-1050) có khuynh hướng phát triển hòa đồng tôn giáo sâu rộng hơn,
đưa Phật Giáo về vùng nông thôn. Sau khi ông qua đời, được đặt tên thụy
là "Niết Bàn Già" (Nirvanaprati). Vua Suryavarman VII cũng như vua cha
là một tín đồ thuần thành Phật Giáo. Nhà vua cho xây chùa, điện tháp
Phổ Long và chùa Neak Pean ở Ta Proym. Chùa Banteay Chonan được xây
dựng cùng thời với Angkor Thom và chùa Bayon. Đó là 3 công trình vĩ
đại trong giai đoạn nầy, còn bảo lưu đến nay.
Theo "Chân Lạp Phong Thổ Ký" của Chu Đạt Quan thì
"Chùa Bayon bao gồm 54 toà tháp đá, tháp chính ở trung tâm cao 43 mét,
có toà tượng Phật ngồi, đằng sau tượng Phật có tượng Long Vương Naja
hộ vệ. Chung quanh các toà tháp đá đều có những công trình điêu
khắc Phật Giáo”. Trong "Ấn Độ Chi Na văn minh sử" có chép: "Vua
Suryavarman VII do chịu ảnh hưởng của Phật Giáo, cho nên rất nhân từ,
đức hậu. Vuaquan tâm sâu sắc đến phúc lợi của xã hội thời đó. Nhà vua
cho xây nhiều y viện để chữa trị cho dân; một y viện đều có tượng
đức Dược Sư Quang Vương Phật. Chùa Bayon có tượng đức Quan Thế Âm Bồ
Tát rất lớn; kế cận có tượng Vichnou. Angkor thời đó là trung tâm của
Phật Giáo Đại Thừa. Tôn trọng Phật Giáo, đồng thời cũng tôn trọng Bà La
Môn Giáo, nhà vua đã tạo được thế hoà hợp tuyệt diệu..."
Thành thử sau khi nhà vua băng hà, được triều đình
biểu hiện tên thụy của ngài là "Phật Giáo Đồ tối cao vĩ đại" (Maha
Paramasugata). Chân Lạp Phong Thổ Ký cho biết: "Đây là thời kỳ huy
hoàng nhất của triều Angkor. Mọi tôn giáo đều được coi trọng. Người
theo đạo Nho được gọi là "Pandita"; sư tăng Phật Giáo được gọi là
"Chaukou", đạo sĩ Lão Giáo được gọi là "Tanpassin". Những danh xưng
nầy nhấn mạnh đến đạo hạnh của mỗi tôn giáo. Mọi ngôi chùa đều lợp ngói,
chỉ có1 pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni (gọi là Prah). Chư tăng mặc áo
vàng để hở vai, đi chân đất, cạo tóc, quần vàng". Qua tài liệu trên cho
thấy: đạo Phật Kampuchia thời đại Angkor đã phát triển theo hướng Nam
Truyền, khác với Phật Giáo Bắc Truyền như các thời đại trước đây (thời
kỳ Phù Nam và thời kỳ Chân Lạp). Sử liệu trình bày về nhiều cao tăng
người Môn của Miến Điện và Tích Lan sang hoằng pháp trong thời đại
Angkor vào thế kỷ XIII và XIV.
Trên một văn bia khai quật được năm 1821 cho thấy:
"Vào khoảng cuối thế kỷ XIII, nhiều cao tăng từ Lục Khôn đến truyền
giáo tại Angkor. Lục Khôn thuộc quyền thống trị của vua Mã Lai". Nhưng
rồi tình hình nầy đã thay đổi lớn vào thế kỷ XIV. Bi ký tìm thấy ở
Kapilapura cho biết: "Trong thời kỳ nầy (1330), Bà La Môn Giáo và Đại
Thừa Phật Giáo triều Angkor dần dà bị suy thoái. Trong khi đó, Phật
Giáo Thượng Tọa Bộ du nhập từ Tích Lan sang". Trong "Lịch Sử Phật Giáo
Thế Giới" của Tịnh Hải Pháp Sư nhấn mạnh: Phật Giáo Thượng Tọa bộ (Tiểu
Thừa) truyền vào Kampuchia bắt đầu từ thời kỳ vua Jayavarman VIII,
1243-1295 của Vương triều Angkor. Vì rằng khi phái đoàn của Chu Đạt
Quan đến Kampuchia vào 1296-1297 nhìn thấy tình hình Kampuchia đã là
Phật Giáo Thượng Tọa bộ từ Tích Lan truyền sang.
Việc sùng bái Phật Giáo trong thời điểm nầy phải kể
đến sự kiện nhà vua Srijayvarman đã bỏ ngôi báu để nhường cho người em,
xuất gia tu hành theo Phật Giáo. Những chứng tích và bi ký khai quật
cho thấy: Phật Giáo trong thời kỳ nầy bành trước rất sâu rộng trong
quảng đại quần chúng; còn đạo Bà La Môn thì chỉ còn lưu chứng tích tại
cung đình mà thôi. Sử Lào cũng chép: Năm 1345, vua Phà Ngừm của Lào
Quốc đã lễ thỉnh 22 vị cao tăng Phật Giáo Thượng Tọa Bộ từ Angkor sang
Lào hoằng dương Phật pháp. Cuộc dời kinh đô từ Angkor trở về Phnom
Penh được thực hiện năm 1434, do vua Bang Cáp Da Đặc thực hiện. Mục
đích chính là để tránh nguy cơ xâm lược của Thái Lan.
Trong khoảng thời gian 1516-1566, vua Ang Chan của
Kampuchia đã nhiều lần đánh bại sự xâm lược của quân Thái Lan, thu phục
những phần đất bị mất trước đây. Trong lịch sử Kampuchia, nhà vua được
coi là một nhân vật vĩ đại sau thời kỳ Angkor. Vua Ang Chan cũng là một
tín đồ Phật Giáo; nhà vua cho xây dưng nhiều chùa tháp Phật Giáo tại
kinh đô và các vùng phụ cận.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/PhatgiaoPhuNam.htm